Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 117 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN. TRƢƠNG ĐIỀM ĐIỀM (ZHANG TIANTIAN). ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM TÊN RIÊNG CỦA NGƢỜI HÁN VÀ NGƢỜI VIỆT HIỆN NAY. LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ. THÁI NGUYÊN, 2012. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(2)</span> BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN. TRƢƠNG ĐIỀM ĐIỀM (ZHANG TIANTIAN). ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM TÊN RIÊNG NGƢỜI HÁN VÀ NGƢỜI VIỆT HIỆN NAY. CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ: 60 22 01. LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ. NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN VĂN KHANG. THÁI NGUYÊN, 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(3)</span> LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi, công trình này chưa từng công bố ở bất kì nơi nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình của mình.. TÁC GIẢ. TRƢƠNG ĐIỀM ĐIỀM (ZHANG TIANTIAN). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(4)</span> LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, các giáo sư, và của rất nhiều bạn bè, tôi xin gửi lời cảm ơn đối với tất cả các thầy cô, các bạn đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với GS.TS Nguyễn Văn Khang người thầy, đã tận tụy hướng dẫn tôi. Một lần nữa tôi xin được gửi lời cảm ơn tới tất cả, các thầy cô giáo, giáo sư tiến sĩ, các bạn đồng nghiệp đã nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học và công trình nghiên cứu này.. TÁC GIẢ. TRƢƠNG ĐIỀM ĐIỀM (ZHANG TIANTIAN). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(5)</span> i. MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục ............................................................................................................. i Danh mục các bảng ........................................................................................ iv MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 4 5. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 5 NỘI DUNG..................................................................................................... 6 CHƢƠNG I CƠ SỞ LÍ LUẬN .................................................................... 6 1.1. Danh xưng học và tên riêng ..................................................................... 6 1.1.1. Danh xưng học ...................................................................................... 6 1.1.2. Tên riêng… ........................................................................................... 7 1.2. Tên người và tình hình nghiên cứu tên người ở Trung Quốc, Việt Nam ................................................................................................. 13 1.2.1. Tên người ........................................................................................... 13 1.2.2. Tình hình nghiên cứu tên người ở Trung Quốc, Việt Nam ................. 16 CHƢƠNG II ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC, Ý NGHĨA CỦA TÊN NGƢỜI HÁN VÀ NƢỜI VIỆT......................................................... 21 2.1. Đặc điểm cấu trúc, ý nghĩa của tên người Hán ...................................... 21 2.1.1. Những vấn đề chung về tên người trong tiếng Hán ............................ 21 2.1.1.1. Khái niệm họ và tên ......................................................................... 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(6)</span> ii. 2.1.1.2. Đôi nét về nguồn gốc và sự phát triển họ người Hán ...................... 22 2.1.2. Đặc điểm cấu trúc của tên riêng người Hán........................................ 28 2.1.2.1. Nhận xét chung ................................................................................ 28 2.1.2.2. Mô hình cấu trúc của tên riêng người Hán ...................................... 29 2.1.2.3. Phân loại tên họ người Hán .............................................................. 31 2.1.2.4. Phân loại tên người Hán ................................................................... 32 2.1.3. Đặc điểm ý nghĩa của tên người Hán .................................................. 36 2.1.3.1. Khái quát về ý nghĩa của tên riêng................................................... 36 2.1.3.2. Ý nghĩa của tên họ người Hán ......................................................... 38 2.1.3.3. Ý nghĩa của tên người Hán .............................................................. 39 2.2. Đặc điểm cấu trúc, ý nghĩa của tên riêng người Việt ............................. 41 2.2.1. Khái niệm ―tên người‖ trong tiếng việt............................................... 41 2.2.2. Đặc điểm cấu trúc của tên riêng người Việt ........................................ 42 2.2.2.1. Mô hình cấu trúc của người Việt hiện nay ....................................... 42 2.2.2.2. Các thành phần của tên riêng người Việt ......................................... 44 2.2.3. Đặc điểm ý nghĩa của tên người Việt .................................................. 58 2.3. Tiểu kiết ................................................................................................. 59 CHƢƠNG III ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA TÊN NGƢỜI HÁN VÀ NGƢỜI VIỆT ................................................... 62 3.1. Đặt vấn đề............................................................................................... 62 3.2. Đặc điểm văn hóa xã hội của tên riêng người Hán ................................ 64 3.2.1. Chữ Hán và văn hóa tên người trong tiếng Hán ................................. 64 3.2.1.1. Vai trò của chữ Hán đối với tên người Hán ..................................... 64 3.2.1.2. Chữ Hán và ý thức văn hóa trong việc nghiên cứu tên người ......... 65 3.2.1.3. Chữ Hán với đặc điểm văn hóa của tên người Hán ......................... 67 3.2.2. Một số đặc điểm văn hóa xã hội của Trung Quốc liên quan đến cách đặc tên người Hán ........................................................................... 69 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(7)</span> iii. 3.2.2.1. Đặc điểm tâm lí xã hội của việc đặt tên ........................................... 69 3.2.2.2. Tính chính trị lịch sử của tên người ................................................. 73 3.2.2.3. Tính văn hóa xã hội của tên người ................................................... 75 3.2.2.4. Tính ngữ dụng trong việc đặt tên người........................................... 77 3.2.2.5. Sự ảnh hưởng của các yếu tố khác trong việc đặt tên của người Hán ................................................................................................... 79 3.3. Đặc điểm văn hóa xã hội của tên riêng người Việt ............................... 84 3.3.1. Chữ quốc ngữ với tên người Việt ........................................................ 84 3.3.2. Một số đặc điểm văn hóa xã hội của Việt Nam liên quan đến cách đặt tên của người Việt ......................................................................... 85 3.3.2.1. Đặc điểm tâm lí xã hội trong việc đặt tên người Việt ...................... 85 3.3.2.2. Tính lịch sử chính trị trong tên người Việt....................................... 88 3.3.2.3. Sử ảnh hưởng của các yếu tố khác trong việc đặt tên của người Việt ................................................................................................ 90 3.4. Tiểu kết .................................................................................................. 94 KẾT LUẬN .................................................................................................. 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 99 PHỤ LỤC ................................................................................................... 103. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(8)</span> iv. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU STT. Bảng biểu. Nội dung. Trang. 1. Bảng 2.1. 10 tên họ lớn của người Hán. 25. 2. Bảng 2.2. 100 họ thị người Hán phổ biến nhất. 26. 3. Bảng 2.3. Tên giáo viên của khoa Nhân Văn của Học viện. 33. Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc 4. Bảng 2.4. 15 họ phổ biến nhất tại Việt Nam. 49. 5. Bảng 3.1. Một số tên của các thời kỳ khác nhau của Trung. 73. Quốc 6. Bảng 3.2. Một số tên của người nông thôn Trung Quốc. 81. 7. Bảng 3.3. Một số tên của tầng lớp công nhân Trung Quốc. 82. 8. Bảng 3.4. Một số tên của lớp người trí thức Trung Quốc. 83. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(9)</span> 1. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong ngôn ngữ, tên riêng làm thành một mảng tên gọi khá đặc biệt. Chúng không chỉ có số lượng rất lớn, mà còn được cấu tạo dưới nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Trong ngôn ngữ học, tên riêng được nghiên cứu trong một chuyên ngành riêng biệt, đó là Danh xưng học(专有名词学). Danh xưng học nghiên cứu về quy luật cơ bản về nguồn gốc phát sinh, thành phần cấu tạo, quá trình phát triển và sự biến động của các tên riêng trong hệ thống ngôn ngữ. Danh xưng học bao gồm hai bộ phận quan trọng: Nhân danh học (姓名学) và Địa danh học(地名学). Nhân danh học (tên người) là một thành phần đặc biệt trong hệ thống từ vựng ngôn ngữ. Cùng với Địa danh học, nhân danh học chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống tên riêng. Tên người mang trong nó cả lịch sử, truyền thống, văn hóa, xã hội cũng như tất cả những gì đặc trưng cho mỗi cộng đồng dân tộc nhất định. Việc nghiên cứu tên người trên quan điểm của Nhân danh học không chỉ đưa tới những thành tựu mang tính chất ngôn ngữ học mà còn đem lại những lợi ích vượt ra khỏi khuôn khổ của ngôn ngữ học, từ đó nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng dân tộc. Vì vậy việc nghiên cứu Nhân danh học không phải đến nay mới tiến hành mà đã được nghiên cứu từ ba bốn nghìn năm trước (từ thời Hy Lạp cổ đại). Xuất phát từ vị trí quan trọng của tên người trong hệ thống tên riêng của một ngôn ngữ và vai trò quan trọng của chúng trong đời sống xã hội, mà chúng tôi chọn đề tài đối chiếu đặc điểm tên riêng của người Hán và người Việt hiện nay làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn này, với mục đích góp phần tìm hiểu những mối tương đồng và dị biệt trong tên riêng của người Hán và người Việt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn này là thông qua khảo sát đặc điểm trong tên của người Hán và người Việt, góp phần vào nghiên cứu tên người nói riêng, danh xưng học nói chung, cũng tìm ra những yếu tố ngôn ngữ văn hóa riêng của hai nước đã tác động đến đặc điểm tên người của nước đó như thế nào. Từ mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn này là: - Nhận diện những lý luận liên quan đến tên riêng của người Hán và người Việt. - Khảo sát thực tế cấu tạo tên riêng người Hán và người Việt, giải thích ý nghĩa trong tên riêng người Hán và người Việt. - So sánh đối chiếu tên riêng người Hán và người Việt, chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Hán, tên người làm thành một hệ thống nhỏ riêng biệt với nhiều hình thức biểu hiện đa dạng phong phú như: tên thật (正名), tên tục(诙名), tên húy (讳名), bút danh (笔名), tên hiệu(号) , nghệ danh(艺名), biệt danh(别名),... Trong phạm vi của luận văn này chúng tôi chỉ nghiên cứu về tên thật, các loại tên khác sẽ nghiên cứu trong một đề tài lớn hơn. Trong cuộc sống đời thường, một người có thể có một hay nhiều tên gọi khác nhau tùy thuộc vào lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa hay nguyện vọng cá nhân. Vào thời kỳ phong kiến trước đây, trẻ em ở nông thôn Việt Nam được gọi bằng tên tục như: Cu, Cò, Cứt, Đĩ, Tồ, Mẹt,…và cùng một lúc ở nông thôn Trung Quốc, trẻ em cũng có tên gọi là:狗娃(chó con),地瓜(khoai lan), 狗剩(chó thừa),傻妞(nàng dốt),二花(nhị hoa),铁蛋(trứng sắt)……bố mẹ gọi tên con như vậy chủ yếu là theo quan niệm dân gian: gọi con nhỏ bằng một tên xấu, hy vọng khi lớn lên các con sẽ có số phận tốt hơn, và trong qúa trình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(11)</span> 3. trưởng thành sẽ ít ốm đau, bệnh tật, hay ăn chóng lớn. Đây chỉ là phản ánh nguyện vọng của người lớn, tuy là nó có hơi dị đoan, lại được người dân coi như kinh nghiệm đúc kết thành, nhưng cũng có thể coi là một nét văn hóa đặc biệt ở nông thôn. Cho đến nay vẫn còn một số nơi giữ tập tục này kể cả ở thành phố, nhưng nó mang ý nghĩa khác. Khi đứa trẻ đã trưởng thành, người ta thường sử dụng tên thật (书名), ở Trung Quốc, tên này phải là tên ghi trên sổ hộ khẩu (户口簿), sau này đi học hoặc làm việc, kể cả là giấy đăng ký kết hôn đều phải sử dụng tên này. Bởi vì chỉ có tên thật mới có giá trị về mặt pháp lý. Tên thật được sử dụng trong các giấy tờ tùy thân,văn bằng chính thức của một người như: bằng tốt nghiệp (tiểu học, THCS, THPP, Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ...), bằng lái xe, giấy đăng ký kết hôn, bằng kỹ sư v.v... Có thể nói Nhân danh học nói riêng và Danh xưng học nói chung có một vị trí quan trọng và ý nghĩa nhất định trong đời sống của mỗi con người. Tuy vậy trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi chỉ tập trung vào nội dung chính là đối chiếu tên thật của người Hán và người Việt. Theo chúng tôi đây là vấn đề cơ bản và chủ yếu nhất trong hệ thống tên gọi chỉ người của một ngôn ngữ, bởi vì tên thật không chỉ là tên gọi khu biệt cho tính cá thể đơn nhất của đối tượng được gọi tên mà trong thành phần cấu tạo của chúng còn thể hiện được tính dân tộc đặc trưng cho mỗi cộng đồng nhất định. Các loại tên riêng chỉ người khác không phải là đối tượng chính của luận văn, ngoài ra để tìm rõ hơn mục đích của luận văn chúng tôi cũng tìm hiểu thêm các loại tên người thường dùng không phải là đối tượng chính nhằm làm tăng giá trị so sánh với đối tượng nghiên cứu. 3.2. Để đạt được mục đích của luận văn, chúng tôi đã tiến hành việc thống kê tên thật của người Việt và người Hán chủ yếu khai thác từ các tài liệu điện tử và các văn bản hành chính của chính phủ Việt Nam và chính phủ Trung Quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(12)</span> 4. như: sổ theo dõi dân số ở các địa phương(地方人口登记统计数据), danh sách các cán bộ công nhân viên chức làm việc trong một số cơ quan, tổ chức nhà nước(国家干部,公务员统计数据), danh sách học sinh, sinh viên(学生花名 册)ở các trường mẫu giáo(幼儿园), tiểu học(小学),THCS(初中), THPT (高中), Đại học(大学). Về tên người Hán, ngoài việc tham khảo các số liệu về tên người đã được công bố trong các tài liệu, chúng tôi còn sử dụng nhiều tên người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Đối với tên người Việt chúng tôi cũng sử dụng hơn 200 tên chính của lưu học sinh Việt Nam được lưu tại văn phòng và hơn 200 tên chính của sinh viên khóa 2009 và khóa 2010 đã và đang học tập tại Học Viện Hồng Hà. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên thực tế, tên người không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, mà còn là đối tượng nghiên cứu nhiều ngành khoa học xã hội khác như: dân tộc học, tâm lý học, xã hội học, sử học v.v... Như vậy việc nghiên cứu tên người cũng được tiến hành bằng nhiều phương pháp. Trong luận văn chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau: Phương pháp miêu tả và phân tích : đây là phương pháp nghiên cứu để tìm hiểu và nắm bắt biểu hiện ngữ nghĩa của tên gọi người Hán và người Việt. Phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu: phương pháp này sẽ giúp luận văn đạt được mục tiêu chính. Thông qua so sánh đối chiếu đưa ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa tên riêng người Hán và người Việt. Phương pháp qui nạp: phương pháp qui nạp cũng được gọi là phương pháp suy lí qui nạp, phương pháp này được sử dụng trong luận văn để có thể thông qua một cá thể suy ra đặc điểm phổ biến trong tên của người Hán và người Việt. Phương pháp điều tra: đây là một phương pháp của dân tộc học và xã hội học để khảo sát sự biến động của các tên người dưới sự tác động của các nhân tố xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(13)</span> 5. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa; phương pháp diễn dịch, quy nạp cùng các phương pháp khác như thống kê, phân loại… 5. Cấu trúc của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, có phần nội dung, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung chính gồm ba chương: Chương I: Cơ sở lí thuyết của Danh xưng học Chương này chủ yếu trình bày một số nội dung lí thuyết liên quan đến luận văn như lí thuyết danh xưng học, các nội dung liên quan đến tên riêng. Chương II: Đặc điểm cấu trúc, ý nghĩa của tên người Hán và người Việt Chương này trình bày các đặc điểm về mặt cấu tạo và ngữ nghĩa của tên riêng người Hán và người Việt. Về đặc điểm cấu tạo, luận văn miêu tả và khái quát các mô hình cấu tạo nên tên người Hán và tên người Việt. Về đặc điểm ngữ nghĩa luận văn miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa của tên người Hán và tên người Việt. Chương III: Đặc điểm về mặt xã hội, văn hóa của tên người Hán và tên người Việt Chương này khảo sát các nhân tố văn hoá xã hội tác động đến tên riêng của người Hán và người Việt hiện nay.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(14)</span> 6. CHƢƠNG І CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. DANH XƢNG HỌC VÀ TÊN RIÊNG 1.1.1. Danh xƣng học Ngành khoa học nghiên cứu tên riêng và nguồn gốc tên riêng trên tất cả các bình diện được gọi là Danh xưng học (专有名词学/ Onomastics ). Từ Onomastics khởi nguồn từ tiếng Hy Lạp「ὀνοματολογία」, và 「 ὄνομ α」nghĩa chính là―tên riêng‖. Phạm vi nghiên cứu của ngành Danh xưng học rất. rộng rãi, bởi vì gần như mọi sự vật đều có tên. Chính vì vậy, về mặt lí thuyết, việc nghiên cứu tên riêng có thể được tiến hành ở vùng địa lí, ở nhiều nền văn hóa và các thời kỳ khác nhau… Dựa trên mục đích thực tế, người ta có thể chia phạm vi nghiên cứu của Danh xưng học thành những nhóm nhỏ theo ngôn ngữ (ví dụ: nghiên cứu tên riêng theo tiếng Hán, nghiên cứu tên riêng theo tiếng Việt…), hoặc theo tiêu chí địa lí, lịch sử (ví dụ: nghiên cứu tên riêng ở nước Mỹ, nghiên cứu tên riêng chỉ người ở thời nhà Thanh của Trung Quốc…) Dựa trên đặc điểm của tên riêng, người ta chia khoa học nghiên cứu về tên riêng thành 2 chuyên ngành là Nhân danh học (姓名学) và Địa danh học (地名学). Nhân danh học (anthroponymie) là khoa học nghiên cứu về tên riêng chỉ người, chủ yếu nghiên cứu về các mặt như: phân loại, nguồn gốc, lịch sử, biến đổi, phân bố (về mặt địa lí), ý nghĩa về mặt văn hóa…Vì thế có thể nói trong hệ thống tên riêng của một ngôn ngữ, tên người làm thành một mảng tên gọi khá đặc biệt. Địa danh học là một môn học chuyên nghiên cứu về tên đất, tên địa điểm, đồng thời nghiên cứu về nguồn gốc, cấu tạo từ ngữ, ý nghĩa, biến đổi, qui luật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(15)</span> 7. phân bố, qui tắc viết và đọc của tên đất, và quan hệ giữa tên đất với thiên nhiên - xã hội. Địa danh học là một môn học chung của nhiều ngành xuất hiện ở thời cận đại. Từ khi ra đời nó đã có liên hệ đương nhiên và không thể tách rời với các môn Địa lý học, Ngôn ngữ học, Lịch sử học. Việc phân chia ngành danh xưng học thành nhân danh học và địa danh học là để thuận tiện hơn trong quá trình nghiên cứu tên riêng. Nhưng tên người và tên đất trong quá trình phát triển thường xẩy ra biến đổi, cho nên người ta thường nghiên cứu 2 đối tượng này cùng nhau, để việc nghiên cứu có hiệu quả hơn. Chẳng hạn, nhiều tên đất có nguồn gốc từ tên người như: ―thành phố Hồ Chí Minh‖ của Việt Nam, ―thủ đô Washington‖ của Mỹ, ―thành phố Trung Sơn‖(Tôn Trung Sơn) của Trung Quốc. Và cũng có nhiều người đặt tên gọi có nguồn gốc từ địa danh như: ―Hà Nội‖, ―vinh‖, ―Huế‖… trong tiếng Việt, ―Đại Khánh‖(mỏ dầu Đại Khánh), ―Trường An‖… trong tiếng Hán . 1.1.2. Tên riêng 1.1.2.1. Khái niệm “tên riêng” Theo tác giả Lê Trung Hoa ―tên riêng có hai loại: Nhân danh (tên người) và địa danh (tên địa điểm)‖ [I-7]. Quan niệm tác giả không sai nhưng chúng tôi có thể nói là không hoàn chỉnh. Tên riêng ngoài ra nhân danh và địa danh, còn có nhiều loại khác. Nói cụ thể hơn, tên riêng có thể phân chia thành những loại sau đây: 1) Nhân danh (tên người). 2) Địa danh (tên địa điểm). 3) Thần danh (tên thần thánh). 4) Vũ trụ danh (tên các ngôi sao, không gian vũ trụ và thiên thể v.v…) 5) Vật danh (tên gọi tất cả các sự vật biểu thị văn minh vật chất của con người). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(16)</span> 8. 6) Tên các tổ chức, các cơ quan trên toàn thế giới. 7) Tên động vật (ngoài người ra). 8) Tên thực vật. 9) Tên các thời kỳ, thời đại. 10) Tên các sự kiện xã hội. 1.1.2.2. Chức năng của tên riêng Hiện nay, đối với chức năng của tên riêng, các nhà nghiên cứu thường có quan niệm riêng, vẫn chưa có sự thống nhất. Tuy nhiên, trong các quan điểm này chúng ta vẫn thấy có một số điểm chung như nhau: 1) Chức năng định danh Theo tác giả Phạm Tất Thắng và một vài nhà nghiên cứu khác, ―chức năng định danh chính là chức năng gọi tên, chủ yếu để phân biệt cá thể với tập thể, tức là để khu biệt tên riêng với tên chung. Thí dụ như: sông, núi, hồ, biển…là tên chung, thì các tên riêng sông Hồng, núi Ba Vì, hồ Hoàn Kiếm… đã chứng tỏ tính khu biệt và tính duy nhất của tên riêng. Một tên chỉ riêng gọi cho một sự vật (người) duy nhất, và tên riêng này đã có sự liên kết với sự vật (người) này, duy nhất và ổn định (ngoài tình hình trùng tên ra).‖ [I-18] 2) Chức năng biểu vật Ngoài ra chức năng định danh, tác giả Phạm Tất Thắng còn cho rằng: tên riêng còn có chức năng biểu vật, ―khi thực hiện chức năng định danh, tên riêng cũng đồng thời thực hiện chức năng biểu vật. Bởi vì chức năng định danh chỉ là một dạng của chức năng biểu vật‖. 3) Chức năng nhận diện Theo tác giả Hoàng Phê: ―tên riêng chỉ có chức năng nhận diện, làm sao nhận diện cho đúng, không nhầm và dễ dàng‖ [I-14] . Ví dụ trong một câu ―cuối tuần này, chúng tôi sẽ lên núi Phanxipăng cắm trại‖ thì hễ nghe đến núi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(17)</span> 9. Phanxipăng là chúng tôi đã biết đây là chỉ núi cao nhất ở Việt Nam nằm ở địa phận Sa Pa, Lào Cai. Cũng như hễ nghe thấy một câu: Nguyễn Du là văn nhân vĩ đại của Việt Nam‖ thì chúng tôi ngay lập tức nghĩ đến tác giả của ―Truyện Kiều‖. 4) Chức năng ngữ nghĩa Theo tác giả Hoàng Tuệ, tên riêng có một chức năng cơ bản là chức năng ngữ nghĩa. Ông quan niệm: ―một tên riêng tạo nên trong trí óc ta sự liên hệ đến một thực thể trong tính chất cá thể. Đó là chức năng ngữ nghĩa của tên riêng. Chức năng đó xác định cho tên riêng một vai trò rất quan trọng đối với tư duy, đối với đời sống con người...‖ 5) Chức năng xã hội Ngoài chức năng ngữ nghĩa ra, tác giả Hoàng Tuệ cũng đưa ra quan điểm là: tên riêng còn có chức năng xã hội. Tác giả cho rằng: ―hễ có tên riêng thì một cá thể nhất định đã có quan hệ với xã hội và sẽ không tách rời khỏi xã hội được nữa. Các công trình, các tổ chức, cả những sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, trong ý nghĩa tinh thần vật chất đều bao hàm những quan hệ nhất định với xã hội‖, ―với chức năng xã hội của nó, tên riêng không phải là một con số, một cái nhãn chỉ có tác dụng đủ để phân biệt, mà là một biểu trưng‖.[I-25] 6) Chức năng ngữ dụng Nói tên riêng có chức năng ngữ dụng là vì chúng được dùng như một phương tiện biểu hiện tình cảm, quan hệ hay đánh giá đối tượng được gọi tên. Điều này được thể hiện rất rõ ở tính đặc thù trong sử dụng tên riêng đặc biệt là tên người ở mỗi dân tộc, mỗi ngôn ngữ. Qua việc gọi tên một người Việt Nam theo tên cá nhân, tên họ, tên đầy đủ chúng ta có thể thấy được mối quan hệ giữa họ là thân, sơ, hay kính trọng cũng như địa vị xã hội của người được gọi tên và người gọi tên. Với người Trung Quốc cũng vậy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(18)</span> 10. Ngoài những chức năng nêu trên, còn có một số tác giả cho rằng tên riêng còn có một số chức năng khác như: tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng, tên riêng có chức năng xưng hô; Tác giả Đào Tiến Thi cho biết: tên riêng còn có chức năng duy trì bản sắc văn hóa... Chúng tôi cho rằng chức năng tên riêng chắc chắn vẫn còn nhiều vấn đề mà chúng ta vẫn chưa khám phá hết, vì vậy chúng tôi cho rằng trong lĩnh vực tên riêng chúng ta vẫn còn nhiều điều để trao đổi và nghiên cứu sau này . 1.1.2.3. Ý nghĩa của tên riêng Trong lĩnh vực danh xưng học, các nhà nghiên cứu vẫn đang có nhiều tranh luận xung quanh một vấn đề cực kỳ quan trọng, đồng thời cũng khó giải quyết, đó là vấn đề tên riêng có nghĩa hay không có nghĩa. Về vấn đề này đã hơn một thế kỷ vẫn là một đề tài được tranh luận trong giới triết học. Nó vẫn là một vấn đề được giới học thuật triết học toàn thế giới quan tâm vì nó tạo ra hai trường phái quan niệm hoàn toàn đối lập nhau. Nhà triết học chủ nghĩa thực chứng nước Anh John S. Mill là đại diện của trường phái có quan niệm tên riêng không có nghĩa. Ông cho rằng: ―tên riêng chỉ là một kí hiệu của sự vật, bản thân nó hoàn toàn không có nghĩa. Tên riêng cũng giống như vệt phấn đánh dấu, nó không có nghĩa, mà chỉ có mục đích chỉ ra biểu vật‖. Nhà ngữ nghĩa học hiện đại nước Anh John Lyons cũng có quan điểm giống nhau với Mill. Saul A. Kriple cũng cho rằng: ―tên riêng chỉ gọi tên sự vật một cách cứng nhắc, mà không mang ý nghĩa hàm chỉ‖. Đối lập với trường phái Mill, trường phái do nhà triết học và nhà lô-gích học Đức Gottlob Frege là tiêu biểu lại có quan điểm trái lại: tên riêng vừa gọi tên sự vật vừa có ý nghĩa. Tác giả cho rằng: ―hai tên riêng đã cùng gọi tên cho một đối tượng giống nhau, nhưng ý nghĩa hai tên riêng này không chắc chắn giống nhau; Mà khi ý nghĩa của hai tên riêng giống nhau thì đối tương hai tên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(19)</span> 11. riêng này gọi tên sẽ nhất định là một đối tượng chung‖. Frege quan niệm rằng: ―tuy có a = b và a = a có đối tượng gọi tên giống nhau, nhưng nó có giá trị nhận thức không giống nhau, tức là có ý nghĩa khác nhau; nói một cách khác là khách thể a và b gọi tên giống nhau nhưng ý nghĩa khác nhau. Theo nguyên tắc tương đồng, người ta dựa vào thời gian chia sao Kim thành sao Mai và sao Hôm, hai tên riêng này cùng nhau gọi tên cho sao Kim, nhưng ý nghĩa khác nhau‖. Nhà triết học và nhà lô-gích học nước Anh B. Russell trên cơ sở thừa nhận tên riêng có nghĩa đã có quan điểm: ―nếu một tên riêng đã gọi tên duy nhất khách thể nào đó, thì tên riêng này đã đại diện cho khách thể này, do đó, khách thể được gọi tên và được đại diện này sẽ là ý nghĩa của tên riêng. Như vậy, ―ý nghĩa của tên riêng chính chúng là khách thể được gọi tên.‖[II-8] Trong giới học thuật Việt Nam, cũng có hai quan điểm đối lập với nhau. Chẳng hạn, tác giả Hoàng Phê cho rằng: tên riêng là những kí hiệu thuần túy không có nghĩa. Ngược lại, một số nhà nghiên cứu có quan niệm tên riêng có nghĩa.Ví dụ, tác giả Hoàng Tuệ cho rằng: tên riêng không phải là một con số, một cái nhãn chỉ có tác dụng đủ để phân biệt, mà là một biểu trưng. Tham gia vào cuộc tranh luận này, tác giả Phạm Tất Thắng trong một bài báo đã trình bày về ý nghĩa của tên riêng, tuy chủ yếu về tên người, nhưng cũng đã rõ ràng quan điểm của ông: tên riêng có nghĩa. Thông qua nội dung của bài báo đó, tác giả đã chỉ ra: nghĩa của tên riêng (cụ thể là tên người) thường mang giá trị biểu trưng và có giá trị hàm chỉ. Theo các quan điểm của các nhà nghiên cứu trên, có thể thấy 2 trường phái đối lập với nhau giữa quan điểm tên riêng có nghĩa và tên riêng không có nghĩa đều có lý luận cơ sở và bằng chứng riêng. Sau khi nghiên cứu các ý kiến của các nhà nghiên cứu trên, chúng tôi cho rằng: tên riêng có nghĩa. Lấy tên người làm ví dụ, mỗi người trong xã hội có thể coi như một cá thể trong quần thể xã hội, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(20)</span> 12. khi đẻ ra đã mang tính xã hội và cả đời không thể tách rời được, bất kì sống theo hình thức như thế nào, nhất thiết phải sản sinh ra quan hệ mật thiết với một số bộ phận hoặc một số lĩnh vực của xã hội. Tuy vậy, tên gọi chỉ người không phải là một kí hiệu trống rỗng nữa, mà lại có đủ các nội dung, tức là các đặc điểm hoặc tính chất người mang tên đó. Những đặc trưng và tính chất đó chính là ý nghĩa của tên gọi chỉ người đồng thời cũng là ý nghĩa của tên riêng chính với đối tượng được gọi tên đó. Cụ thể hơn ý nghĩa của tên riêng có thể phản ánh các đặc điểm và tính chất của đối tượng được gọi tên. 1.1.2.4. Đặc điểm ngữ pháp của tên riêng Tên riêng thuộc phạm trù danh từ, vì thế tên riêng cũng có cách gọi khác là danh từ riêng, còn tên chung được gọi là danh từ chung. Trong một số ngôn ngữ, tên riêng được phân biệt với tên chung bằng những phương tiện hình thức. Chẳng hạn, trong những ngôn ngữ sử dụng bảng chữ cái La-tinh, khi phân biệt danh từ gọi tên với danh từ chung, người ta thường dùng cách chuyển chữ cái đầu tiên trong tên gọi đó thành chữ hoa. Trong tiếng Anh, còn sử dụng quán từ ―a‖ hoặc ―an‖ để chỉ rõ tên riêng. Vì thuộc nhóm danh từ nên tên riêng và tên chung đã có một số đặc điểm ngữ pháp giống nhau, ví dụ: không thể tổ hợp với phó từ như: không, rất…Đây là điểm giống nhau giữa tên riêng và tên chung. Nhưng tên riêng là loại danh từ mang tính đặc biệt, nó có một số đặc điểm ngữ pháp khác với tên chung. Theo tác giả Nguyễn Kim Thản ―ngoài những đặc trưng ngữ pháp cả tiểu loại danh từ nói chung, danh từ riêng còn có những đặc điểm từ vựng - ngữ nghĩa như: biểu thị tên gọi của một sinh vật, một tập thể hay một sự kiện riêng biệt, và nói chung, không bị số từ, lượng từ, phó danh từ và đại từ chỉ định hạn chế.‖[I-16] 1) Không trực tiếp làm vị ngữ, mà phải kết hợp với hệ từ là, hoặc không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(21)</span> 13. phải, không phải là trước nó. Không đặt sau các từ trạng ngữ thời gian như: đã, từng, sẽ… 2) Có thể kết hợp với một trong các từ loại sau đây: số từ, đại từ chỉ số (tất cả, cả), lượng từ (những, các), phó danh từ (con, cái…) 3) Không đặt sau các từ: hãy, đừng, chớ … Nhưng đối với danh từ riêng chỉ tên người, đặc điểm ngữ pháp nêu trên cũng không tuyệt đối. Tác giả cũng cho rằng, những danh từ riêng chỉ tên người có đặc điểm chung là: có thể đặt sau những phó danh từ có tác dụng phân biệt giới tính, tuổi tác, sự kính trọng và khinh thường. Ví dụ: cụ Hồ, ông Phạm, chị Nhàn, Anh Tú, bà Kim, cậu Hóa, thằng Tín… Một trường hợp khá đặc biệt là trường hợp trùng danh.Tình hình này đã dẫn đến tên riêng chỉ người có thể đặt sau số từ. Ví dụ: Trong trường ta có ba Nguyễn Anh Tuấn. Tác giả Nguyễn Tài Cẩn cũng nêu ra một số trường hợp đặc biệt ―Danh từ riêng có thể dùng kèm với ―cả‖, ―tất cả‖. Ví dụ: ―Cả Thăng Long đều chìm đắm trong biển hoa tươi.‖ ―Cả Nguyễn Bá Tràng cũng giành được học bổng‖…[I-1] Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng: danh từ riêng mang những đặc trưng ngữ pháp khác biệt với danh từ chung. 1.2. TÊN NGƢỜI VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TÊN NGƢỜI Ở TRUNG QUỐC, VIỆT NAM 1.2.1. Tên ngƣời 1.2.1.1. Khái niệm về tên người Mọi người khi đẻ ra đều được đặt một tên gọi để khu biệt với người khác, đây là một kí hiệu riêng biệt, là tiêu chí của người này trong tất cả các hoạt động xã hội. Và cũng là sự đảm bảo của việc giao lưu xã hội được tiến hành một cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(22)</span> 14. trật tự. Cùng với sự tiến bộ của xã hội, chỉ khu biệt cá thể đã không thỏa mãn được sự phát triển văn minh của con người. Đặc biệt trong sự phát triển của loài người, quan hệ hôn nhân trong xã hội phải có qui định nhất định để ưu hóa gien con người, như vậy con người mới có sức mạnh để đối mặt với các thiên tai và mối đe dọa của các loài con vật khác. Vì thế ngoài khu biệt cá thể ra, con người còn phải khu biệt dòng họ (thị tộc) để làm rõ quan hệ hôn nhân để tránh lỗn nhân cận huyết. Và sự xuất hiện của họ (tính thị) đã giải quyết vấn đề lớn này. Các tên họ thường có tính ổn định cao hơn so với tên cá nhân, và được truyền từ đời này qua đời khác trong các gia tộc. Từ đây, chúng ta có thể phân tích ra: tên người thường do hai bộ phận cấu tạo nên. Mô hình cấu trúc cơ bản có thể chia thành hai loại: 1. Tên cá nhân + Tên họ 2. Tên họ + tên cá nhân Kiểu 1 là mô hình cấu trúc cơ bản tên người phương Tây, như: Anh, Mỹ, Pháp, Ý, Úc… Kiểu 2 là mô hình cấu trúc cơ bản tên người Châu Á, như: Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản v.v… Tất nhiên, trong 2 kiểu cấu trúc trên vẫn thiếu một bộ phận quan trọng, đó là bộ phận tên đệm. Sau khi thêm tên đệm, mô hình cấu trúc tên người mới có thể coi là hoàn chỉnh. Trong kiểu 1, bộ phận tên đệm thường được người phương Tây hoặc những nước nói tiếng Anh gọi là middle name hoặc second name, trong tiếng Trung gọi là 垫字. Hiện nay người phương Tây không coi trọng tên đệm như ngày xưa, người ta thường xuyên viết tắt bộ phận này, như một người tên là Chris John Smith, thường chỉ viết là Chris J. Smith. Cũng có thể nói người Châu Á thường coi trọng tên đệm hơn, đặc biệt là người Việt, có thể nói tên người Việt là tên có cấu trúc hoàn chỉnh nhất, phần lớn tên người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(23)</span> 15. Việt đều có bộ phần tên đệm. Người Hán Trung Quốc cũng có tên đệm, nhưng ngày nay đang dần dần ít đi. Nguyên nhân chủ yếu là bộ phận tên đệm trong tên người Hán thường có tác dụng khu biệt thứ bậc trong một dòng họ hoặc một gia tộc, phạm vi sử dụng hẹp, không giống tên đệm người Việt chủ yếu là để khu biệt giới tính. Trong tên người Hán bộ phận khu biệt giới tính là do bộ phận tên cá nhân đảm nhận. Đến nay, Trung Quốc đang thực hành chính sách kế hoạch hóa gia đình, đa số gia đình chỉ được đẻ một con, nhất là trong các thành phố lớn. Vì vậy, tác dụng khu biệt thứ bậc của bộ phận tên đệm trong tên người Trung Quốc đã dần dần mờ nhạt đi. Chính vì thế, mô hình chung của cấu trúc tên người Hán hiện nay thường được các nhà nghiên cứu quan niệm là: Họ + Tên. Vì nguyên nhân này, trong Chương П phần phân tích mô hình cấu trúc tên người Hán, chúng tôi cũng chỉ theo mô hình chung Họ + Tên này để triển khai thống kê và nghiên cứu. 1.2.1.2. Chức năng của tên người Tác giả Lê Trung Hoa cho rằng: tên người có 2 chức năng chủ yếu: 1) Chức năng Phân biệt. (Dùng để phân biệt hai cá thể khác nhau) 2) Chức năng thẩm mỹ. (Khi đặt tên người ta thường lựa chọn khá kỹ về mặt ngữ âm và mặt ngữ nghĩa) Tác giả Trần Ngọc Thêm đã quan niệm rằng ―tên người thường có 5 chức năng sau: 1) Chức năng phân biệt người này với người khác. 2) Chức năng phân biệt giới tính. 3) Chức năng thẩm mỹ.(Phong tục, tập quán, truyền thống, mốt…) 4) Chức năng bảo vệ. (Một tên hay có thể giúp người mang tên tránh khỏi tai họa hoặc được thần phù hộ) 5) Chức năng xã hội (Phân biệt sang hèn, tôn ty) ‖ [I-22] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(24)</span> 16. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu tên ngƣời ở Trung Quốc, Việt Nam 1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu tên người ở Trung Quốc 1) Việc nghiên cứu tên riêng người Trung Quốc đã có lịch sử từ lâu, đặc biệt là nghiên cứu về tên họ người Trung Quốc. Số lượng các tác phẩm viết về tên họ, tên chính, tên hiệu v.v. cũng không ít. Có một điểm đáng chú ý: việc nghiên cứu về họ tên của người xưa đa số đều bị hạn chế vào các điều kiện thời đó, cho nên khó tránh khỏi có những suy đoán chủ quan và có những điểm bất cập. Mặc dù vậy, những nghiên cứu này vẫn là một nguồn tài liệu có giá trị tham khảo quý báu. Từ thế kỷ XX đến nay, việc nghiên cứu tên người của Trung Quốc đã bắt đầu áp dụng nhiều phương pháp khoa học, và đi sâu vào các lĩnh vực như: ngôn ngữ học xã hội, nhân chủng học văn hóa, kí hiệu học, v.v. 2) Việc nghiên cứu tên người Trung Quốc có những tư liệu cho thấy đã có những nghiên cứu từ thời đại Chiến Quốc, vào thời gian này, chúng ta đã tìm thấy tác phẩm ―Thế Bản‖《世本》, thời gian sau lại có ―Tả Truyện‖《左传》, ―Quốc Ngữ‖,《国语》, ―Sử Ký‖《史记》, ―Hán Thư‖《汉书》…đều có bài chuyên ghi chép về đề tài này. Trong ―Lễ Ký‖《礼记》đã ghi chép phong tục đặt tên của Thời Chu. Sau đó, Vương Phù Thời Hán có ―Tiềm Phu Luận‖《潜夫论》, Ứng Thiệu có ―Phong Tục Thông Nghĩa‖《风俗通义》, Ban cố ― Bạch Hổ Thông·Tính danh‖《白虎通· 姓名》 ,Hứa Thận ―Thuyết Văn Giải Chữ‖ 《说文解字》… đều có nghiên cứu và trình bày về họ tên từ những góc độ khác nhau. Nói đến việc nghiên cứu tên người trước đây thì không thể không nhắc đến Gia phả học (谱牒学) Trung Quốc ngày xưa. Xã hội truyền thống Trung Quốc, thường duy trì bằng gia tộc cùng với hình thái tổ chức và quan niệm do gia tộc diễn sinh ra, Gia phả học có quan hệ mật thiết với gia tộc và đã có lịch sử lâu dài. Có thể nói Gia phả học đã cung cấp nhiều tài liệu quý báu cho việc nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(25)</span> 17. tên người. Gia phả học Trung Quốc muộn nhất cũng bắt đầu từ Thời đại Sử Thiên. 3) Thế kỉ XX, việc nghiên cứu tên người Trung Quốc bắt đầu áp dụng tư tưởng Thuyết Tiến Hóa của Charles Robert Darwin và phương pháp Ngôn ngữ học, Văn hóa- nhân loại học để nghiên cứu bản nghĩa của tên họ, họ tên người Hán và các dân tộc thiểu số, tên người nước ngoài, tên người và Tô-tem, tên người và văn hóa và chế độ liên danh cha con v.v … Cũng từ thế kỉ XX, lĩnh vực nghiên cứu tên người Trung Quốc đã kết hợp lý thuyết và phương pháp nghiên cứu tên của người nước ngoài, đồng thời cũng kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của các học giả Trung Quốc, đã dần dần đưa việc nghiên cứu tên người đi vào nề nếp khoa học. Các nhà dân tộc học và dân tục học nước ngoài như: L.H. Lewis Henry Morgan nước Mỹ và James George Frazer nước Anh… đã có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiên cứu tên người Trung Quốc, đặc biệt là ―Ancient Society‖ của Morgan và ―Golden Bough‖ của Frazer không những mở rộng tầm nhìn cho việc nghiên cứu tên người của Trung Quốc mà còn giúp các học giả Trung Quốc hiểu về văn hóa tên người của nhiều dân tộc khác trên thế giới. Việc nghiên cứu về tên họ là một trong những đề tài nghiên cứu truyền thống được nhiều học giả Trung Quốc quan tâm, vì vậy, việc nghiên cứu về tên họ đã và đang đi sâu hơn nữa đồng thời cũng đạt được nhiều thành quả đánh kể. Những năm 1930, ông Phan Quang Đán đã phát biểu bài《中国家谱略史》; Tác giả Viên Dụ Nghiệp xuất bản tác phẩm《中国古代姓氏制度研究》; Cũng vào thập kỷ 30, Dương Khôn Minh xuất bản tác phẩm《中国姓名学》, lần đầu tiên sử dụng từ ―姓名学‖; Đến những năm 1950, Đinh Sơn phát biểu bài《姓与氏》; Năm 1970, tác giả Đặng Hiến Kình xuất bản《中国姓氏集》; Năm 1985, Mộ Dung Dực xuất bản《中国古今姓氏辞典》; Năm 1987, tác giả Trần Minh Viễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(26)</span> 18. và Uông Tôn Hổ xuất bản《中国姓氏大全》; Năm 1995, Đỗ Kiến Xuân xuất bản《中华万姓溯源》; Năm 1996, Viên Nghĩa Đạt và Đỗ Nhã Phủ biên soạn 《中华姓氏大辞典》; Năm 2001, Trần Lịch Phủ thông qua 30 năm nghiên cứu và thống kê, xuất bản《中华姓氏书法大辞典》, thu thập 10129 họ người Trung quốc; Năm 2002, Viên Nghĩa Đạt xuất bản《中国姓氏: 群体遗传和人口分布》 v.v... Sự nghiên cứu về tên người Hán (bao gồm Biệt hiệu, Thụy hiệu, tên tục…) từ những năm 60 thế kỉ 20 đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt vào những năm 80 bắt đầu xuất hiện ―Phong trào văn hóa‖ thì đã có nhiều tác phẩm về tên người xuất hiện. Thí dụ: Năm 1970, 萧遥天《中国人名的研究》;Năm 1984,陈捷先《中国的 族谱》 ;Năm 1988,赵瑞民《姓名与中国文化》; 王泉根《华夏姓名面面 观》;Năm 1992,张联芳《中国人的姓名》;Năm 1993,汪泽树《姓氏·名 号·别称》;Năm 1997, 纳日碧力戈《姓名论》;Năm 2003,杨扬《汉语 人名文化放谈》… 1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu tên người ở Việt Nam Ở Việt Nam, việc nghiên cứu tên người đến những năm 50-60 thế kỉ XX mới chính thức đặt ra. Tác giả Lê Trung Hoa trong cuốn ―Họ và tên người Việt Nam‖ cho rằng: từ năm 1954, ngành Nhân danh học ở Việt Nam mới thực sự hình thành. Những năm 70, vấn đề thống nhất cách viết hoa tên riêng tiếng Việt và tên nước ngoài trên sách báo tiếng Việt mới bắt đầu thu hút sự chú ý của giới chuyên môn. Vì thế, ở giai đoạn này, các công trình nghiên cứu về tên riêng thường tập trung vào mục đích chính tả, viết hoa trên các sách báo tiếng Việt. Phải đến khi Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam công bố ―Dự thảo qui tắc viết hoa‖ mới tạm thời thống nhất cách viết hoa tên riêng tiếng Việt và tên nước ngoài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(27)</span> 19. trên sách báo Việt Nam. Cùng với việc nhiều tác giả tập trung ý kiến đưa ra các giải pháp viết hoa tên riêng tiếng Việt thì cũng có một số tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu ý nghĩa tên riêng chỉ người và khai thác những khía cạnh khác về xã hội - ngôn ngữ học và dân tộc - ngôn ngữ học trong tên người Việt. Năm 1992, tác giả Lê Trung Hoa đã xuất bản tác phẩm ―Họ và tên người Việt Nam‖. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu và có tính hệ thống nhất từ trước đến nay về tên gọi người Việt trên bình diện dân tộc – ngôn ngữ học. Hiện nay, nhân danh học tiếng Việt đang ngày càng thu hút được sự chú ý của nhiều học giả. Các phạm vi nghiên cứu và phương pháp tiếp cận đối tượng cũng phát triển một cách đa dạng. Các công trình nghiên cứu còn đi sâu hơn vào việc khai thác bình diện văn hóa – xã hội và những vấn đề khác xung quanh tên người. Các công trình nghiên cứu về tên người ở Việt Nam có các tác phẩm nổi bật sau đây: Năm 1961, Trịnh Huy Tiến viết bài ―các loại nhân danh Việt Nam‖; Năm 1968, Phạm Tất Thắng công bố ―Vài nhận xét về yếu tố đệm trong tên gọi người Việt‖; Năm 1975, tác giả Nguyễn Kim Thản có bài ―Vài nét về tên người Việt‖; Năm 1976, Trần Ngọc Thêm đăng bài ―Về lịch sử hiện tại và tương lai của tên riêng trong người Việt‖; Năm 1989, Bình Long đã có bài ―Nghĩa tên riêng của người‖ công bố trên tạp chí; Năm 1995, Nguyễn Minh Thuyết có bài ―Quanh cái tên người‖; Năm 1999, Phạm Hoàng Gia đăng bài ― Về số phận của các họ kép và họ ghép người Việt‖ trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống; Năm 2002, tác giả Nguyễn Văn Khang phát biểu bài ― Bình diện xã hội ngôn ngữ của vấn đề họ trong tiếng Hán‖; Cũng năm 2002, Dương Xuân Đống đăng bài ―Từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(28)</span> 20. Thị trong họ tên người phụ nữ Việt Nam‖ và bài ― Chung quanh người Việt mình đặt tên‖ của tác giả Đình Cao; Năm 2003, tác giả Phạm Tất Thắng đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống bài ― Một cách phân loại tên riêng trong tiếng Việt. 1.3 Tiểu kết Trong chương này chúng tôi chủ yếu trình bày về cơ sở lí luận của luận văn. Luận văn với đề tài "chiếu đặc điểm tên riêng người Hán và người Việt hiện nay" đã gắn bó chặt chẽ với môn Danh xưng học, trong đó đặc biệt có quan hệ mật thiết với môn Nhân danh học. Môn Nhân danh học chủ yếu nghiên cứu về tên riêng, tên người là một bộ phận quan trọng của tên riêng. Vì thế trong chương này, chúng tôi đã giới thiệu về tên riêng một cách tỉ mỉ, bao gồm khái niệm của tên riêng, chức năng của tên riêng, ý nghĩa của tên riêng, đặc điểm ngữ pháp của tên riêng.... Ngoài giới thiệu tên riêng một cách tỉ mỉ, chúng tôi còn giới thiệu sơ qua về tên người và tình hình nghiên cứu tên người ở Trung Quốc và Việt Nam. Trong đó có giới thiệu về khái niệm của tên người, chức năng của tên người... Về tình hình nghiên cứu tên người thì chúng tôi đã chia nó thành hai bộ phận, đầu tiên giới thiệu về tình hình nghiên cứu tên người ở Trung Quốc. Việc nghiên cứu tên người Trung Quốc đã có lịch sử từ lâu, đã bắt đầu từ thời đại Chiến Quốc. Từ thế kỷ XX đến nay, việc nghiên cứu tên người của Trung Quốc đã bắt đầu áp dụng nhiều phương pháp khoa học. Việc nghiên cứu tên người ở Việt Nam, đến khi những năm 50-60 thế kỉ XX mới chính thức đặt ra.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(29)</span> 21. CHƢƠNG II. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC, Ý NGHĨA CỦA TÊN NGƢỜI HÁN VÀ NGƢỜI VIỆT 2.1. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC, Ý NGHĨA CỦA TÊN NGƢỜI HÁN 2.1.1. Những vấn đề chung về tên ngƣời trong tiếng Hán 2.1.1.1. Khái niệm tính (họ) và danh (tên) Tên người Hán do ―Họ‖ và ―Tên‖ cấu tạo nên, được định nghĩa là ―Họ tên‖(姓名) hoặc ―Danh chữ‖(名字). Trong tiếng Hán, tên người là một kí hiệu danh xưng riêng biệt được đặt cho mỗi cá thể để khu biệt cá thể với tập thể, là tiêu chí thông qua ngôn ngữ và văn từ khu biệt sự khác nhau một cá thể với một tập thể. Chính vì có tên gọi, việc giao tiếp của chúng ta mới có quy luật và trật tự, cho nên mỗi người đều có một tên gọi của riêng mình. Sau khi có được ngôn ngữ, tên người mới xuất hiện. Các dân tộc đều có thói quen riêng biệt đối với việc đặt tên, và thói quen này đều bị các yếu tố văn hóa chế ước như: lịch sử, xã hội, dân tộc…Thông thường tên gọi của mỗi người đều có một ý nghĩa nhất định. Tên người Trung Quốc bao gồm 2 phần: họ và tên, thường là ―họ‖ đứng trước, tên đứng sau(姓在前,名在后), có một số quốc gia là ―tên‖ đứng trước, ―họ‖ đứng sau.Ví dụ: nước Mỹ, chính là ―họ‖ đứng sau, ngày thường chỉ gọi bằng tên, ví dụ: Gary Thomas, Gary là tên, Thomas là họ, Trung Quốc thì gọi cả họ và tên: 毛泽东(Mao Trạch Đông), 毛(Mao) là họ, 泽东(Trạch Đông) là tên. Họ tên là một loại xưng hô mà bất kì người nào đều cần phải có, tương đương với một loại dấu hiệu. Ngày xưa, ―họ‖ của người Trung Quốc thường là một chữ(gọi là họ đơn/单姓) hoặc hai chữ (gọi là họ kép/复姓), và tên thường có một chữ hay hai chữ, đến bây giờ bố mẹ đặt tên cho con cái nhiều nhất là sáu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(30)</span> 22. chữ. Người Trung Quốc bắt đầu từ khi đứa con ra đời đã rất coi trọng việc đặt tên cho đứa trẻ. Việc đặt tên cho các em bé đều do bố mẹ hoặc bề trên. Ngày xưa việc đặt tên cho trẻ em là một việc rất được coi trọng, dần dần hình thành là một ngành học. Việc đặt tên không chỉ dựa vào ―Chu Dịch‖ (《周易》), ―Bát quái‖(八卦), mà còn kết hợp ngũ hành bát tự và cả tương sinh tương khắc về phong thủy, hoặc theo số nét chữ Hán để chọn ra các tên thích hợp, rồi lại căn cứ vào hình, âm, nghĩa, nguyên lý âm vần học…đặt ra một tên gọi thích hợp nhất. Ví dụ: Tôn Trung Sơn(孙中山), Hà Từ Uyên(何子渊), Diệp Kiếm Anh(叶剑英)… Trong tiếng Hán, chữ 姓(Họ) có cấu trúc trái-phải, bên trái là chữ 女(Nữ), bên phải là chữ 生(Sinh),có nghĩa là từ ―Nữ‖ sinh (đẻ) ra.Trong xã hội mẫu hệ, con cái chỉ biết mẹ, không biết bố, dòng họ của mẹ là dòng họ duy nhất các đời sau xác định được. 姓(Họ) là một danh từ tổ hợp, là tiêu chí của một dòng họ. Ngày xưa, tên của người Trung Quốc còn bao gồm 氏(Thị), trước đời Hán ―Thị‖ mới tồn tại độc lập, nó là một phần của ―Họ‖, Họ là tộc hiệu của thị tộc, các thành viên thị tộc đều lấy ―tộc hiệu‖ này làm Họ của mình. ―名‖(Tên) chỉ dấu hiệu cá nhân, có mang dấu vết riêng mình. Trong phong tục truyền thống của người Trung Quốc, ―Tên‖ phải là khi con cái đẻ ra một trăm ngày sau mới do người bố đặt cho. Sau khi đặt tên, phải báo cáo lên quan trên và đăng kí vào hộ tịch. 2.1.1.2. Đôi nét về nguồn gốc và sự phát triển họ của người Hán Trong tiếng Hán có một câu nói là: ―bách gia tính ngàn năm‖. Câu này có nghĩa là họ thị của người Trung Quốc đã có lịch sử mấy nghìn năm. ―Họ Thị‖ trong Hán ngữ hiện đại được coi là một từ, nhưng trước thời Tần Hán, họ và thị có khu biệt rõ rệt. Họ bắt nguồn từ xã hội mẫu hệ, cùng một họ chứng tỏ quan hệ huyết thống cùng một mẫu hệ. Các họ Trung Quốc sớm nhất đa số có bộ thủ ―nữ‖(女), như: 姜、姚、姒、妫,嬴…Biểu thị đây là một tập hợp người thị tộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(31)</span> 23. do một số lão bà khác nhau truyền xuống. Sau khi có họ, thị mới xuất hiện, chúng là kết quả đánh dấu quan hệ huyết thống theo phụ hệ, phải là khi xác lập chế độ phụ quyền gia trưởng mới có khả năng này. Cho nên, khi chúng tôi đọc đến ―Hoàng Đế Hiên Viên thị, họ Cơ‖(黄帝轩辕氏,姬姓) và ―Viên Đế Liệt Sơn thị, họ Khương‖(炎帝列山氏,姜姓), có thể nhận ra, thủy tổ chung dân tộc Trung Hoa là Viêm đế và Hoàng đế. Vốn dĩ trước kia đây là hai bộ tộc hoặc liên minh bộ tộc khác nhau tổ chức theo quan hệ huyết thống mẫu hệ, một họ Khương, một họ Cơ, và hai Vị lại có thị xưng riêng của mình là Liệt Sơn, Hiên Viên, biểu thị thủ lĩnh chế độ phụ quyền gia trưởng. Cục diện Họ và Thị có khu biệt rõ ràng nhưng lại được sử dụng cùng một lúc đã thể hiện thời kì này chế độ mẫu quyền đã nhường địa vị cho chế độ phụ quyền, nhưng sự ảnh hưởng của xã hội mẫu hệ vẫn còn tồn tại, và sự ảnh hưởng này sau thời kỳ Xuân Thu chiến quốc mới bị mất dần. Lịch sử Họ thị Trung Quốc đã hơn 5000 năm.Ví dụ: Phục Hy họ Phong. Thời cổ xưa, Hoàng Đế ban tặng cho 12 con trai tạo ra 12 họ thị, vẫn còn nhiều họ như: Hứa(许), Tặng(邓), Chu(周), Dinh(丁), Thường(常), Đổng(董), … đều là những họ đã có bốn năm nghìn năm lịch sử. Sự hình thành họ thị Trung Hoa có lịch sử xa xưa, nguyên nhân hình thành nhiều kiểu, nhiều loại. Nhưng từ 100 họ lớn có thể nhận ra: tuyệt đại đa số là lấy tên nước làm thị hoặc lấy tên thành ấp(城邑) làm thị. Vốn dĩ là vua chúa nước nào đó, sau khi nước bị mất, cư dân lấy tên nước làm họ. Ví dụ: trong thời kỳ Xuân thu chiến quốc đã từng có một nước nhỏ là nước Khưu(丘), sau khi nước này bị diệt, cư dân sống ở đó lấy Khưu làm họ. Đến năm thứ 3 Ung Chính đời Thanh (năm 1725), Ung Chính kiêng tên húy của Khổng Khưu (孔丘), tức là Khổng Tử (孔子), ban chiếu thay 丘 thành 邱 trở thành dòng họ 邱(Khưu) hiện nay. Tính đa dạng của họ thị Trung Hoa đã quyết định tính nhiều nguồn gốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(32)</span> 24. của chúng. Nguyên nhân hình thành rất nhiều và đa dạng, ví dụ: lấy tên nước làm họ, lấy tên thành ấp làm họ, lấy tên nghề làm họ, lấy tên chức vụ quan chức làm họ, lấy tên núi non song nước làm họ, lấy tên tổ tiên làm họ, và vẫn còn vua chúa ban tăng cho họ…nhưng đa số là lấy tên nước làm họ hoặc lấy tên thành ấp làm họ. Trong tên chính của người Hán, Họ đứng ở vị trí đầu tiên trong cấu trúc: [Họ - tên]. Đấy chính là điểm khác biệt tiêu biểu so với tên người Mỹ và Anh… Người Mỹ và Anh, cấu trúc tên gọi thường là [Tên – Họ]. Tên người Việt cũng có cấu trúc [Họ- (Đệm)- Tên]. Ngoài ra, người Hàn Quốc và người Thái, vị trí của Họ cững đứng ở đầu của cấu trúc tên gọi. Ví dụ: Chu Đức(朱德) Nguyễn Du(阮攸) Lý Hiền Hy (李贤熙). [Họ - Tên]. Người Hán. [Họ - Tên] [Họ - Tên]. Harry Potter (哈利波特) [Tên -Họ]. Người Việt Người Hàn Quốc Người Anh. … Như trên đã phân tích, họ là một danh từ tập hợp, và là danh từ đếm được. Năm 2001, nghiên cứu viên Viện nghiên cứu Di truyền và Phát dục sinh vật học Viện Khoa học Trung Quốc Viên Nghĩa Đạt (中国科学院遗传与发育生物学 研究所研究员袁义达) thông qua hai năm điều tra và nghiên cứu trong phạm vi 1110 thành phố và huyện, trong số 296 triệu người thống kê ra 4100 họ. Đây là số liệu khoa học nhất về tên họ người Hán hiện nay. Hiện nay ngoài ra Viên Nghĩa Đạt cũng có nhiều người nghiên cứu tên họ người Trung Quốc, trong đó phải kể đến một người đã giành được thành tựu đáng kể, là ông Trần Lịch Phù (陈历甫) . Trải qua hơn 40 năm nỗ lực, ông đã biên soạn và xuất bản ―Từ Điển Thư Pháp Họ Thị Trung Hoa‖, trong đó đã thu thập được 10.129 tên họ trong phạm vi toàn quốc. Trong đó người Hán có hơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(33)</span> 25. 8.000 tên họ. Trong lịch sử phát triển của tên họ người Trung Quốc, thành quả đáng kể nhất là sự xuất hiện của ―Bách Gia Tính‖. Theo nghiên cứu của một số học giả đời Minh Thanh. ―Bách Gia Tính‖ đã tồn đại trước thời Tống, lấy tên họ thường thấy biên tập thành vần văn bốn chữ một câu, như một bài thơ tứ ngôn, như vậy sẽ dễ đọc và dễ nhớ, vì vậy đã được lưu truyền đến nay, ảnh hưởng rất lớn.Trong đó thu thập được 504 tên họ với 444 họ đơn và 60 họ kép. Thông qua nghiên cứu của nhiều học giả, cỏ thể thống kê ra 10 họ lớn, cụ thể như bảng 1 thống kê sau: Bảng 2.1: 10 tên họ lớn của ngƣời Hán STT. Số lượng. Tên Họ. Tỷ lệ (%). 1. 李. Lý. Hơn 0.1 tỷ. 7,9%. 2. 王. Vương. Khoảng 88.920.000. 7,4%. 3. 张. Trương. Khoảng 78.000.000. 7,1%. 4. 刘. Lưu. Hơn 60.000.000. 5,4%. 5. 陈. Trần. Khoảng 54.400.000. 4,53%. 6. 杨. Dương. Hơn 31.000.000. 3,08%. 7. 赵. Triệu. Khoảng 24.000.000. 2,3%. 8. 黄. Hoàng. Khoảng 23.000.000. 2,2%. 9. 周. Chu. Khoảng 21.000.000. 2,1%. 10. 吴. Ngô. Khoảng 20.000.000. 2,05%. Bảng thống kê trên lập theo số liệu phân tích và thống kê dân số hộ tịch cả nước của Cục quản lý An ninh Bộ công an Trung Quốc đã công bố trên internet vào năm 2007. Các số lượng và tỷ lệ chỉ là cước tính gần đúng. Bảng thống kê thứ hai sau đây là 100 họ người Hán phổ biến nhất Trung quốc (số thứ từ theo dân số sử dụng).. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(34)</span> 26. Bảng 2.2: 100 họ thị ngƣời Hán phổ biến nhất STT. 姓氏. Tên Họ. STT. 姓氏. Tên Họ. 1. 李. Lý. 51. 余. Dư. 2. 王. Vương. 52. 潘. Phan. 3. 张. Trương. 53. 杜. Đỗ. 4. 刘. Lưu. 54. 戴. Đới, Đái. 5. 陈. Trần. 55. 夏. Hạ. 6. 杨. Dương. 56. 钟. Chung. 7. 赵. Triệu. 57. 汪. Uông. 8. 黄. Hoàng. 58. 田. Điền. 9. 周. Chu. 59. 任. Nhậm. 10. 吴. Ngô. 60. 姜. Khương. 11. 徐. Từ. 61. 范. Phạm. 12. 孙. Tôn. 62. 方. Phương. 13. 胡. Hồ. 63. 石. Thạch. 14. 朱. Châu. 64. 蛔. Hồi. 15. 高. Cao. 65. 谭. Đàm. 16. 林. Lâm. 66. 廖. Liêu. 17. 何. Hà. 67. 邹. Trâu. 18. 郭. Quách. 68. 熊. Hùng. 19. 马. Mã. 69. 金. Kim. 20. 罗. La. 70. 陆. Lục. 21. 梁. Lương. 71. 郝. Hách. 22. 宋. Tống. 72. 孔. Khổng. 23. 郑. Trịnh. 73. 白. Bạch. 24. 谢. Tạ. 74. 崔. Tôi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(35)</span> 27. 25. 韩. Hàn. 75. 康. Khang. 26. 唐. Đường. 76. 毛. Mao. 27. 冯. Phùng. 77. 邱. Khưu. 28. 于. Vu. 78. 秦. Tầm. 29. 董. Đổng. 79. 江. Giang. 30. 萧. Tiêu. 80. 史. Sử. 31. 程. Trình. 81. 顾. Cố. 32. 曹. Tào. 82. 侯. Hấu. 33. 袁. Viên. 83. 召. Triệu, thiệu. 34. 邓. Tặng. 84. 孟. Mạnh. 35. 许. Hứa. 85. 龙. Long. 36. 傅. Phó. 86. 万. Vạn. 37. 沈. Thẩm. 87. 段. Đoạn, Đoàn. 38. 曾. Tăng. 88. 雷. Lôi. 39. 彭. Bành. 89. 钱. Tiền. 40. 吕. Lữ. 90. 汤. Thang. 41. 苏. Tô. 91. 尹. Doãn. 42. 卢. Lô. 92. 黎. Lê. 43. 蒋. Tường. 93. 易. Dịch. 44. 蔡. Thái. 94. 常. Thường. 45. 贾. Giả. 95. 武. Vũ. 46. 丁. Đinh. 96. 乔. Kiều. 47. 魏. Nguy. 97. 贺. Hạ. 48. 薛. Tiết. 98. 赖. Lại, Lài. 49. 叶. Diệp. 99. 龚. Cung. 50. 阎. Diêm. 100. 文. Văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(36)</span> 28. Vì dân số người Hán quá đông, cho nên cũng có nhiều tên họ rất kỳ lạ và hiếmcó. Như: họ là các số: 一(Nhất), 二(Nhị), 三(Tam), 四(Tứ), 五(Ngũ), 六 (Lục),七(Thất),八(Bát),九(Cửu),十(Thẩp),千(Thiên),万(Vạn),亿 (Ức),兆(Triệu), 第五(Đệ Ngũ)… Các từ biểu thị vị trí: 东(Đông), 南(Nam), 西 (Tây), 北(Bắc) … Các động vật trong 12 con giáp: 鼠(Chuột),虎(Hổ),兔 (Thỏ),蛇(Rắn),鸡(Gà),狗(Chó),猪(Lợn) … Các thực vật: 树(Thụ),菜 (Thái),菊(Cúc),豆(Đậu),果(Quả) … Ở trên chúng tôi nêu ra một số ví dụ để đọc giả có thể thấy rõ tính đa dạng và phong phú của tên họ người Hán hiện nay. 2.1.2. Đặc điểm cấu trúc của tên riêng ngƣời Hán 2.1.2.1. Nhận xét chung Tên riêng chỉ người xuất hiện theo nhu cầu của sự giao tiếp trong xã hội, là một loại hệ thống phân loại, có quan hệ mật thiết với hoạt động thực tế trong xã hội. Trong tên chính của người Hán, tên luôn luôn theo cấu trúc: Họ - Tên. Trong cấu trúc này tên chỉ tên cá nhân, thông thường người Trung Quốc trực tiếp gọi là tên. Về mặt cấu tạo, tên người Hán hiện nay đã có nhiều điểm khác so với tên thời xưa. Trước đời Minh, nam nữ thường chỉ có tên một chữ, điển hình như là trong truyện ―Tam Quốc Diễn Nghĩa‖ có tất cả hơn 750 tên (nhân vật), nhưng trong đó các nhân vật mang tên hơn một chữ chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 5%, còn đa số vua chúa các triều đại đều có tên (tên chính) một chữ. Bắt đầu từ Tần Thủy Hoàng(秦始皇), họ tên là Doanh Chính(嬴政), trong đó ―Doanh‖ là họ, tên là ―Chính‖; Đời Hán, Hán Cao Tổ(汉高祖) Lưu Bang(刘邦), ―Lưu‖ là họ, ―Bang‖ là tên; Thời Tam Quốc, Tào Tháo(曹操), Lưu Bị(刘备), Tôn Quyền(孙 权) đều mang tên một chữ; Triều đại nhà Tấn(晋朝), Tư Mã Viêm(司马炎), Tư Mã Duệ(司马睿), tuy có ba chữ, nhưng ―Tư Mã‖ là họ, tên cũng chỉ là một chữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(37)</span> 29. ―Viêm‖, ―Duệ‖; Đời Đường, Đường Thái Tông (唐太宗) Lý Thế Dân (李世民) là mang tên hai chữ thời đó ít có; Nhà Tống có Tống Thái Tổ(宋太祖) Triệu Khuông Dận(赵匡胤), cũng là người có tên hai chữ, các thế hệ sau hầu hết đều là tên một chữ. Đến đời Minh, hầu hết tất cả vua chúa đều mang tên hai chữ, chỉ riêng Thành Tổ đời Minh(明成祖) tên một chữ: Châu Đệ (朱棣), như vậy, chúng ta có thể thấy trong thời đại ngày xưa, ở Trung Quốc người ta thích đặt tên một chữ. Qua mấy ngàn năm phát triển, đến bây giờ theo sự phát triển của các môn khoa học như: Xã Hội Học, Tâm Lý Học, Nhân Loại Học, Dân Tộc Học, Di Truyền Học, Âm Vần Học… Danh Xưng Học, đặc biệt là tên người Hán đã có nhiều điểm khác so với thời đại trước đây, một điều điển hình là hiện nay nhiều người Hán mang tên hai chữ. 2.1.2.2. Mô hình cấu trúc của tên riêng người Hán Sau khi dòng họ bắt đầu xuất hiện, tên chính người Hán từ xưa đến nay chỉ có một mô hình chung là: Họ + tên. Nhưng thông qua điều tra trong thực tế, chúng tôi có thể thấy rằng mô hình chung Họ + tên vẫn có thể chia thành mấy loại hình cụ thể hơn như sau: 1) Họ đơn + tên cá nhân đơn Ví dụ: Vương Thu (王秋), Lý Đức (李德), Hòa Bình (和平) … 2) Họ đơn + tên cá nhân song âm tiết (hai chữ) Ví dụ: Dương Lục Kim (杨六金), Từ Lệ Vân (徐丽云), Nhấp Vân Vân (聂芸芸) … 3) Họ đơn + tên cá nhân đa âm tiết - Họ đơn + tên cá nhân đa âm tiết 3 chữ Ví du: Châu Văn Ngọc Hoa (朱文玉华), Trần Châu Lý Học (陈朱理 学)… - Họ đơn + tên cá nhân đa âm tiết 4 chữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(38)</span> 30. Ví dụ: Cát Căn Tư Hải Luân (葛根思海伦) … - Họ đơn + tên cá nhân đa âm tiết 5 chữ Ví du: Hoàng Hà Viễn Thượng Bạch Vân Gian (黄河远上白云间) … 4) Họ kép + tên cá nhân đơn Ví dụ: Tư Mã Quang (司马光), Công Tôn Lượng (公孙亮) … 5) Họ kép + tên cá nhân song âm tiết (hai chữ) Ví dụ: Đệ Ngũ Danh Lợi (第五名利), Mộ Dung Thu Thực (慕容秋实) … 6) Họ kép + tên cá nhân đa âm tiết Ví dụ: Thượng Quan Lăng Vân Tiêu (上官凌云霄) 7) Họ ghép + tên cá nhân đơn Ví dụ: Lý Dương Dạng (李杨漾), Vương Điền Tâm (王田心) … 8) Họ ghép + tên cá nhân song âm tiết Ví dụ: Chu Điền Bách Hợp (周田百合), Bạch Dương Phi Phi (白杨菲菲), Lưu Lý Hán Đường (刘李汉唐) … 9) Họ ghép + tên cá nhân đa âm tiết Ví dụ: Triệu Kỳ Cát Cát Tử (赵齐吉吉子) … Nhưng vẫn còn môt số mô hình đặc biệt, và nếu xếp vào các kiểu mô hình trên cũng không chính xác lắm.Ví dụ: + Tên hai chữ: Lý Dương (李杨), Trương Vi (张韦) … Trong hình thức này cả hai chữ tên là tên họ, thường xuyên là họ bố + họ mẹ. + Tên ba chữ: Trương Hà Lý (张何李), Tiền Tôn Lý (孙钱李), Triệu Tả Lưu (赵左刘… Cả ba chữ tên đều là tên họ, thường là họ bố + họ mẹ + họ bà nội. + Tên bốn chữ: Tư Đồ Nam Cung (司徒南宫), Lạc Tiêu Lý Dương (骆肖 李杨), Phạm Từ Trần Dương (范徐陈阳) …Trong tên Tư Đồ Nam Cung là họ bố + họ mẹ, và tên họ bố mẹ đều là họ kép; Tình hình Lạc Tiêu Lý Dương là lấy bốn tên họ làm tên gọi; Còn tình hình Phạm Từ Trần Dương là ba từ trước là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(39)</span> 31. theo mô hình họ bố + họ mẹ + họ bà nội + tên cá nhân đơn. + Tên năm chữ: Đệ Ngũ Tử Thư Minh (第五子书鸣), theo hình thức họ bố (họ kép) + họ mẹ (họ kép) + tên cá nhân đơn. 2.1.2.3. Phân loại tên họ người Hán Về mặt cấu tạo, tên họ người Hán được phân chia thành 3 nhóm sau đây: 1) Họ đơn: đơn âm tiết (một tiếng hoặc một chữ). Ví dụ: Lý( 李 ), Trương(张), Vương(王), Dương(杨) … Và đa số họ thị người Hán là họ đơn. 2) Họ kép: tổ hợp đa âm tiết, thường là song âm tiết. Hiện nay, họ kép người Hán có khoảng 80 họ, và trong đó có khoảng 15 họ là họ kép thường thấy: Tư Mã(司马), Nam Cung(南宫), Thượng Quan(上官), Âu Dương(欧阳), Gia Cát(诸葛), Hoàng Phù(皇甫), Đông Phương(东方), Độc Cô(独孤), Tư Đồ(司 徒), Công Tôn(公孙), Mộ Dung(慕容) … Trong đời Hán người ta đặt tên thường chỉ là một chữ, như chúng ta đã biết trong truyện ―Tam Quốc Diễn Nghĩa‖ (三国演义) có tên hai chữ chỉ là mấy người như Hoàng Thừa Ngạn (黄承颜), Vũ An Quốc (武安国) … và họ kép của người Hán chính là nét riêng biệt trong văn hóa tên họ Trung Hoa. Sự bắt nguồn họ kép của người Hán có nhiều nguyên nhân như sau: + Lấy tên thành ấp thụ phong làm họ. Như trong ―Bách Gia tính‖ đã ghi chép: một người tên Ngụy Khoa (魏颗) thời Chu, sau khi lập chiến công nhiều lần, được thụ phong ở thành ấp Lệnh Hồ (令狐), vì thế thế hệ sau lấy ―Lệnh Hồ‖ làm họ. Một ví dụ nữa: Họ thị Đoàn Can(段干), cháu trai của Lào Tử tên Lý Tôn (李宗) được thụ phong ở thành ấp Đoàn Can, vì thế thế hệ sau cũng lấy tên thành ấp ―Đoàn Can‖ làm họ. + Lấy tên nơi cư trú làm họ. Ví dụ họ Đông Quách(东郭), đời Chu, một số đại phu công tộc cư trú ở ngoại ô phía đông đô thành Lâm Tri(临淄)của nước Tề, vì thế thế hệ sau lấy ―Đông Quách‖ làm họ (Từ ―Quách‖ có nghĩa là ngoài ô Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(40)</span> 32. thành phố). Một ví dụ nữa: Họ thị Lư Khưu (闾丘), trong nước Tề có một vị đại phu tên Anh (婴) cư trú ở Lư Khưu, người ta lấy Anh Lư khưu (闾丘婴) xưng hô với ống ấy, vì thế thế hệ sau lấy ―Lư Khưu‖ làm họ. Ngoài ra một số họ kép khác cũng bắt nguồn vì lý do như vậy, như: Nam Môn (南门), Tây Môn (西门), Nam Cunng (南宫) … + Còn lấy tên chức vụ quan chức (官名), Hiệu của vua bố (王父之字), Tước hệ (爵系), Tộc hệ (族系) làm họ. Lấy chức vụ quan chức làm họ, như: Tư Mã (司马), Tư Đồ (司徒), Thái Sử (太史) … Lấy Hiệu của vua bố làm họ, như: Công Dương (公羊), Từ Dương (子阳) … Lấy Tước hệ làm họ, như: Công Tôn (公孙), Trọng Tôn (仲孙) … Lấy Tộc hệ làm họ như: Thúc Tôn (叔孙) … 3) Họ ghép (song tính): Họ ghép là một cấu trúc ghép lại hai họ có sẵn, là những tổ hợp tự do, dưới hình thức: họ bố + họ mẹ hoặc họ mẹ + họ bố, thường là họ mẹ người mang tên đứng ở sau. Nhưng cũng có tình hình là họ bố + họ bà nội. Ví dụ: Lý Dương(李杨), Vương Tôn(王孙), Trương Hà(张何) … Họ ghép ở Trung Quốc thuộc nhóm sáng tạo tên họ mới, không có qui luật nhất định và thuộc kiểu tự do. Hiện nay cơ quan hộ tịch Trung Quốc khuyến khích bố mẹ trong quá trình đặt tên cho con cái sử dụng họ ghép để tránh trùng danh. 2.1.2.4. Phân loại tên cá nhân người Hán + Tên cá nhân đơn Tên cá nhân đơn là tên gọi chỉ có một âm tiết hoặc có thể nói là chỉ có một chữ. Ví dụ: Bành Binh (彭兵) ―Binh‖ tên đơn Tên Nam Trương Hy (张曦) ―Hy‖ tên đơn Tên Nam Lưu Vệ (刘卫) ―Vệ‖ tên đơn Tên Nữ Chúng tôi lập ra bảng thống kê thứ 3 (lấy tất cả tên giáo viên của khoa nhân văn của Học Viện Hồng Hà Vân Nam Trung Quốc làm đối tượng khảo sát) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(41)</span> 33. Bảng 2.3: Tên giáo viên của khoa Nhân Văn của Học viện Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25. 曹贵雄 攀庆来 范德伟 何绍明 何作庆 黄小平 李光庆 李金发 李文优 李志刚 刘永刚 卢鹏 鲁亮 路伟 孙东波 孙敬华 王亚军 徐义强 薛淳元 杨彬 杨六金 杨永平 张勇 朱明 庄兴成. Tên nam Tào Quý Hùng Phán Khánh Lai Phạm Đức Vĩ Hà Thiếu Minh Hà Tác Khánh Hoàng Tiểu Bình Lý Quang Khánh Lý Kim Phát Lý Văn Ưu Lí Chí Cương Lưu Vĩnh Cương Lô Bành Lỗ Lượng Lộ Vĩ Tôn Đông Pha Tôn Kính Hoa Vương Á Quân Từ Nghĩa Cường Tiết Thuần Nguyên Dương Bân Dương Lục Kim Dương Vĩnh Bình Trương Dũng Châu Minh Trang Hưng Thành. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21. 段润秀 冯静洁 高庆秀 孔梅 陆小燕 马玫瑰 聂芸芸 沈慧 汪丽娟 王丽云 王凌虹 王秋 王晓玲 王玉枝 徐玲 徐永丽 许碧晏 杨惠林 杨佳 朱志霞 邹丹. Tên nữ Đoàn Nhuận Tú Phùng Tĩnh Khiết Cao Khánh Tú Khổng Mai Lục Tiểu Yến Mã Mai Quế Nhiếp Vân Vân Thẩm Huệ Uông Lệ Quyên Vương Lệ Vân Vương Lăng Vân Vương Thu Vương Hiệu Linh Vương Ngọc Chi Từ Linh Từ Vĩnh Lệ Hứa Bích Yến Dương Huệ Lâm Dương Giai Châu Chí Hà Trâu Đan. .
<span class='text_page_counter'>(42)</span> 34. Trong số 46 tên chính (bảng thống kê 3) có 25 tên nam trong đó chỉ có 6 tên cá nhân đơn, chiếm 24%, trong 21 tên nữ cũng chỉ có 6 tên cá nhân đơn, chiếm 28,57%. Thông qua bảng thống kê trên, có thể chứng minh quan điểm chúng tôi đã nêu ra ở trên: ngày nay người Hán Trung Quốc đã dần dần chọn đặt tên hai chữ. + Tên cá nhân song âm tiết Tên cá nhân song âm tiết là tên gọi có hai âm tiết hoặc có thể nói là có hai chữ.Ví dụ: Mã Hồng Ba (马洪波) ―Hồng Ba‖ tên hai chữ. Tên nam. Triệu Vệ Hoa (赵卫华) ―Vệ Hoa‖ tên hai chữ. Tên nam. Lý Diễm Mẫn (李艳敏) ―Diễm Mẫn‖ tên hai chữ. Tên Nữ. Yến Thanh Thanh (宴青青) ―Thanh Thanh‖ tên hai chữ Tên Nữ Trong số 46 tên chính (bảng thống kê 3) trong 25 tên nam có 19 tên hai chữ, chiếm 76%, trong 21 tên nữ có 15 tên hai chữ, chiếm 71,42%. Điều này chứng tỏ người Hán hiện nay thích đặt tên hai chữ. +Tên cá nhân đa âm tiết Tên cá nhân đa âm tiết là những tên gọi ít nhất có ba âm tiết hoặc có thể nói là có ba chữ Trong ―Điều lệ đăng ký họ tên‖ (nhà nước Trung Quốc ban hành năm 2007) đã có qui định: ―công dân chỉ có thể đăng ký một tên (đăng ký ở cơ quan hộ tịch), họ tên đăng ký bắt buộc sử dụng Chữ Hán chuẩn mực, Họ ở vị trí đầu, tên ở vị trí sau. Nên lấy họ bố hoặc họ mẹ, cho phép áp dụng lấy họ ghép cả bố và mẹ. Số lượng âm tiết họ tên(cả họ) trong phạm vi 2- 6, tức là tên chính người Hán ít nhất phải có hai âm tiết( cả họ), và nhiều nhất không thể hơn 6 âm tiết.‖ Ví dụ: Uông Vũ Hân Nhiên ( 汪雨欣然) Vạn Lợi Siêu Việt (万利超越) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. Tên Nữ Tên Nam .
<span class='text_page_counter'>(43)</span> 35. Tăng Ni Ca Đức Mộ (曾尼歌德幕) Lâm Di Tư Tất Tú (林怡资毕秀). Tên Nam Tên Nữ. Vào những năm 1980 thế kỷ 20, Trung Quốc đã xuất hiện tên đa âm tiết có 4 chữ theo hình thức Họ đơn + Tên cá nhân đa âm tiết, Họ ghép + tên cá nhân đa âm tiết, tức là không đếm hình thức trong tên đa âm tiết có yếu tố Họ kép như: Âu Dương Trấn Hoa (欧阳震华),yếu tố Âu Dương là Họ kép, tên cá nhân chỉ là tên hai chữ thôi, không thể coi như là tên đa âm tiết có 4 chữ. Và tên đa âm tiết 5 chữ hoặc 6 chữ cũng theo hình thức như vậy. Chúng ta có thể nhìn thấy trong bảng thống kê thứ 3, 46 tên không có tên đa âm tiết. Điều này chứng tỏ rằng (xuất phát từ tên của các giáo viên khoa Nhân Văn của Học Viện Hồng Hà, giáo viên trẻ nhất cũng là sinh vào những năm sau năm 1980) trong những năm 80 thế kỷ 20 tuy đã có tên đa âm tiết xuất hiện, nhưng vẫn rất ít, không phổ biến. Đến bây giờ thì được nhiều người (thường là lứa tuổi những năm 80) tiếp nhận và đã có xu thế đặt tên đa âm tiết 4 chữ cho con cái, bởi vì họ cho rằng đây là hành vi theo đuổi phong trào mốt mới và biểu hiện tính cách đặc biệt của mình.Tuy hiện nay cũng chỉ là phong trào mới mốt trong lớp trẻ, nhưng cũng có thể coi đây là sự biến đổi của Nhân Danh Học xã hội. Hiện nay, yêu cầu của người dân đối với họ tên, không những có tác dụng là ―dấu hiệu‖ lúc đầu, mà còn nói lên trình độ văn hóa, và lòng yêu thương của cặp vợ chồng đối với con cái, là biểu tượng cho phong cách riêng mình. Một tác dụng của tên đa âm tiêt nữa là dùng để tránh trùng danh, đồng thời hình thức họ bố + họ mẹ + tên cá nhân đã chứng tỏ địa vị phụ nữ càng ngày càng được xã hội coi trọng. Đến thế kỳ 21, xuất hiện tên đa âm tiết 5 chữ, nhưng so với các mô hình tên gọi khác có thể nói là vẫn rất ít. Nguyên nhân chủ yếu là dân tộc Hán là một dân tộc có lịch sử lâu đời, và văn hóa họ tên là một mảng văn hóa khá đặc biệt. Đối với việc đặt tên, người ta vẫn muốn theo truyền thống. Sự xuất hiện của tên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(44)</span> 36. 4 chữ đã là một biến đổi to lớn của xã hội, tên 5 chữ vẫn ít người tiếp nhận. Ngoài ra còn vì lý do là tên 5 chữ hơi phức tạp, đối với người đặt tên đã có yêu cầu cao về mặt tri thức và trình độ văn hóa, đặc biệt là về mặt ngữ âm học. Nếu không phù hợp với âm vần học thì một tên đọc ra không êm tai hoặc khó đọc. Tuy trong ―Điều lệ đăng ký họ tên‖ đã cho phép công dân Trung Quốc đặt tên nhiều nhất 6 chữ, Nhưng hiện nay ngoài dân tộc thiểu số ra, rất ít người Hán đặt tên 6 chữ. Nhưng cũng không thể nói là chưa có. Ví dụ: có người mang tên là: Lý Du Gia Phi Huy Lâm (李瑜嘉辉菲琳) tất cả 5 yếu tố của tên cá nhân đều có nghĩa là ―xinh đẹp‖. 2.1.3. Đặc điểm ý nghĩa của tên riêng ngƣời Hán 2.1.3.1. Khái quát ý nghĩa của tên riêng Khi chúng ta thảo luận ý nghĩa của tên người, thì không thể không liên quan đến việc tranh luận giữa các trường phái trong lĩnh vực Triết Học, đây là bước đi đầu tiên mà chúng tôi nghiên cứu về tên người. Thế kỳ XIX, John S. Mill, Nhà Triết Học Chủ nghĩa Thực chứng nước Anh đã cho rằng: tên riêng chỉ là ký hiệu, bản thân không có ý nghĩa. Và Jonh Lyons, Nhà Ngữ Nghĩa Học hiện đại nước Anh cũng có quan điểm như vậy. Nhưng Nhà Triết Học và Nhà Lô-gích Học Đức Gottlob Frege lại có quan điểm ngược lại: tên riêng không những biểu trưng cho một sự vật cụ thể, mà còn biểu đạt ý nghĩa nhất định. Nhà Triết Học và Nhà Lô-gích Học Anh B. Rusell cùng thời kỳ với Jonh Lyons thừa nhận tên riêng có ý nghĩa và đã cho rằng: một từ nghĩa nếu đã biểu tượng cho một khách thể nào đó, thế thì sẽ là đại diện của khách thể này, như vậy khách thể được biểu tượng và đại diện đó chính là ý nghĩa của từ này. Như vậy, ―khách thể được tên riêng biểu tượng chính là ý nghĩa của tên riêng‖. Thời kỳ Chiến Quốc ngày xưa Trung Quốc đã có nhiều cuộc tranh luận về vấn đề tên riêng có nghĩa hay không có nghĩa, và đã xẩy ra một cuộc tranh luận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(45)</span> 37. về ―Danh‖ và ―Thực‖. Chủ yếu có hai lý thuyết đối lập nhau: lý thuyết ―Chính Danh‖ của Khổng Tử và lý thuyết ―Thủ Thực Dư Danh‖ của Mặc Tử. Trong tư tưởng của Khổng Tử, ―danh chính‖ mới có thể ―Ngôn thuận‖, ông chủ trương dùng danh xưng vốn có để sửa chữa những nội dung đã biến đổi; Ngược lại, Mặc Tử nhấn mạnh không phải là ―Danh‖ quyết định ―Thực‖, mà là ―Thực‖ quyết định ―Danh‖. Từ góc độ lịch sử và văn hóa, tên người không chỉ là dấu hiệu tượng trưng cho cá thể hoặc là quần thể, nó còn có nghĩa hoặc là ý nghĩa. Mà ý nghĩa của tên người đến từ xã hội, tác dụng dấu hiệu của nó phát sinh từ sự giao tiếp, đồng thời biến đổi và chuyển dịch trong sự giao tiếp của xã hội. Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay giới học thuật Trung Quốc đã có nhận thức chung về ý nghĩa của tên người là: tên người mang ý nghĩa xã hội và ý nghĩa văn hóa, thậm chí có ý nghĩa chính trị. Ý nghĩa xã hội là chỉ các yếu tố tổ hợp thành tên người sau khi kết hợp với nhau, không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính cộng đồng. Người ta dựa vào tên gọi một thời kỳ nhất định có thể nhìn thấy đặc điểm nổi bật của xã hội thời điểm đó. Ví dụ: dưới bối cảnh xã hội cải cách mở cửa, người ta thường thích những từ ngữ có nội hàm văn hóa và có đặc điểm thời đại dùng để đặt tên cho con cái. Cụ thể như: những năm 80 của thế kỷ trước thường gặp những tên như Lý Cầu Phú (李求富), Dương Phó Mỹ (杨赴美) …Người đặt tên có ý muốn giàu lên hoặc con được đi đến nước Mỹ. Đến những năm gần đây, tức là vào cuối thế kỷ 20, đã có tên như: Phương Đại Vệ (方大卫), Hà Lệ Na (何玛 丽), ―Đại Vệ‖ giống phát âm tiếng Anh ―David‖, ―Mã Lệ‖ giống phát âm tiếng Anh―Marry‖. Điều này chứng tỏ sau mấy chục năm cải cách mở cửa, văn hóa Châu Âu đã thâm nhập vào Trung Quốc, đến độ văn hóa họ tên truyền thống của Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng. Về ý nghĩa văn hóa, tên người là sản phẩm khi nhân loại đã tiến hóa tới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(46)</span> 38. một trình độ nhất định mới xuất hiện. Đầu tiên tên gọi đã biểu thị sự tiến bộ của hoàn cảnh sinh sống và điều kiện sinh hoạt, đến khi xã hội đã phát triển đến trình độ văn minh sơ cấp, tên gọi mới biểu thị ý nghĩa văn hóa và ý chí văn hóa. Nói chung sau khi tên gọi được cộng nhận có ý nghĩa khu biệt cá nhân trong tập thể, thì tên gọi còn có thể bày tỏ ý nghĩa thâm thúy của nhân vật chỉ định như: đặc điểm, tính cách, sở thích, ước vọng …Ví dụ: người có tên Dương Thành Tài (杨成才) đã bày tỏ ước vọng tốt đẹp của bố mẹ hoặc người đặt tên, trong đó có mong muốn người mang tên có thể trưởng thành có thể trở thành một người có tài, có năng lực. Tên gọi người Hán cũng mang ý nghĩa chính trị. Tên gọi loại này thường là lấy một từ ngữ mang sắc thái chính trị có sẵn thới đó, và trực tiếp phản ánh ý muốn của cộng đồng hoặc toàn bộ người dân.Ví dụ: tên gọi Lưu Thắng Lợi (刘 胜利), Lý Giải Phóng (李解放) … Tên gọi loại này thường xuyên xuất hiện vào thời kỳ kháng chiến những năm 30, 40 thế kỳ 20. Và cũng có thể nói là ý nghĩa chính trị của tên gọi là một nhánh của ý nghĩa xã hội. 2.1.3.2. Ý nghĩa của tên họ người Hán Tên họ của người Hán bắt nguồn từ thời Thượng Cổ. Tên họ người Hán đã có lịch sử mấy nghìn năm, sớm nhất bắt nguồn từ sự sùng bái đối với thế giới thiên nhiên như: gió (风), mây (云), sấm (雷) … Nữ Oa và Phục Hy lấy Phong (gió) làm họ, con cháu của Thần Nông lấy Lôi (Sấm) làm họ. Trong thời kỳ Hoàng Đế có dòng họ Vân, tức là lấy Vân (mây) làm họ. Đối với sự bắt nguồn của tên họ người Hán, mấy nghìn năm đến nay có nhiều thay đổi và cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Tên họ ―Trương‖ sớm nhất là người phát minh ra cung tên được Hoàng Đế ban tặng ―Trương‖ làm họ, cho nên chữ Hán Trương (张) có bộ thủ Cung (弓), sau đó các thế hệ sau đã tiếp tục sử dụng tên họ ―Trương‖ đến nay. Cũng như trong tiểu mục 1.2.2.1 đã nêu ra tên họ người Hán bắt nguồn từ nhiều mặt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(47)</span> 39. ―Trương‖ là liên quan đến nghề nghiệp và là do vua ban tặng họ, còn như ―Diêu‖(姚) là lấy tên nơi cư trú làm họ, ―Nguyễn‖(阮) là lấy tên nước làm họ, ―Tư Đồ‖(司徒), ―Tư Mã‖(司马) là lấy tên quan chức làm họ… Ý nghĩa nổi bật và quan trọng nhất của tên họ là: tên họ là dấu hiệu và ký hiệu quan hệ huyết thống dòng họ của một người. Thời xưa, trong lịch sử Trung Quốc đã xuất hiện phân chia tôn ti trật tự theo tên họ, và tôn ti này đã góp phần vào hôn nhân phải môn đang hộ đối ở Trung Quốc, cùng một họ trong dân gian sẽ không được kết hôn, để tránh những bệnh di truyền cận huyết. Đến cận đại và hiện đại tên họ chỉ là dấu hiệu khu biệt dân số, tiện về sự quản lý đối với dân số, nhân sự của cơ quan công an hoặc nhà nước. Đồng thời, tiện về khảo sát nghiên cứu huyết thống và gien của con người để đề phòng kết hôn đúng theo quy định của luật hôn nhân và gia đình. 2.1.3.3. Ý nghĩa của tên người Hán Trong tên chính (tên thật) của người Hán, yếu tố mang ý nghĩa chủ yếu và quan trọng nhất là yếu tố tên cá nhân. Vì thế nói đến tên người Hán là nói đến ý nghĩa của tên cá nhân.Điều này khác với tên gọi của nhiều dân tộc ở châu Âu, ý nghĩa tên gọi chủ yếu của họ là do họ đảm nhận. Ví dụ: tên họ người châu Âu ―Andrews‖ có nghĩa là ―dũng cảm‖ đảm nhận ý nghĩa chủ yếu trong tên Paul Andrews, và trong tên người Hán muốn phó thác ý nghĩa ―dũng cảm‖ phải là do tên cá nhân chứng tỏ như: Lý Dũng (李勇), ―Dũng‖ ở đây chính có nghĩa là ―dũng Cảm‖. Tên riêng thường xuyên phản ánh một cách nhạy cảm và tức thì mọi sự diễn biến đang xẩy ra trong đời sống xã hội, nhưng không phải là tất cả mọi thứ biến động của hiện thực đều có thể phản ánh vào tên riêng. Trong tất cả tên người Hán được khảo sát ý nghĩa của tên người Hán thường biểu trưng cho các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực. Và trong truyền thống của người Hán, tên nam và tên nữ có khu biệt rõ rệt về mặt âm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(48)</span> 40. nghĩa, theo tác giả Nạp Nhật Bích Lực Qua (纳日碧力戈) các loại từ dùng trong tên gọi nữ thường có 8 loại sau đây: [II-12] 1) Các từ mang tính con gái: Nương(娘), Nữ(女), Thư(姐), Cô(姑), Cơ(姬),Viên(媛), Đình(婷), Na(娜) … 2) Các từ chim hoa: Hoa (花,华), Anh (英), Mai (梅), Đào (桃), Liên (莲), Phượng (凤), Yến (燕) … 3) Các từ khuê vật: Tú (秀), Các (阁), Thoa (钗), Xuyến (钏), Hoàn (纨), Hương (香), Đại (黛) … 4) Các từ phấn diễm: Mỹ(美), Lệ(丽), Thiến(倩), Tố(素), Thanh(青), Thúy(翠) … 5) Các từ cảnh đẹp: Nguyệt (月), Mi (湄), Ba (波), Vân (云), Tuyết (雪), Văn (雯), Xuân (春), Hạ (夏)… 6) Các từ chỉ báu vật: Ngọc (玉), cảnh (璟), Sam (珊), Quỳnh (琼)… 7) Các từ tình cảm: Ái (爱), Huệ (惠), Hỷ (喜), Di (怡) … 8) Các từ phẩm chất tư cách: Thục (淑), Hiền (娴), Tịnh (静), Xảo (巧), Tuệ (慧) … Theo truyền thống, tên nam người Hán thường sử dụng các từ hùng mạnh hào phóng, một số tên thể hiện có hoài bão lớn lao như: Tế Thế (济世), Trụ Quốc (柱国), Quốc Đống (国栋) … Tên thể hiện chí hướng như: Cảnh Hiền (景贤), Mộ Thánh (幕圣) …Tên thể hiện phẩm hạnh như: Tôn Liêm (宗廉), Thanh Phong (清风) … Tên thể hiện ý muốn trường thọ như: Bành Thọ (彭寿), Quy Linh (龟龄) … Tên thể hiện nguyện vọng thăng quan phát tài như: Giới Quan (介官), Tài Vượng (财旺), Phú Quý (富贵) … Tên thể hiện hào hùng như: Trường Không (长空), Vạn Lý (万里), Cao Sơn (高山) …Tên biểu thể hiện phi phàm như: Bất Đồng (不同), Bất Nghi (不疑) … Theo các ví dụ trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, hình thức mô hình tên người Hán phổ biến nhất là cấu trúc: tên họ đơn + tên cá nhân song âm tiết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(49)</span> 41. Trong ý thức của người Hán, có một điều truyền thống là đặt tên hai chữ dễ biểu tỏ mong muốn và nguyện vọng tốt đẹp cho con cái, tên hai chữ mang ý nghĩa biểu trưng và ý nghĩa hàm chỉ đa dạng và phong phú hơn so với tên đơn. 2.2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC, Ý NGHĨA CỦA TÊN RIÊNG NGUỜI VIỆT 2.2.1. Khái niệm “tên ngƣời” trong tiếng Việt Trong tiếng Việt, hình thức cấu tạo của tên người chủ yếu là: Họ + Tên Đệm + Tên‖. Có rất nhiều cách gọi để chỉ ―tên người‖. Trong môn Danh xưng học, có thuật ngữ ―Nhân danh‖, và còn có cách gọi như tên riêng chỉ người, tên chỉ người, tên gọi người… còn bộ phận ―tên Đệm‖ có khi lại được gọi là ―tên lót‖, bộ phận cuối cùng có cách gọi là: tên, tên gọi, tên riêng, tên chính, tên cá nhân,… vì thế trong luận văn chúng tôi theo cách gọi các bộ phận trong cấu trúc trên là ―Họ‖, ―Đệm‖, ―Tên cá nhân‖ để dễ khu biệt chúng. Trong phần mở đầu chúng tôi đã trình bày về nội dung ngoài tên thật (chính danh), tên người còn có nhiều loại khác như: tên tục, tên húy, tên hiệu, bút danh, nghệ danh, biệt anh,…Mô hình cấu trúc ―tên họ + tên đệm + tên cá nhân‖ là mô hình cấu trúc của tên thật (chính danh) của người Việt, chứ không phải là mô hình chung của tên người Việt. Vì vậy, luận văn chỉ lấy tên thật của người Việt làm đối tượng nghiên cứu. Tên người trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Hán và nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới thuộc hệ thống từ vựng. Như vậy tên người trong tiếng Việt đã được coi là một loại đơn vị định danh. Theo học giả Phạm Tất Thắng, có thể sử dụng thuật ngữ ―Tổ hợp định danh‖ (sau đây viết tắt là THĐD) để chỉ loại đơn vị định danh tên người. Trong lí luận của tác giả, tên người là một tổ hợp định danh gồm có 3 bộ phận: tên họ, tên đệm, và tên cá nhân. Các bộ phận này đã kết hợp một cách chặt chẽ theo trật tự: tên họ + tên đệm + tên cá nhân. Các bộ phận trong cấu trúc được tác giả định nghĩa là danh tố. Danh tố là các yếu tố Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(50)</span> 42. mang chức năng định danh, tham gia cấu tạo nên các THĐD một cách trực tiếp, mỗi một danh tố là một đơn vị định danh riêng biệt, chúng có khả năng tách ra khỏi cấu trúc tên người để hoạt động một cách tương đối độc lập trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định. 2.2. 2. Đặc điểm cấu trúc của tên riêng nguời Việt 2.2. 2. 1. Mô hình cấu trúc của tên người Việt hiện nay Về mô hình cấu trúc tên thật người Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng tên thật người Việt có hai mô hình cấu trúc chính: - Tên họ + Tên cá nhân - Tên họ + Tên đệm + Tên cá nhân Tuy đa số tác giả đã thống nhất mô hình chung cấu trúc tên thật người Việt: Họ + Đệm + Tên, nhưng mỗi nhà nghiên cứu đều có ý kiến riêng của mình về phân loại cấu trúc tên thật người Việt. Ví dụ: tác giả Dương Lan Hải trên cơ sở thừa nhận người Việt có tên họ ghép và tên đệm ghép, đã đưa ra 6 kiểu cấu trúc tên thật người Việt: 1) Tên họ đơn + Tên cá nhân Như: Lê Lợi, Lê Duẩn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Tuân… 2) Tên họ ghép + Tên cá nhân Như: Nguyễn Hoàng Hưng, Tôn Nữ Kiều Hạnh… 3) Tên họ đơn + Tên đệm đơn + Tên cá nhân Như: Lô Thị Nguyệt, Hoàng Văn Dũng, Nguyễn Thị Thanh Thảo… 4) Tên họ ghép + Tên đệm đơn + Tên cá nhân Như: Nguyễn Đỗ Văn Sơn, Tôn Lương Thị Thu Thủy… 5) Tên họ đơn + Tên đệm ghép + Tên cá nhân Như: Cao Thị Thu Hằng, Lê Thị Huyền Trang, Nguyễn Văn Quang Đại... 1) Tên họ ghép + Tên đệm ghép + Tên cá nhân Như: Ngô Vi Văn Công Tiến, Hoàng Phủ Đức Minh Nhân… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(51)</span> 43. Vì có quan niệm trái lại với ông Dương Lan Hải, tác giả Nguyễn Kim Thản có 3 kiểu cấu trúc tên người Việt khác nhau sau: 1) Tên họ đơn + Tên cá nhân đơn Ví dụ: Nguyễn Du, Hoàng Hậu, Phạm Tùng… 2) Tên họ đơn + Tên đệm đơn + Tên cá nhân đơn Ví dụ: Nguyễn Minh Thắng, Lý Văn Nghĩa, Trần Thị Thùy… 3) Tên họ đơn + Tên đệm đơn + Tên cá nhân ghép Ví dụ: Nguyễn Thị Thu Thủy, Trần Thị Bích Ngọc… Trên cơ sở các mô hình cấu trúc tên thật người Việt của các nhà nghiên cứu đã trình bày, mặt khác còn dựa vào dữ liệu điều tra, chúng tôi đưa ra 9 kiểu cấu trúc tên người Việt. Chúng tôi cho rằng nhận thức như thế này tương đối toàn diện và tỉ mỉ: 1) Họ đơn + ø + Tên cá nhân đơn Ví dụ: Lê Mai, Phan Thiều, Nguyễn Duy… 2) Họ đơn + ø + Tên cá Nhân kép Ví dụ: Đỗ Hải Yến, Phạm Xuân Liên, Vũ Trường Giang… 3) Họ ghép + ø + Tên cá nhân đơn Ví dụ: Nguyễn Hoàng Hải, Trần Lê Bảo, Ngô Vi Vương… 4) Họ ghép + ø + Tên cá nhân kép Ví dụ: Nguyễn Đỗ Sơn Tùng, Tôn Lương Hà Nội… 5) Họ đơn + Tên đệm đơn + Tên cá nhân đơn Ví dụ: Tạ Thị Hoa, Nguyễn Minh Khoa, Trần Văn Hiếu… 6) Họ đơn + Tên đệm đơn + Tên cá nhân kép Ví dụ: Hoàng Thị Thanh Xuân, Phạm Thế Việt Chinh… 7) Họ kép + Tên đệm đơn + Tên cá nhân đơn Ví dụ: Tôn Thất Văn Hiếu, Vũ Đỗ Thị Thanh… 8) Họ đơn + Tên đệm kép + Tên cá nhân đơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(52)</span> 44. Ví dụ: Phạm Thị Minh Phương, Trương Thị Thúy Nga… 9) Họ đơn + Tên đệm kép + Tên cá nhân kép Ví dụ: Trần Nguyên Thụy Thủy Tiên, Hoàng Thị Phương Bảo Ngọc… Theo một số cứ liệu các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi nhận thấy trong số 9 kiểu cấu trúc tên thật người Việt đã nêu trên, kiểu 5) Họ đơn + tên đệm đơn + tên cá nhân đơn chiểm tỷ lệ cao nhất, có thể coi là mô hình tiêu chuẩn cấu trúc tên người Việt từ xưa đến nay. Kiểu 6) Họ đơn + Tên đệm kép + Tên cá nhân kép có tỷ lệ cao thứ hai, là kiểu cấu trúc được lớp trẻ người Việt hiện nay lựa chọn nhiều nhất. 2. 2.2.2. Các thành phần của tên riêng người Việt + Tên họ của nguời Việt Việt Nam nằm ở bán đảo Đông Dương(tên gọi theo tiếng Anh, tiếng Pháp là Indo- china) đã thể hiện một đặc điểm nền văn hóa chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc và văn hóa Ấn Độ. Trước đây trong lãnh thổ Việt Nam đã từng tồn tại một quốc gia là nước Chàm với ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ rất đậm đà. Và thứ văn hóa tên họ là một mảng văn hóa rất đặc biệt trong mạng lưới văn hóa xã hội và văn hóa dân tộc Việt Nam. Mặc dù vậy văn hóa tên họ vẫn chịu nhiều ảnh hưởng từ Trung Quốc. Tuy nhiên khi nghiên cứu chúng tôi thấy đa số tên họ được đọc trệch đi cho khác với nguyên gốc để hợp với phát âm tiếng Việt. Một phần có thể do dân số không đông, họ người Việt không nhiều như Trung Quốc hay Ấn Độ. Các họ lớn ở Việt Nam thường gắn với một triều đại trong lịch sử nước mình. Rất nhiều tư liệu đều cho rằng trong lịch sử Việt Nam không tìm thấy sử liệu nói về nguồn gốc tên họ tại Việt Nam. Theo một số học giả như ông Nguyễn Bạt Tụy cho rằng nguồn gốc tên họ người Việt hiện nay đang sử dụng chủ yếu là du nhập từ Trung Quốc, bắt chước người Hán. Ông Nguyễn Đổng Chi, thuộc Ủy Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội đồng quan điểm với lập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(53)</span> 45. trường trên. Bắt đầu từ khi phong kiến phương bắc đô hộ, tên họ người Hán thông qua những quan lại, binh lính, quý tộc, thương gia, nho sĩ, tội nhân bị đi đầy mang sang Việt Nam đã lưu lại Việt Nam đến bây giờ. Cũng như tên người Hán và một số dân tộc khác trên thế giới, danh tố họ trong tên thật người Việt đứng ở vị trí đầu tiên, mô hình chung là: họ + tên. Về mặt cấu tạo, đa số tác giả nhất trí cho rằng tên họ người Việt tồn tại chủ yếu dưới hình thức đơn âm tiết, tức là họ đơn. Ngoài họ đơn ra, có một số tác giả cũng cho rằng: tên họ người Việt vẫn tồn tại họ kép và họ ghép. Họ kép là một loại từ đa âm tiết không thể chia cắt hoặc thay thế bất kỳ một thành phần nào trong đó, thành phần thứ nhất trong họ kép là họ đơn có sẵn, còn thành phần thứ hai chỉ là yếu tố đóng vai trò thành tố phụ.Ví dụ: Nguyễn Đình, Nguyễn Khoa, Nguyễn Tài, Hứa Sỹ… Còn có một số học giả lại cho rằng, không tồn tại họ kép, mà tất cả tên họ đa âm tiết đều được họ xếp là họ ghép. Họ ghép là hai thành phần đều là tên họ có sẵn được ghép với nhau, trong đó, điển hình nhất là kiểu [họ cha + họ mẹ]. Theo tác giả Nguyễn Long Thao, tên họ người Việt không có họ kép chi có họ ghép và họ ghép không những có hai chữ, mà còn có họ ghép ba chữ và bốn chữ.Ví dụ: - Họ một chữ: Nguyễn, Trần, Lê, Phạm… - Họ hai chữ: Nguyễn Huỳnh, Đặng Trần… - Họ ba chữ: Công Tôn Nữ - Họ bốn chữ: Công Tằng Tôn Nữ Và Nguyễn Long Thao cũng có nêu ra 5 lí do hình thành họ ghép: 1) Họ ghép vì đi làm con nuôi; Ví dụ: Đặng Trần Côn vốn họ Trần, làm con nuôi của gia đình họ Đặng, cho nên mang họ Đặng Trần, con cháu ông cũng tiếp tục mang họ ghép là Đặng Trần Thường, Đặng Trần Thiện… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(54)</span> 46. 2) Họ ghép vì được vua ban họ; Ví dụ: Trần Bình Trọng vốn họ Lê, thuộc dòng dõi Lê Đại Hành, sau nhờ công lớn, được đổi sang họ Trần là họ nhà vua. 3) Họ ghép vì muốn phân biệt; Tại Việt Nam, nhiều làng chỉ có một dòng họ, do đó, để phân biệt các chi nhánh, người ta thêm vào sau tên họ các từ có ý nghĩa thân tộc như Mạnh, Đình, Trọng, Quý, Bá, Thúc, Tôn và người ta nói ông này họ Mạnh, ông kia họ Thúc.Thực ra, họ là các ông Trần Mạnh A, Trần Thúc B. Và ở Trung Quốc cũng có tập tục như vậy để phận biệt các chi nhánh dưới một dòng họ lớn nào đó như: Trương Chí A, Trương Thiếu B… Nhưng tại Trung Quốc, người ta không coi Trương Chí và Trương Thiếu là họ ghép, mà chỉ cho rằng họ vẫn là Trương, yếu tố Chí Và Thiếu chỉ dùng để khu biệt. 4) Họ ghép để biểu lộ ý niệm huyết thống; Suốt triều đại hậu Lê, từ vua Lê Trang Tông (1533-1548), tức Lê Duy Ninh đến vua Lê Mẫn Đế (1787-1788), tức Lê Duy Kỳ, trải qua 17 đời vua, kéo dài 255 năm, vua nào cũng có họ là Lê Duy. 5) Họ ghép vì muốn thêm họ mẹ. Theo tục lệ và luật pháp của xã hội, theo chế độ phụ hệ, người con phải mang dòng họ cha. Tuy nhiên, vào khoảng giữa thế kỷ 20, vì bị ảnh hưởng văn hóa tây phương, vì địa vị của người phụ nữ được đề cao, nên tên họ mẹ đã thấy xuất hiện sau tên họ cha trong thành phần tên họ của con. Mục đích này nhằm nhắc nhở cho con về dòng họ mẹ, và ghi dấu cuộc hôn nhân giữa hai dòng họ. Khuynh hướng tốt đẹp này ngày càng phổ biến trong xã hội Việt Nam. Việc này tuy cũng xuất hiện trong xã hội Trung Quốc, nhưng có một nguyên nhân khác với Việt Nam là: do Trung Quốc có chính sách mỗi một gia đình trong thành phố chỉ được đẻ một con, nên mục đích nhắc nhở cho con về dòng họ mẹ càng được người Trung Quốc coi là nguyên nhân chủ yếu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(55)</span> 47. Vì còn nhiều ý kiến tranh luận, nên trong luận văn, chúng tôi không theo quan niệm của ông Nguyễn Long Thao, mà giữ ý kiến tên họ người Việt Nam có họ kép và họ ghép. Đây cũng là lý do mà số lượng tên họ người Việt hiện nay các học giả Việt Nam chưa có ý kiến thống nhất và cũng chưa có con số thống nhất. Chẳng hạn, năm 1949, ông Nguyễn Bạt Tụy, trong bài Tên người Việt Nam, cho biết có 308 họ. Ông Bình Nguyên Lộc liệt kê 147 họ. Ông Dã Lan viết có chừng 300 họ. Ông Vũ Hiệp viết: Khối người kinh có khoảng 150 họ, các dân tộc thiểu số thì chưa có thống kê rõ về số dòng họ, có lẽ độ 109 dòng họ của dân tộc thiểu số mà thôi.Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, trong bài Vietnamese Names and Titles, cho biết Việt Nam có khoảng 300 họ. Giáo sư dựa vào tài liệu của nhà địa lý học Pierre Gourou cho rằng đồng bằng Bắc Việt có 202 dòng họ. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cho là Việt Nam có khoảng 300 họ, nhưng thông dụng chỉ khoảng vài chục. Giáo sư Hà Mai Phương và Bảng Phong, trong bài Lược khảo về tên, họ Người Việt Nam đưa ra danh sách 351 tên họ.Năm 1992, Tiến sĩ Lê Trung Hoa, trong sách Họ và tên Người Việt Nam, đã đưa ra danh sách 931 họ. 1) Tên họ đơn Tên họ đơn của người Việt cũng giống như người Hán, là tên họ tồn tại dưới hình thức đơn âm tiết (một tiếng hoặc một chữ). Tên họ đơn là hình thức cơ bản nhất trong tên họ người Việt. Vì không xác định được số lượng tên họ người Việt, cho nên cũng không xác định được số lượng tên họ đơn của người Việt. Các học giả tại Việt Nam cũng nêu ra ý kiến khác nhau, ví dụ: năm 1992, tác giả Lê Trung Hoa liệt kê ra con số tên họ đơn người Việt hiện nay là 163[I-7]; Theo sự thống kê của tác giả Phạm Tất Thắng lại có con số 174 tên họ đơn (kể cả đồng âm). Tác giả còn coi biến thể của một số tên họ như: Chu -Châu, Vũ - Võ, Hoàng - Huỳnh... là hai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(56)</span> 48. tên họ hoàn toàn khác nhau. Năm 2004, theo ý kiến của tác giả Nguyễn Long Thao, người Việt (tức là người Kinh) có 428 tên họ đơn. Thông qua một số tư liệu khảo sát, chúng tôi thống kê ra 170 tên họ đơn (kể cả đồng âm) của người Việt. Sau đây là danh sách cụ thể (xếp theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Việt) -An, Ân, Âu -Bạch, Bàng, Bành, Bảo, Biện, Bồ, Bùi -Cam, Cảnh, Cao, Cát, cầm, Chân, Châu (Chu), Chiêm, Chúc, Chử, Chung, Chương, Cố, Cổ, Cốc, Công, Cù, Cung -Diệp, Diêu, Doãn, Dư, Dương, Đái (Đới), Đàm, Đào, Đặng, Đậu, Điền, Điêu, Đinh, Đoàn, Đồ, Đỗ, Đồng, Đổng, Đường -Giản, Giang, Giáp -Hà, Hạ, Hàn, Hầu, Hoa, Hoàng (Huỳnh), Hồ, Hồng, Hùng, Hứa, Hướng -Kha, Khổng, Khuất, Khúc, Khương, Khưu, Kiều, Kim, Kỷ -La, Lã (Lữ), Lại, Lãnh, Lăng, Lâm, Lê, Liêu, Liễu, Lô, Lỗ, Lôi, Lục Lương, Lưu, Lý -Ma, Mã, Mạc, Mai, Mạnh Mục, -Nghê, Nghiêm, Ngọ, Ngô, Ngũ, Ngụy, Nguyễn, Ngưu, Nhâm, Nhân, Nhất, Nhiếp, Ninh, Nông, Nung -Ong (Ông) -Ô, Ôn -Phạm, Phan, Phí, Phó, Phù, Phùng, Phương -Quách, Quan, Quản -Sa, Sái, Sâm, Sầm, Sở, Sử -Tạ, Tăng, Tân, Thạch, Thái, Thành, Thẩm (Trầm), Thân, Thi, Thiện, Thiết, Tiêu, Toàn, Tô, Tôn, Tống, Trần, Triệu, Trình, Trịnh, Trương, Từ, Tưởng -Uông, Uyển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(57)</span> 49. -Văn, Vi, Viên, Vũ (Võ), Vô, Vương, Việt -Xa, Xuân Theo một số tư liệu thống kê và nghiên cứu, 15 họ phổ biến nhất tại Việt Nam là các họ sau đây: Bảng 2.4: 15 họ phổ biến nhất tại Việt Nam STT. Họ. Phiên âm. Ghi bằng. tiếng Hán. chữ Hán. Tỷ lệ (%). 1. Nguyễn. ruǎn. 阮. 38,4%. 2. Trần. chén. 陈. 11%. 3. Lê. lí. 黎. 9,5%. 4. Phạm. fàn. 范. 7,1%. 5. Hoàng (Huỳnh). huáng. 黄. 5,1%. 6. Phan. pan. 潘. 4,5%. 7. Vũ (Võ). wǔ. 武. 3,9%. 8. Đặng. dèng. 邓. 2,1%. 9. Bùi. péi. 裴. 2%. 10. Đỗ. dù. 杜. 1,4%. 11. Hồ. hú. 胡. 1,3%. 12. Ngô. wú. 吴. 1,3%. 13. Kim. jīn. 金. 1,2%. 14. Dương. yáng. 杨. 1%. 15. Lý. lǐ. 李. 0,5%. 2) Tên họ kép Tên họ kép trong tiếng Việt là tổ hợp đa âm tiết(thông thường là hai âm tiết) dùng để gọi tên cho một dòng họ xác định và duy nhất. Hiện nay trong nước Việt Nam đối với việc phân biệt họ kép chưa có một quan điểm thống nhất, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số tác giả cho rằng Việt Nam tồn tại họ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(58)</span> 50. kép như tác giả Lê Trung Hoa. Nhưng cũng có nhiều học giả thấy rằng trong xã hội Việt Nam không có họ kép như tác giả Phạm Thuận thành. Cũng như ý kiến của một số tác giả, chúng tôi quan niệm rằng: ở Việt Nam có họ kép và họ kép của người Việt phân chia thành 2 loại: Loại thứ nhất: họ kép là một tổ hợp đa âm tiết có kết cấu chặt chẽ không tách ra được, không thể thay thế bất cứ yếu tố nào của nó, và cũng không thể hoán đổi vị trí của bất kì yếu tố nào trong tổ hợp đó. Các họ kép loại này của người Việt có thể đếm được, chính là các họ kép: Tôn Nhất, Tôn Nữ, Hoàng Phủ, Công Tằng Tôn Nữ. Loại thứ hai: họ kép được hình thành dùng để gọi tên cho một dòng họ duy nhất, hoặc để phân biệt các chi nhỏ trong một dòng họ lớn nào đó. Theo tác giả Nguyễn Vy Khanh, kết cấu loại họ kép này là: tên họ đơn có sẵn + tên đệm, như các họ Ðặng-Xuân, Ðặng-Vũ và Ngô-Vi, Ngô-Thời, xuất phát từ một gia đình gốc họ Ðặng và họ Vũ, nhưng vì muốn phân biệt chi nhánh nên đã thêm tên đệm vào họ.Yếu tố này không phải là họ, nhưng giữ nhiệm vụ tên lót trung gian giữa họ và tên.Các họ kép Nguyễn Công, Nguyễn Khoa, Nguyễn Tài, Nguyễn Hữu, Nguyễn Đức, Nguyễn Thế… cũng là thuộc loài tên họ kép này. Hai loại họ kép trên có một điểm khác nhau về kết cấu: loại thứ nhất có kết cấu chặt chẽ, loại thứ hai lỏng lẻo hơn, vì các thành tố trong kết cấu có thể thay thể bằng các yếu tố khác. Và hai loại họ kép này cũng có một đặc điểm giống nhau: chúng được tạo thành bằng hai thành tố trong đó thành tố thứ nhất vẫn do một tên họ đơn có sẵn đảm nhận. Một điểm đáng chú ý là: tên họ kép loại thứ hai chỉ là do sự qui ước trong phạm vi một dòng họ hoặc một vài địa phương nhất định, nên tính xã hội hóa của những tên họ kép này chưa cao lắm, chúng chưa được cộng đồng chấp nhận sử dụng như là một tên họ có sẵn. Đây chính là nguyên nhân mà nhiều người không thừa nhận người Việt có tên họ kép. Trên thực tế thì việc nhận biết họ kép rất khó khăn do đó cho đến hiện nay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(59)</span> 51. giới học thuật cũng chưa thống nhất một dấu hiệu rõ ràng để phân biệt tên họ kép với ―tên đệm‖. 3) Tên họ ghép Tên họ ghép là tên họ được cấu tạo bằng hai tên họ đơn có sẵn ghép lại với nhau.Và thường xuyên theo hình thức: họ bố + họ mẹ. Ví dụ: Trần Lê, Nguyễn Hoàng, Phan Vũ, Nguyễn Đỗ…trong các tổ hợp này dễ dàng nhận ra thành tố đứng ở vị trí đầu tiên là họ bố, thành tố đứng ở vị trí thứ hai là họ mẹ. Nhưng cũng có ngoại lệ là người con nuôi,thêm họ gia đình cha mẹ nuôi vào họ gốc. Họ mới trước họ gốc sau. Ðó là hoàn cảnh của nhà thơ Ðặng-Trần Côn, tác giả Bích-Câu kỳ-ngộ và Chinh Phụ Ngâm Khúc. Là con nuôi của một gia đình họ Ðặng, ông vốn tên là Trần Côn. Con cháu thường vẫn tiếp tục giữ họ ghép đó. Các họ này thường khó trường tồn vì không được mọi người cũng như tục lệ chấp nhận. Hơn nữa, những người con của họ, một khi lập gia đình lại sẽ đổi họ ghép đặt cho con, họ ghép của người phối ngẫu mới có thể là một họ khác. Hiện tượng ghép lại họ bố với họ mẹ thành họ ghép dùng trong tên con, càng ngày càng phổ biến và đã giải quyết một vấn đề khó khăn cho các bậc cơ quan hộ tịch, chính là vấn đề trùng danh. Ví dụ, hai em bé đồng thời mang tên Nguyễn Thiện Hậu, nếu như một gia đình thêm họ mẹ sau họ bố thành Nguyễn Phạm Thiện Hậu, thì sẽ là hai tên khác nhau. Điều này chắc chắn sẽ góp phần thuận lợi cho việc quản lý hộ tịch. Không chỉ tránh trùng danh, kiểu họ ghép họ bố + họ mẹ còn chứng tỏ ra sự tiến bộ của xã hội vì đã coi trọng vị trí của phụ nữ trong gia đình nói riêng và trong xã hội nói chung. Đã biểu lộ ý niệm: nhắc nhở con cháu nhớ được dòng họ của mẹ. Tóm lại, tên họ người Việt chủ yếu lấy tên họ đơn làm chủ và ngoài họ đơn ra vẫn tồn tại hai hình thức họ kép và họ ghép. Họ kép và họ ghép có điều giống nhau: đều là tên họ đa âm tiết và điểm khu biệt nổi bật nhất của họ kép và họ ghép là: họ kép là để xác định một dòng họ duy nhất, và họ ghép là do ghép Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(60)</span> 52. hai tên họ đơn có sẵn cấu tạo nên. So với tên họ đơn, tính xã hội của họ kép và họ ghép chưa cao, chưa được đa số người Việt tiếp nhận sử dụng như là các tên họ có sẵn. + Tên đệm của ngườiViệt Danh tố đệm trong tên người Việt Nam, thường xuyên đứng ở vị trí thứ hai, giữa tên họ và tên cá nhân, trước tên cá nhân và sau tên họ theo mô hình: tên họ + tên đệm + tên cá nhân. Cũng như tên họ và tên cá nhân, tên đệm cũng được xem là một đơn vị định danh dùng để gọi tên. Trong tên người Việt, tên đệm là một yếu tố không thể không nhắc đến, và đóng vai trò quan trọng từ xưa đến nay. Giống như tên người Việt, một số dân tộc khác trên thế giới cũng có tên đệm như người Anh, Mỹ…Tên đệm của người Anh và Mỹ cũng nằm ở vị trí giữa tên cá nhân và tên họ, nhưng là mô hình cấu tạo nên tên không giống với người Việt: tên cá nhân + tên đệm + tên họ. Ở châu Âu và Mỹ, người ta không coi trọng tên đệm như người Việt Nam, cho nên họ nhiều khi viết tắt thành phần này. Ví dụ: Marry Augusta Ward được viết tắt là: Marry A. Ward Norman George Douglas được viết tắt là Norman G. Douglas Và trong tên người Việt chưa bao giờ có tình hình viết tắt tên đệm bằng chữ cái đầu.Thông qua cứ liệu thống kê của tác giả Lê Trung Hoa, trong tổng số 3282 người, có 2921 người có tên đệm, chiếm 89%, chúng tôi có thể nhận thấy đa số người Việt Nam vẫn ưa thích sử dụng tên đệm trong tên chính của con cháu.Theo chúng tôi điều tra, hiện nay ở Việt Nam tỷ lệ nữ giới mang tên đệm cao hơn nam giới. Trong số 40 lưu học sinh nữ Việt Nam đang học tại Học Viện Hồng Hà đã có 75% sinh viên nữ có mang tên đệm. Hiện nay trong xã hội Việt Nam, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau đối với sự hình thành của tên đệm người Việt. Tác giả Nguyễn Kim Thản quan niệm: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(61)</span> 53. ―tên đệm xuất hiện muộn hơn so với tên họ‖[I-16]. Tác giả Trần Ngọc Thêm lại cho rằng: ―tên đệm ra đời cùng một lúc với tên họ‖[I-22]. Về mặt cấu tạo, phần lớn người quan niệm: tên đệm người Việt chỉ tồn tại dưới hình thức đơn âm tiết. Đối lập với lại cũng có một số người cho rằng tên đệm người Việt ngoài hình thức đơn âm tiết vẫn còn có tên đệm kép như tác giả Lê Trung Hoa và Nguyễn Kim Thản. Ví dụ: Cao Thị Thu Hằng, Bùi Thị Tố Nga, Trần Thị Hồng Hạnh… trong các tên chính này ―Thị Thu‖, ―Thị Tố‖, ―Thị Hồng‖ là cấu trúc tên đệm kép. Theo tác giả Phạm Tất thắng: ―còn tồn tại một hình thức là tên đệm zero. Ví dụ: Nguyễn Du, Phan Thiều, Cao Nhân… Đây là một hình thức vắng thiếu tên đệm trong tên người. Và theo Phạm Tất Thắng, tên đệm zero thường có chức năng phân biệt giới tính, tên đệm zero thường thể hiện tính nam, vì trước đây hầu hết tên đệm zero thường xuất hiện trong tên nam giới. Tuy tên đệm zero có chức năng khu biệt giới tính, nhưng trong tên thật người Việt, bất kì nam nữ, đa số người có tên đệm, là tên đệm đơn. Tên đệm đơn là chỉ tên đệm đơn âm tiết. Ngoài hình thức tên đệm zero, còn có hai tên đệm đơn có chức năng khu biệt nam nữ một cách rõ ràng: ―Văn‖ trong tên nam giới và ―Thị‖ trong tên nữ giới. Và đã có một đoạn thời gian tương đối lâu hai tên đệm này trong tên gọi Việt có độ phổ biến cực kỳ cao. Những năm gần đây, xu hướng sử dụng tên đệm trong tên gọi của người Việt cũng có nhiều thay đổi, hai từ Văn và Thị đã dần dần ít đi, người ta đã lấy những từ khác làm tên đệm trong tên gọi như: Quang, Hữu, Tuấn, Công, Mạnh, Việt, Duy, Thế, Đức… dùng trong tên nam, và những từ: Thúy, Bích, Mai, Mỹ, Diễm, Quyền, Tuyết, Thanh, Thu…cho tên nữ. Tên đệm có thể có nhưng cũng có thể không có nên chức năng của nó đôi khi cũng không rõ ràng. Tuy nhiên vẫn có một số tên đệm có chức năng tương đối rõ: Phân biệt giới tính, nữ giới thường có tên đệm là "Thị", "Diệu"; Nam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(62)</span> 54. giới là "Văn", "Bá", "Mạnh"... -Phân biệt chi, ngành trong một dòng họ lớn: Ngô Thì, Ngô Vai; Nguyễn Đức, Nguyễn Mậu... -Phân biệt thứ bậc trong gia đình: một số người dùng từ đệm ―Bá‖ để chỉ con cả dòng họ trưởng, ―Mạnh‖ để chỉ con cả dòng họ thứ, ―Gia‖ chỉ con trưởng, ―Trọng‖ chỉ con thứ hai... -Thẩm mỹ: một số tên đệm chỉ có chức năng thẩm mỹ và nam nữ đều có thể dùng như "Bạch" trong Nguyễn Bạch Dương hay Lê Bạch Huệ; "Kim" trong Phan Kim Huệ hay Đỗ Kim Nga ... Tóm lại, trong tên gọi người Việt từ xưa đến nay danh tố đệm là một thành phần riêng biệt so với tên gọi của người Hán.Tên đệm phổ biến nhất của người Việt là ―Văn‖ dùng cho nam giới và ―Thị‖ dùng cho nữ giới, luôn nằm giữa họ và tên chính. Trong khi họ là để phân biệt huyết thống và tên chính dùng để phân biệt người này với người khác thì một số tên đệm thường dùng để phân biệt giới tính (nam, nữ). Thói quen sử dụng VĂN và THỊ để khu biệt tên nam tên nữ trong cộng đồng Việt Nam đã có xu thế ít đi, và nhiều người Việt đã sử dụng một số tên đệm khác thay choVĂN và THỊ. + Tên của người Việt Giống như trong tên người Hán, tên người Việt, danh tố tên cá nhân cũng đứng ở vị trí cuối cùng trong cấu trúc: tên họ + tên đệm + tên cá nhân. tên đơn nam. Ví dụ: Nguyễn Chí / Thủy Chu Thị / Trang. tên đơn nữ. Phạm / Hòa Bình Tôn Lương / Hà Nội. tên kép nam tên kép nữ. Về mặt cấu tạo, đa số học giả cho rằng: tên người Việt chủ yếu dưới hình thức đơn âm tiết. Nhưng cũng có người quan điểm rằng: ngoài tên cá nhân đơn âm tiết vẫn có người Việt mang tên cá nhân đa âm tiết, tức là những tên kép Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(63)</span> 55. hoặc tên ghép. Những năm gần đây, xu thế đặt tên cá nhân đa âm tiết càng ngày có xu hướng tăng lên. Thông qua điều tra nghiên cứu, chúng tôi thừa nhận trong tên cá nhân người Việt có tồn tại tên đơn âm tiết và tên đa âm tiết (tên cá nhân có hai từ trở lên), nhưng ranh giới khu biệt tên đa âm tiết chưa thật rõ ràng, nhiều khi chúng tôi không thể phân biệt được thành tố đệm và thành tố tên cá nhân kép một cách hoàn toàn chính xác. Ví dụ: trong tên Phạm Thu Thủy, chúng tôi không phân biệt được Thu là tên đệm hay là Thu Thủy là tên cá nhân kép? Tên cá nhân của người Việt thường có những đặc điểm sau: - Có lựa chọn và có lý do: Người Việt Nam quan niệm tên cá nhân là một bộ phận gắn chặt với người mang tên đó. Tục ngữ có câu: "Xem mặt đặt tên", bởi vậy khi đặt tên người ta thường lựa chọn kỹ và căn cứ đặc điểm, giới tính, hoàn cảnh gia đình, dòng họ, quê hương xã hội, ước vọng cha mẹ,... mà chọn, chứ không đặt tên tùy tiện. - Số lượng phong phú: So với tên họ và tên đệm, tên cá nhân phong phú hơn về số lượng. Do có tính lựa chọn, những tên mang nghĩa tích cực thường được chọn nhiều hơn những tên mang nghĩa tiêu cực đối với cả hai giới tính. Ví dụ, những tên như: Mạnh, Dũng, Tuấn, Phương, Dung, Hạnh... thì luôn phổ biến hơn. Một cách đặt tên khác không phổ biến trong tiếng Việt lắm nhưng vẫn có, đó là đặt tên theo tiếng nước ngoài, theo kỷ niệm, theo sự kiện. Dù Bộ Tư pháp Việt Nam chưa có văn bản nào chính thức quy định việc cấm đặt tên theo các chính khách, người nổi tiếng, lỗi lạc..., nhưng điều này gần như trở thành luật ―bất thành văn‖ trong việc đặt tên.Ví dụ, nếu đặt tên là Hồ Chí Minh... thì chắc chắn sẽ không được chấp nhận. - Xu hướng đa tiết hóa tên cá nhân: Trước đây tên cá nhân thường một tiếng, ngày nay xu hướng phát triển thành 2 ngày càng nhiều và đã có xuất hiện tên cá nhân 3 tiếng nhất là ở giới nữ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(64)</span> 56. - Hán-Việt giữ vai trò chủ đạo: từ Hán-việt dùng trong tên cá nhân người Việt đã là một thói quen, vì có ý nghĩa rộng hơn, hoà mỹ hơn. Ví dụ Vĩnh Phú (giàu có muôn đời), Bạch Tuyết (trong trắng như tuyết), Hoài An (mong được an bình)... Tên cá nhân từ gốc Nôm thường được các gia đình ở nông thôn, ít học, đặt cho con cái. Tên từ gốc Nôm có vẻ mộc mạc như: Bông, Rồi, Vui, Cười, Lây, Há, Đực, Tí, Cò... đã làm nhiều người băn khoăn, khó chịu về cái tên của mình, nhất là khi đi học hoặc chuyển lên thành thị sinh sống. Khi người Pháp, người Mỹ... đến Việt Nam, một số gia đình có liên hệ đã đặt tên con bằng những tên như: Trần Văn Pierre, Lê Văn Paul, Trần Thị Paulette, Nguyễn Thị Suzanne... và sau thời kỳ thực dân của Việt Nam kết thúc, những tên như vậy cũng bị dần dần bỏ đi, vì lý do là những tên kiểu nước ngoài này đã làm trái lại với văn hóa truyền thống của xã hội Việt Nam, ít khi được cộng đồng thừa nhận. Đối với Việt Kiều sống ở nước ngoài, thì chúng tôi không bàn đến ở luận văn này. - Khó phân biệt nam nữ với tên cá nhân: Về nguyên tắc, tên cá nhân của nam nữ không có gì để phân biệt. Tuy nhiên căn cứ vào ý nghĩa của tên cá nhân, phối hợp tên cá nhân với tên đệm và dựa vào thói quen có thể đoán tương đối chính xác một tên là nam hay nữ. - Tên nữ thường là tên loài hoa: Mai, Lan, Cúc, Hoa, Hương, Thảo...; tên loài chim đẹp có tiếng hót hay: Yến, Anh, Oanh...; tên đá quý: Bích, Ngọc, Trân...; tên loại vải quý: Nhung, Gấm, Là, Lụa,...; từ ngữ chỉ đức tính: Hạnh, Thảo, Hiền, Dung,...; hay từ ngữ có âm thanh nhẹ nhàng, có ý nghĩa hoà mỹ: Vân, Thúy, Diễm, Lệ, Nguyệt, Trang, Huyền,... - Tên nam thường được chọn trong các tiếng biểu lộ được sự mạnh mẽ về thể xác lẫn tinh thần. Tên nam thường là tiếng chỉ sức mạnh: Cương, Cường, Hùng, Tráng, Dũng,...; Tiếng chỉ trí tuệ: Thông, Minh, Trí, Sáng, Hoài,...; tiếng chỉ đức hạnh: Nhân, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Công, Hiệp... hay tiếng chỉ tiền tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(65)</span> 57. danh vọng: Phú, Quý, Kim, Tài, Danh,... hay chỉ đất nước như Sơn,Giang, Lâm, Hải, Dương,... Tên cá nhân không được trùng tên với các bậc trưởng thượng: theo phong tục cổ truyền trước đây. Tên chính của người Kinh không được trùng với tên thần thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia tộc. a. Tên cá nhân đơn Tên cá nhân đơn là chỉ tên cá nhân một chữ hoặc một tiếng như: Vũ Thị / Thanh, phạm / Tùng, Nguyễn Văn / Khoa, Trần Đức / Minh… Trong tên gọi người Việt, có một số tên cá nhân đơn nam và nữ thường gặp: Dũng, Đức, Thành, Bình, Minh, Tuấn, Long, Trung…trong tên nam và: Phương, Linh, Trang, Hương, Hà, Hằng, Thảo, Vân…trong tên nữ. b. Tên cá nhân đa âm tiết Tên cá nhân đa âm tiết trong tên gọi người Việt, cũng có nhiều tác giả gọi tên cá nhân loại này là tên cá nhân kép hoặc tên cá nhân ghép. Có thể nhận thấy, tên cá nhân kép là do hai yếu tố hoặc hai yếu tố trở lên cấu tạo thành một kết cấu vững chắc không tách được, nguyên nhân vì nếu bị phân chia ra ý nghĩa tên cá nhân sẽ không phải là ý nghĩa vốn có và thậm chí sẽ không có ý nghĩa gì nữa. Trong đó, những từ có sẵn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt và những từ riêng như địa danh đã trở thành tên cá nhân kép của một số người hiện nay như: Long / Hải Yến, Lê / Thanh Thủy, Tăng / Gia Huấn, Lâm / Thái sơn, Tôn Lương / Hà Nội, Nguyễn Thị / Hội An…Và kiểu tên cá nhân này ngày càng được người ta ưa thích trong cách đặt tên người Việt hiện nay. Những năm gần đây, trong lớp trẻ thế hệ 80 hay 90 đã xuất hiện tên cá nhân ba chữ: Đỗ Thành Lê Phương Lệ, Nguyễn thị Thùy Phương Linh, Trịnh thị Mai Mỹ Lệ, Cao thị Huyền Hà Thu…. Qua những ví dụ này, chúng tôi có thể thấy rằng: kiểu tên này chủ yếu dùng cho tên nữ, và lý do đặt tên như thế này thường là do thẩm mỹ, và cá tính. Trong khi tất cả tên đều tuân theo một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(66)</span> 58. khuôn khổ nhất định, tên kiểu này chắc chắn sẽ ghi ấn tượng sâu sắc cho bất kì người nào tiếp xúc với nó. 2.2.3. Đặc điểm ý nghĩa của tên người Việt Nam Muốn hiểu rõ ràng ý nghĩa của tên người Việt, đầu tiên phải tìm hiểu rõ vấn đề: tên người có nghĩa hay không có nghĩa? Tuy đây là một vấn đề phức tạp khó giải quyết nhất trong lịch sử Danh xưng học, và hiện nay vẫn còn hai quan điểm đối lập nhau trong giới chuyên môn, nhưng trong chương I phần lý luận, chúng tôi cũng đã trình bày quan điểm về vấn đề này một cách sâu sắc. Theo quan niệm chúng tôi, tên người hoàn toàn có nghĩa hoặc có ý nghĩa. Tuy nhiên tên người thuộc loại ký hiệu ngôn ngữ đặc biệt, nghĩa hoặc ý nghĩa của nó khác với tên chung. Đây chính là lí do mà chúng ta nên nghiên cứu ý nghĩa của tên người từ hai mặt cá thể và cộng đồng dân tộc. Trong luận văn khi nói ý nghĩa của tên người chính là nói về ý nghĩa xã hội của tên người. Trong cấu trúc Họ + Đệm + Tên, chúng tôi cho rằng: Họ là bộ phận không có nghĩa, chỉ dùng để chỉ ra tên gọi dòng họ, thể hiện chức năng định danh của nó. Tên đệm và tên cá nhân chỉ mang ý nghĩa xã hội. Nói cụ thể hơn, hai bộ phận này vừa có ý nghĩa biểu trưng, vừa có ý nghĩa hàm chỉ. Ý nghĩa biểu trưng là ý nghĩa suy ra từ các từ dùng để làm kí hiệu cho tên người, nó không phải ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm của các tên chung. Ví dụ như: một người mang tên Nguyễn Mỹ Lệ, tên này sẽ có ý nghĩa biểu trưng là sự đẹp đẽ hoặc nói lên ý nguyện hy vọng con gái có thể trưởng thành một cô gái xinh đẹp của người đặt tên; Một người tên Phú Quý lại có ý nghĩa biểu trưng là người đặt tên có mong muốn con trai này lớn lên được giàu sang. Ý nghĩa hàm chỉ của tên người là ý nghĩa chỉ ra những dấu hiệu xã hội nào đó thông qua kí hiệu tên gọi. Ý nghĩa này không có mối liên hệ với nghĩa của các từ dùng để làm kí hiệu gọi tên, thường là những dấu ấn kỷ niệm nào đó của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(67)</span> 59. người đặt tên. Ví dụ: lấy tên bạn bè, lấy tên ân nhân, tên quê hương, tên gọi có mối liên hệ đến hình thức với tên gọi của những người thân trong gia đình… Cũng như sự đối lập về vấn đề tên riêng có nghĩa hay không có nghĩa, đối với danh tố họ trong tên người, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này cũng có quan điểm đối lập nhau. Đa số tác giả cho rằng thành phần tên họ trong tên thật người việt không có nghĩa, nhưng một số tác giả lại cho rằng thành phần tên họ trong tên thật người Việt cũng có nghĩa. Theo ý kiến của đa số người, chúng tôi cho rằng, trong tên thật người Việt, tên họ chỉ có giá trị khu biệt dòng họ, nó không có ý nghĩa biểu trưng và ý nghĩa hàm chỉ. Ngoài tên họ ra, hai thành phần khác là tên đệm và tên cá nhân trong tên người Việt đều có ý nghĩa. Chức năng của tên đệm chủ yếu là phân biệt giới tính. Vì thế xem sự phân biệt giới tính chính là ý nghĩa chủ yếu của tên đệm. Nhưng so với tên cá nhân, ý nghĩa của tên đệm mờ nhạt không rõ ràng, ý nghĩa của tên thật người Việt thường là do tên cá nhân biểu lộ ra, nhiều khi ý nghĩa của tên cá nhân chính là ý nghĩa của tên thật người Việt.. 2.3. TIỂU KẾT Trong chương này luận văn của chúng tôi chủ yếu trình bày đặc điểm về mặt cấu trúc và ngữ nghĩa tên người Hán và người Việt. Tên của người Hán và tên của người Việt có cấu trúc chung là: họ + tên, họ ở trước, tên ở sau, điều này khác hẳn với nhiều dân tộc khác trên thới giới, điển hình là người Anh và người Mỹ. Ngoài ra, mô hình cấu trúc tên người Việt còn có một loại phổ biển: họ + đệm + tên. Trong thực tế, mô hình cấu trúc tên người Hán cũng có bộ phận đệm, nhưng hiện nay, tên đệm trong tên người Hán đã mất tác dụng như ngày xưa, vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi đã bỏ bộ phận đệm trong tên người Hán, không đề cập đến trong các mặt nghiên cứu. Ngược lại, trong tên người Việt, tên đệm là một bộ phận quan trọng không thiếu được, vì vậy chúng tôi đã giành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(68)</span> 60. một phần đáng kể chuyên viết về tên đệm trong tên thật người Việt Nam. Cụ thể về các danh tố trong tên thật người Hán và người Việt, tên họ người Hán có nguồn gốc lịch sử lâu dài, và tồn tại dưới các hình thức họ đơn, họ kép và họ ghép. Tên họ người Việt chịu nhiều ảnh hưởng tên họ người Hán, đến nay có thể coi đa số tên họ vẫn bắt nguồn từ tên họ người Hán, nhưng đa số họ sau khi chuyển sang Việt Nam bị đọc trệch đi cho khác với nguyên gốc để hợp với cách phát âm tiếng Việt. Tuy vậy họ người Việt không nhiều như Trung Quốc. Đối với tên họ người Hán và người Việt, đều có họ kép và họ ghép. Số lượng họ kép đều rất ít so với họ đơn bất kì trong tên họ người Hán hay người Việt. Họ ghép là một loại họ mới, là ghép lại hai họ đơn có sẵn, thường là họ bố + họ mẹ. Về tên cá nhân thì người Hán và người Việt đều tồn tại hình thức tên cá nhân đơn âm tiết và tên cá nhân đa âm tiết. Những năm gần đây, tên cá nhân người Hán và người Việt đều xuất hiện tên cá nhân 3 chữ trở lên. Ngoài lý do quan trọng là để tránh khỏi trùng danh, tên cá nhân 3 chữ trở lên còn biểu hiện cá tính của người đặt và người được đặt. Trong luận văn, chúng tôi đã trình bày về hình thức cấu trúc tên thật người Hán và người Việt một cách tỉ mỉ. Thông qua sự nghiên cứu của chúng tôi, mô hình cấu trúc tên người Hán có được 9 loại hình và hình thức cấu trúc. Tên thật người Việt cũng có 9 loại hình thức. Trong 9 kiểu cấu trúc tên thật người Hán và người Việt có một số mô hình cấu trúc giống nhau nhưng cũng có cấu trúc khác nhau. Sau khi tìm hiểu về tên người có nghĩa hay không có nghĩa, luận văn đã nêu ra quan điểm: tên người có nghĩa, nhưng lại khác hẳn với các tên chung, nó mang ý nghĩa xã hội. Ý nghĩa của tên thật người Hán và người Việt đều do tên cá nhân đảm nhận, và ý nghĩa tên người Hán và người Việt thường là chỉ ý nghĩa biểu trưng và ý nghĩa hàm chỉ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(69)</span> 61. Nghiên cứu về tên người Hán và người Việt có thể nhận thấy: Điểm giống nhau lớn nhất: có cấu trúc chung họ + tên, họ ở trước, tên ở sau. Điểm khác nhau lớn nhất: bộ phận đệm trong tên người Hán không quan trọng như chúng trong tên người Việt. Người Việt ít có tên kiểu: + Họ bố + Họ mẹ + Họ bà nội + tên cá nhân + Họ bố + Họ mẹ (Họ mẹ làm tên cá nhân). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(70)</span> 62. CHƢƠNG Ш ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA TÊN NGƢỜI HÁN VÀ NGƢỜI VIỆT 3.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tên người là hiện tượng phổ biến trong xã hội văn minh của con người, đồng thời cũng là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt. Tên người thường phản ánh sở thích, mong muốn và kỳ vọng của người đặt tên, đồng thời thể hiện truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi thời đại và cả xã hội. Ngoài ra tên nguời cũng thể hiện một số nội dung quan trọng khác là: chuẩn mực đức hạnh, tín ngưỡng tôn giáo, quan niệm giá trị… Cũng có thể cho rằng, hiện tượng ngôn ngữ tên người có quan hệ cực kỳ mật thiết với văn hóa dân tộc, tâm lý xã hội, cuộc sống xã hội, là sự thể hiện bên ngoài của các yếu tố ẩn sâu nói trên. Qua sự phân tích đối với hiện tượng tên người, chúng ta có thể nhìn rõ nội hàm phong phú mà tên người chứa đựng. Tên người là kí hiệu để quen biết với nhau giữa người này với người kia, đặt một tên như thế nào là hành vi cá nhân, nó không giống như tên chung ước định mà thành. Nhưng bất kì tên người của dân tộc nào cũng đều chịu ảnh hưởng của chính trị, kinh tế, văn hóa, tâm lý, và ngôn ngữ, phong tục… của dân tộc đó. Vì vậy, tên người có thể phản ánh ước vọng và tình cảm sâu đậm, đặc trưng văn hóa, cơ chế tâm lý… của dân tộc từ trắc diện, đã trở thành một hình thái văn hóa – văn hóa tên người. Vì lý do bối cảnh lịch sử giữa ngôn ngữ và xã hội khác nhau, tên người trong một tập thể chung lại mang tính xã hội khác nhau và có đặc trưng khác nhau. Tên người là một ký hiệu xưng hô, nó phải chịu ảnh hưởng của các yếu tố trong xã hội, sẽ chuyển dịch và thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Nói một cách khác, tên người trong các thời đại khác nhau sẽ có ý nghĩa văn hóa xã hội khác nhau. Họ và tên của người Trung Quốc là sản phẩm của văn hóa tính thị và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(71)</span> 63. văn hóa lý lễ thời cổ Trung Quốc, là sự cần thiết của văn minh và tiến bộ của xã hội, đã hình thành qui tắc và mô hình riêng biệt của hệ thống văn hóa Trung Quốc trong sự phát triển lâu dài của chế độ phong kiến và phong tục lý lễ. Cùng với sự phát triển của xã hội, tên người trong tiếng Hán hiện nay cũng đã thay đổi nhiều, và đã thể hiện thông qua đặc trưng văn hóa xã hội Trung Quốc hiện nay. Theo tác giả Vương Tuyền Căn: ―mỗi người đều có tên. Tên người là kí hiệu riêng biệt đại diện cho một cá thể duy nhất, có tính chiếm giữ và tính lâu dài. Tên người hiện nay được sự bảo vệ của pháp luật, người khác không được xâm phạm.‖ ―Văn hóa tên người là nội dung chủ yếu của văn hóa phù điêu, mà văn hóa phù điêu là đơn vị cơ sở cấu tạo nên toàn bộ hành vi và văn minh của con người.‖ Trong tác phẩm ―Văn hóa Tên người Trung Quốc‖ ông đã trích dẫn nội dung trong tác phẩm ―The science of culture‖ cuả Leslie A. White – Nhà Nhân loại học và Nhà Dân tộc học Mỹ: ―toàn bộ hành vi của con người có thể tìm thấy từ việc sử dụng và nghiên cứu phù điêu, chính phù điêu đã ghi lại những hình ảnh để chúng ta thấy tổ tiên chúng ta- vượn người trở thành người, và chúng ta trở thành con người. Chính vì vậy, có thể nói phù điêu là một nét văn hóa đặc sắc của con người lưu truyền từ đời này đến đời khác. Toàn bộ hành vi của con người được cấu thành bằng việc sử dụng kí hiệu, hoặc dựa vào sự sử dụng của kí hiệu. Kí hiệu là lĩnh vực riêng tư của nhân loại.‖ Thông qua nội dung trên, tác giả có nhân xét: ―nhìn rõ lĩnh vực đặc biệt tên người này, không những làm chúng tôi tăng thêm kiến thức, cảm nhận ra sự lâu dài, bền vững, và đa dạng của văn hóa Trung Quốc về ý nghĩa tầng sâu, mà còn có thể nhìn ra khả năng phát triển, biển đổi và sự quan tâm về nhân văn xã hội Trung Quốc. Nói từ một góc độ nhất định, một bộ lịch sử văn hóa tên người là sự tóm tắt và kết tinh của lịch sử phát triển của xã hội.‖ Chính vì sự quan trọng của tên người đối với việc nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội nhân loại, trong chương này, đầu tiên chúng tôi sẽ trình bày về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(72)</span> 64. một số đặc điểm về mặt xã hội và văn hóa của tên người Hán. 3.2. Đặc điểm văn hóa xã hội của tên ngƣời Hán Văn hóa truyền thống của Trung Quốc có nội hàm sâu sắc và phong phú, chữ Hán Trung Quốc có đặc điểm mỗi chữ là một âm một nghĩa, và văn hóa truyền thống đã tác động rất sâu đậm vào nhân dân Trung Quốc, đó đã làm văn hóa tên người Trung Quốc trở thành một nền văn hóa khá độc đáo trên thế giới. Sự thể hiện cụ thể của văn hóa tên người là do ngôn ngữ văn tự dân tộc mình và nước mình sáng tạo ra, sử dụng chữ Hán tiếng Hán trong việc đặt tên đã có tác dụng quan trọng đối với hình thành đặc sắc văn hóa tên người Trung Quốc. 3.2.1. Chữ Hán và văn hóa tên ngƣời trong tiếng Hán 3.2.1.1. Vai trò của chữ Hán đối với tên nguời Hán Tuyệt đại đa số dân số dân tộc Trung Hoa đều sử dụng tiếng Hán và chữ Hán làm ngôn ngữ và văn tự của dân tộc mình. Tiếng Trung Quốc và chữ Trung Quốc được gọi là tiếng Hán và chữ Hán, trong đó lý do cơ bản là dân tộc Hán là dân tộc chủ yếu sử dụng loại ngôn ngữ này nên gọi nó là tiếng Hán, từ đó hình thức chữ viết của ngôn ngữ này là cũng được gọi là chữ Hán. Trên cơ sở tìm hiểu rõ nguồn gốc của tiếng Hán và chữ Hán, chúng ta quay trở về vấn đề đặt tên bằng tiếng Hán và chữ Hán. Có thể nói ngay từ khi xuất hiện chữ Hán, nó đã lấy chức năng lựa chọn sử dụng và ghi lại tên gọi làm một mặt quan trọng trong chức năng xây dựng nền văn hóa của nó. Sự cấu thành của tên gọi nhân vật cổ xưa ghi chép bằng văn tự đã là bằng chứng không thể phủ nhận được của quan hệ giữa tiếng Hán chữ Hán và văn hóa tên người, mặc dù, lịch sử ngôn ngữ Trung Hoa lâu dài hơn nhiều, chữ viết xuất hiện vào bao giờ vẫn chưa xác định. Tất cả các tên người ghi lại bằng Chữ Giáp Cốt, Chữ Kim đã thể hiện ngôn ngữ chữ viết ảnh hưởng đến văn hóa tên người. Nhờ tác dụng lưu truyền của chữ Hán, chúng tôi mới có thể biết được vua Hoàng Đế họ Cơ, tên là Hiên Viên; Vua Viêm Đế, họ Khương, tên Thạch Niên; Thương Thang, tên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(73)</span> 65. Lữ… Như chúng ta đã biết, trên thế giới có một số văn tự cổ giống với chữ Hán, nhưng sau đó vì một số nguyên nhân nào đó đã thất truyền. Trong khi đó chữ Hán lại trở nên phồn thịnh, vì nó là chữ hình vuông phát triển lên trên cơ sở tượng hình và lấy biểu nghĩa làm chủ, hình thanh kết hợp, nét bút thành một khối. Chữ Hán lấy phong cách văn hóa riêng biệt ảnh hưởng đến văn hóa tên người, làm nó trở thành văn hóa đặc sắc kết hợp với tổ hợp văn tự trên cả hai mặt trong và ngoài. Chữ Hán ảnh hưởng đến văn hóa tên người trong tiếng Hán đã có lịch sử lâu đời. Trong quá trình phát triển của lịch sử đã có vô số tên người xuất hiện, biến mất, lưu truyền, tái hiện và biến đổi. Cũng như chữ Hán có đặc trưng cơ bản trong quá trình phát triển biến đổi, văn hóa tên người do chữ Hán cấu tạo nên cũng có đặc điểm riêng biệt của nó. Sử dụng chữ Hán trong việc đặt tên, đã trở thành hoạt động mang ý nghĩa phong tục dưới ảnh hưởng truyền thống văn hóa tên người trong tiếng Hán, cho dù nghi thức hoặc ngày tháng đặt tên có biến đổi, nhưng việc sử dụng chữ Hán để đặt ra một tên ý nghĩa sâu xa đã trở thành ý thức của nhân dân Trung Quốc, kể cả mong muốn đòi hỏi chất lượng cuộc sống. Mức độ nhận biết, trình độ văn hóa và cách thức tư duy, phẩm hạnh, sự khác nhau tuyển chọn về giá trị thẩm mỹ … của người ta đều ảnh hưởng đến thái độ của họ đối với truyền thống tốt đẹp của văn hóa tên người và chất lượng đặt tên. Vì thế, trong việc đặt tên chúng ta không thể không coi trọng việc tìm hiểu và tuân theo quan hệ nội bộ giữa đặc điểm chữ Hán và đặc trưng văn hóa tên người trong tiếng Hán. 3.2.1.2. Chữ Hán và ý thức văn hóa trong việc nghiên cứu tên người Chữ Hán là sản phẩm văn hóa đã được tích lũy qua nhiều thời đại của dân tộc Trung Hoa, vì thế, truyền thống văn hóa tên người do chữ Hán và tiếng Hán cấu tạo nên cũng là sản phẩm văn hóa. Ngôn ngữ chữ viết có chức năng văn hóa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(74)</span> 66. và đặc tính văn hóa liên quan với tên người, đồng thời ngôn ngữ và chữ viết cũng ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng muốn lấy trình độ văn hóa đã có đi tìm hiểu sự phát triển của văn hóa bên trong lại phải suy nghĩ đến nhiều biến đổi trong quá trình phát triển. Tuy có nhiều hạn chế về điều kiện lịch sử, nhưng người ta khi sử dụng ngôn ngữ chữ viết trong việc đặt tên lại thấy việc tìm hiểu về quan hệ giữa việc đặt tên và các hình thức văn hóa khác rất thú vị. Ý thức văn hóa trong ngôn ngữ chữ viết và việc nghiên cứu tên người ngày càng phát triển, và đã cung cấp nhiều tài liệu quý báu cho việc nghiên cứu riêng biệt và nghiên cứu một cách tổng hợp về đặc tính hai loại văn hóa này. Sự phong phú và đa dạng của văn hiến Trung Quốc có thể rất hiếm có trên thế giới, trong đó bao gồm cả sự phong phú về nghiên cứu và hiện tượng ghi chép tên người Trung Hoa cũng hiếm gặp. Với tư cách là tiền thân của việc nghiên cứu văn hóa học đương đại, hiện tượng ghi chép tên người đã tác động đến việc tìm hiểu đặc tính chữ Hán và văn hóa tên người. Ngày xưa, Trung Quốc có nhiều sách vở nghiên cứu về văn tự và trong đó đa số đề cập đến quan hệ giữa văn tự và tên người. Ví dụ:《史籀篇》 ,《仓颉篇》, 《爰历篇》, 《博 学篇》 , 《急就篇》 , 《左传》… trong các tác phẩm vừa nêu ra, người xưa Trung Quốc đã có ý thức lấy chữ Hán làm cơ sở tiến hành truyền thu văn hóa, cho đến đời Hán trong tác phẩm《说文解字》của ông Hứa Thận, ý thức này được khai thác và phát triển rõ nhất, trong đó đã có giả thuyết các nhân sự, lý lễ liên quan đến tên người. Trong tác phẩm còn trình bày về sự phát về mặt tượng hình và hình thanh của văn tự, ý nghĩa của Văn và Chữ, thực ra tác giả đã đưa ra giả thuyết yêu cầu về ―Văn‖ – kết cấu tổng thể của tên người và nguồn gốc các ―Chữ‖ dùng trong tên người, đặc biệt là sự giải thích về ―họ‖ ―thị‖, ―tên‖ là thuyết minh trực tiếp đối với văn hóa tên người. Ông Lưu Hi trong tác phẩm《释 名》đã trình bày về quan hệ giữa tên riêng và thực tế, ông còn nêu ra trong quan hệ văn tự và danh hiệu còn vì các điều kiện sáng tạo và sử dụng, địa vực khác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(75)</span> 67. nhau mà ảnh hưởng đến sự biến đổi về mặt sang hèn của danh hiệu. Trên thực tế, việc nghiên cứu và thảo luận đối với văn tự Trung Quốc và tên người Trung Hoa từng bước phát triển thành một hệ thống văn hóa khoa học cũng chỉ là việc của những năm gần đây. Tác giả Đường Lan phát biểu《古文字学导论》và 《中国文字学》, hai tác phẩm này được coi là đại diện về mặt này có ý nghĩa góp phần vào khoa học hiện đại. Trong《中国文字学》tác giả quan niệm rằng: ―sự xuất hiện chính thức của văn tự hình thành có quan hệ mật thiết với sự phát triển của văn hóa xã hội‖. Ông đã lấy một số tên họ cổ xưa làm ví dụ. Theo ông thời xưa Trung Quốc có nhiều tên họ đều có bộ thủ ―女‖ như: 姬,姚, 姒,妫, v.v…Điều này đã chứng nhận rằng: ―thời xưa Trung Quốc thật sự tồn tại xã hội mẫu hệ‖. Đây chính là sự nghiên cứu về mặt văn hóa đối với chữ Hán, cũng là sự nghiên cứu mặt văn hóa về quan hệ giữa hiện tượng tên người và văn tự Trung Quốc cùng các điều kiện lịch sử như xã hội sản xuất … Nói tóm lại, từ tất cả tác phẩm nghiên cứu về chữ viết Trung Quốc và hiện tượng tên người, chúng ta có thể thấy rằng: đặc điểm của chữ Hán đã có ảnh hưởng sâu sắc và đa dạng đối với các mặt nội dung và hình thức của văn hóa tên người trong tiếng Hán. 3.2.1.3. Chữ Hán với đặc điểm văn hóa của tên nguời Hán Chữ Hán và văn hóa tên người tiếng Hán đều được sáng tạo ra trong quá trình phát triển văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc Trung Hoa. Việc nghiên cứu đối với chữ Hán có tính hệ thống hơn và có tài liệu sách vở nhiều hơn so với việc nghiên cứu văn hóa tên người bằng tiếng Hán. Nhưng với tư cách là bộ phận cấu tạo nên văn hóa Trung Hoa, hai bộ phận này đã tiếp xúc và tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Trong các tài liệu lưu trữ, chữ Hán được gọi là ―Chữ hình vuông‖, đây là cách gọi được đặt ra trong một số tác phẩm nghiên cứu chữ viết cổ khi giải thích đặc điểm cấu tạo của chữ Hán.Chữ hình vuông là kiểu thông tin lấy tượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(76)</span> 68. hình làm cơ sở, lấy biểu ý và diễn ý làm chủ, còn lấy tượng thanh bao gồm nét và khối làm phụ. Trong sự truyền bá tên người nó cũng phát huy tác dụng của nó dựa trên đặc điểm này. So với các loại tên người lấy phiên âm là chủ, điều này đã thể hiện rõ đặc tính văn hóa tên người của tiếng Hán. Đầu tiên, sử dụng chữ Hán cấu tạo nên tên người có kết cấu cơ sở đầy đủ, trọn vẹn một khối. Cách dùng chữ hình khối để viết tên người có thể chứa đựng nội dung hàm ý nhiều hơn, và trong quá trình sử dụng đối với các trường hợp khác nhau, thì cách viết cũng khác nhau. Cách sử dụng trên cũng có thể thể hiện ý tôn trọng và trọng thị trong từng trường hợp xưng hô cụ thể. Về hình thức của chữ Hán với văn tự phiên âm tuy cũng có thể chia thành nhiều bộ phận, nhưng văn tự phiên âm lấy ghi âm làm chủ, hình chữ và kết cấu tên người đều là hình dây hoặc có thể gọi là tổ hợp chữ cái viết ra từng chữ mà không có đặc điểm kết cấu trọn vẹn một khối của tên người như chữ hình vuông của tiếng Hán cấu tạo nên. Thứ hai, chữ Hán là khuôn mẫu thông tin lấy sự theo đuổi lập tượng làm chủ, sử dụng bút nét tổ hợp biểu nghĩa, biểu hình, biểu âm thành một khối, mang đặc điểm năng động có thể chia ra cũng có thể tổ hợp nhau. Không những chữ độc thể với chữ hợp thể dưới quan hệ như vậy, mà còn thiên bàng bộ thủ với bút nét khác cũng dưới loại quan hệ này. Đây khác nhau với sự sử dụng của các văn tự phiên âm coi trọng ghi âm, đó là coi trọng kể lại chữ cái để biểu hiện ra thứ tự ngữ âm. Thứ ba, chữ hình vuông lấy sự theo đuổi lập tượng làm chủ qua phương pháp biểu nghĩa, hội nghĩa, lấy hình thanh kết hợp làm phụ để lựa chọn và sử dụng tên người, tuy đã mở rộng phạm vi kết hợp hình nghĩa để biểu đạt chí nghĩa và thể hiện khu biệt, nhưng cũng vì xuất hiện nhiều tình hình đồng âm , cận âm khác hình mà làm việc khu biệt âm thanh và hình chữ khó khăn hơn nhiều trong khi lựa chọn và sử dụng tên người.Ví dụ: ―佟家驹‖, ―桐嘉居‖, ―童 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(77)</span> 69. 佳鞠‖ v,v… đều là âm thanh ― tóng jiā jū‖ hoặc gần nhau, và các từ này hình chữ khác nhau, ý nghĩa cũng khác nhau. So với văn tự phiên âm lại không có đặc điểm như thế, nếu xuất hiện hiện tượng trùng danh thì âm thanh và hình chữ đều giống nhau hết. Ví dụ: một tên Lý Thành Công, nếu xuất hiện tình hình trùng danh thì phải là một tổ hợp các chữ cái hoàn toàn giống nhau. Thứ tư, ưu thế hình thành do việc sử dụng chữ Hán trong tên người và sự ảnh hưởng của chữ Hán đối với văn hóa tên người tiếng Hán còn có thể hiện quan trọng, đó là sự viết đối với tên người, bao gồm việc ký tên và sự phát triển của hình thức nghệ thuật khắc dấu. Chữ hình vuông lấy lập tượng làm cơ sở, dẫn đến chữ Hán trên mặt viết rất được coi trọng, và trên cơ sở thực dụng và thẩm mỹ kết hợp nhau đã hình thành nghệ thuật Thư pháp chữ Hán, trở thành một loại văn hóa mang tính thẩm mỹ độc đáo trên thế giới. 3.2.2. Một số đặc điểm văn hoá xã hội của Trung Quốc liên quan đến cách đặt tên nguời Hán 3.2.2.1. Đặc điểm tâm lí xã hội của việc đặt tên a) Tâm lý cầu mỹ Tên gọi của con người tuy chỉ là một dấu hiệu, nhưng nó lại là một hiện tượng văn hóa vượt qua thời gian và không gian. Việc sử dụng họ tên - dấu hiệu riêng của hình ảnh bản thân mình đã ngày càng hướng tới cách sử dụng trau chuốt văn tự, thanh lịch, tốt đẹp. Xã hội càng phát triển, trình độ văn minh càng cao, người ta càng coi trọng tên gọi hơn nữa. Nói một cách toàn diện, một dân tộc nói chung và một cá nhân nói riêng, tình trạng cao nhã hay thô tục của tên gọi đều liên quan đến cuộc sống xã hội, trình độ văn minh, tâm lý thẩm mỹ, quan niệm giá trị, mục đích của đời người… Thông thường, chúng ta đều có tâm lý đặt ra một tên hay cho bản thân mình hoặc cho lớp sau, đa số người tin rằng, một tên hay sẽ dẫn sự may mắn cho người mang tên. Tâm lý này liên quan đến truyền thống văn hóa và như vậy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(78)</span> 70. đã hình thành tâm lý cầu mỹ. Xem từ hệ thống tên người dân tộc Hán, tâm lý theo đuổi danh xưng tốt đẹp xuất hiện sau đời Hán. Trước đời Xuân Thu, người ta đặt tên tương đối đơn giản và mộc mạc bình dị, thường sử dụng Can Chi và Ngũ Hành trong tên người, các tên vua chúa Nhà Ân Thương đều sử dụng Thiên Can đặt ra; Ngoài ra, thời đó người ta cũng đặt tên theo đặc trưng cơ thể, ví dụ Tấn Văn Công tên Trùng Nhĩ. Thời đó, người ta không coi trọng sự tốt đẹp hoặc xấu xa của tên người. Sau Đời Hán, chế độ phong kiến dần dần được hoàn thiện, quan niệm luân lý và cấp bậc Quân – Thần – Phụ – Tử chiếm được vị trí thống trị, sắc thái lễ giáo trong tên người cũng thấy dần dần nặng nề. Các chữ thể hiện sự kính trọng, phẩm hạnh và khen ngợi thường được người ta lựa chọn và sử dụng trong tên người. Hiện nay, đặt một tên hay cho đứa bé vẫn là tâm lý xã hội phổ biến. Bố mẹ trẻ thường chọn các từ thể hiện khỏe mạnh, hùng dũng, yêu nước, ý chí...Cũng có khi lại chọn các từ nho nhã, hiền lành, thuỳ mị, điềm đạm… Trong quá trình điều tra, chúng tôi phát hiện ra những từ phổ biến được sử dụng trong tên nam là những từ như: 超(Siêu), 钢(Cương), 栋(Đống), 强(Cường), 飞(Phi), 伟(Vĩ), 斌(Bân)… Những từ phổ biến sử dụng trong tên nữ như: 婕(Tiệp),洁(Khiết), 佳(Giai),倩(Thiến), 丹(Đan),丽(Lệ),莉(Lợi),娟(Quyên),媛(Viên), 婷 (Đình)… Dựa trên tính năng động của chữ Hán, trong tên người Hán, họ và tên có thể tổ hợp và thể hiện ra ý nghĩa tốt đẹp, như: 万里(Vạn Lý),康庄(Khang Trang),高扬(Cao Dương),张翼翔(Trương Dực Tường)… Tâm lý tìm và đặt tên mang ý nghĩa tốt đẹp không chỉ xuất hiện tại Trung Quốc, tâm lý xã hội này là quy luật chung trong hệ thống tên người của nhân loại. Có thể nhận thấy các tên tốt đẹp thường liên quan đến tâm lý xã hội mà tâm lý xã hội ở bất kỳ nước nào cũng chịu ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa, tuyền thống tôn giáo… b) Tâm lý theo số đông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(79)</span> 71. Trong hệ thống tên người tồn tại một hiện tượng phổ biến ―làm theo nhiều người‖, đây chính là tâm lý theo số đông. Tâm lý này đang tác động rất lớn đến việc đặt tên. Ví dụ, hiện tượng tên đơn. Tên đơn đã chiếm ưu thế nhiều thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc. Trong vòng 200 năm, từ cuối đời Đông Hán đến thời Ngụy Tấn, tỉ lệ tên đơn rất cao, theo một điều tra không chính thức trên internet thì số người mang tên đơn chiếm tới hơn 90%. Các nhân vật trong ―Tam Quốc Diễn Nghĩa‖ như Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý... đều là tên đơn. Đây rõ ràng do liên quan đến tâm lý xã hội thời đó. Trong tài liệu đã ghi, sự thịnh thành của hiện tượng tên đơn thời này đã liên quan đến sự kiện tiếng ngôi của Vương Mãng. Sau khi nắm quyền, Vương Mãng từng hạ lệnh cấm tên hai chữ. Chính vì hành vi độc đoán, mệnh lệnh của người thống trị đã gây ảnh hưởng và tác động to lớn đến xã hội, và tạo ra dư âm nhất định trong xã hội nhất định và ngưng kết thành một loại tâm lý xã hội. Vì thế đã nảy sinh ảnh hưởng và tác dụng ràng buộc tiềm ẩn đối với hành vi đặt tên của người dân thời đó. Cũng có thể nhìn thấy trong phong trào Ngũ Tứ, rất nhiều nhà văn và nghệ sĩ đã sử dụng bút danh và nghệ danh. Hầu hết các bút danh và nghệ danh của họ đều là tên đơn như: Lỗ Tấn, Ba Kim, Hồ Thích, Nhiếp Nhĩ… Khi tên đơn đã liên quan đến các danh nhân, tức là những con người có địa vị, có danh tiếng trong xã hội nên được người dân coi như là tiêu chí của trình độ văn hóa và địa vị xã hội, do vậy, người dân có tâm lý học theo, làm cho tỉ lệ tên đơn tăng lên. Đây chính là tâm lý theo số đông xã hội rất rõ ràng. Ngoài hai ví dụ trên, tâm lý theo số đông trong hiện tượng tên người còn thể hiện về mặt tôn sùng anh hùng, ghét bỏ kẻ xấu. Ví dụ, sau khi Yury Alekseyevich Gagarin, nhà du hành vữ trụ đầu tiên của Liên – Xô hoàn thành chuyến du hành vũ trụ, anh đã trở thành anh hùng được mọi người khâm phục và yếu mến. Vì vậy do tác động của tâm lý theo số đông, trong vòng vài năm, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(80)</span> 72. nhiều em bé mới ra đời được đặt tên “Yury”.Trong khi đó hiện tượng tên của Phát- xít Hitler tên là Adolf, trong một thời gian ngắn, tỉ lệ xuất hiện tên Adolf hạ xuống đến mức độ thấp nhất. Đây cũng là sự thể hiện của tâm lý theo số đông. c) Tâm lý chống đỡ Trái ngược với tâm lý cầu mỹ và tâm lý theo số đông, trong hiện tượng tên người cũng thường xuyên xuất hiện một loại tình hình đặc biệt: người ta cố tình đặt ra một cái tên hèn hạ hoặc một tên kỳ dị. Đây chính là tâm lý chống đỡ và sự hình thành của tâm lý này cũng liên quan đến truyền thống văn hóa. Trong dân gian Trung Quốc, đặt một tên không bình thường, tên được cho là xấu được người dân cho rằng những tên như vậy ma quỉ cũng không muốn nghe, nên không bị cướp đi, không bị chết sớm (hiện tượng này thường chỉ xẩy ra ở những gia đình đã sinh được nhiều lần nhưng đều bị chết non hoặc chết ngay sau khi sinh). Ở Trung Quốc coi là tâm lý ―tên hèn dễ nuôi‖, tâm lý như vậy đã hình thành từ đời Hán, hiện nay một số nơi ở nông thôn vẫn còn phong tục này. Sự diễn biến của hiện tượng tên người có quan hệ mật thiết với sự biến đổi của tâm lý xã hội, chúng thường xuyên thay đổi cùng một lúc. Sự phát triển của xã hội gây ra sự biến đổi tương ứng của tâm lý xã hội, thời kỳ khác nhau lại có tâm lý bất đồng, và tâm lý xã hội khác nhau, có ảnh hưởng khác nhau đối với hiện tượng tên người. Tạp chí《讽刺与幽默》số ngày mồng 5 tháng 6 năm 1983, có đăng một bài liên quan đến đặt tên và đã thống kê một số tên của các thời kỳ khác nhau. Như sau:. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(81)</span> 73. Bảng 3.1 Một số tên của các thời kỳ khác nhau của Trung Quốc Năm sinh Trước năm 1918. 1949-1950. 1951-1953. 1954-1957. 1958-1959. 1960-1963. 1964-1965. 1966-1976. 1976-1983. Họ tên 贾得宝. Giả Đấc Bảo. 孙发财. Tôn Phát Tài. 姚有禄. Diêu Hữu Lộc. 庞天佑. Bàng Thiên Hựu. 郑解放. Trịnh Giải Phóng. 叶南下. Diệp Nam Hạ. 秦建国. Tần Kiến Quốc. 向天明. Hướng Thiên Minh. 司卫国. Tư Vệ Quốc. 邓援朝. Tặng Viện Chiều. 朱抗美. Chu Kháng Mỹ. 靳停战. Cận Đình Chiến. 刘建设. Lưu Kiến Thiết. 申互助. Thân Hỗ Trợ. 童和平. Đồng Hòa Bình. 时志方. Thì Chí Phương. 孟跃进. Mạnh Diệu Tiến. 潘胜天. Phan Thắng Thiên. 戴红花. Đới Hồng Hoa. 王铁汉. Vương Thiết Hán. 任坚强. Nhâm Kiên Cường. 冯抗洪. Phùng Kháng Hồng. 齐移山. Tề Di Sơn. 赵向党. Triệu Hướng Đảng. 高学峰. Cao Học Phong. 钱志农. Tiền Chí Nông. 文学雷. Văn Học Lôi. 方勇进. Phương Dũng Tiến. 董文革. Tổng Văn Cách. 张要武. Trương Yếu Vũ. 房永红. Phòng Vĩnh Hồng. 邵卫兵. Thiệu Vệ Binh. 韩振兴. Hàn Chấn Hương. 李跃华. Lý Diệu Hoa. 宋富旺. Tống Phú Vượng. 彭文明. Bành Văn Minh. Các tên nêu trên đã mang sắc thái thời đại đậm đà, đã phản ánh tâm lý xã hội thể hiện trong hiện tượng tên người một cách hình tượng, thể hiện quan hệ cùng biến đổi giữa hiện tượng tên người và tâm lý xã hội. 3.2.2.2. Tính chính trị lịch sử của tên nguời Nhà Ngôn ngữ học nước Anh Geoffrey Leech đã phân chia ý nghĩa của ngôn ngữ thành 7 loài hình khác nhau: ý nghĩa lý tính, ý nghĩa nội hàm, ý nghĩa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(82)</span> 74. xã hội, ý nghĩa tình cảm, ý nghĩa phản ánh, ý nghĩa phối hợp và ý nghĩa chủ đề. Tên người với tư cách là một hiện tượng xã hội, chứa đựng nhiều yếu tố xã hội phức tạp và ý nghĩa xã hội sâu sắc.Tên người trong thời kỳ nhất định đã lưu lại dấu ấn phát triển và biến đổi của thời đại đó, sự biến đổi của tên người cũng thể hiện biến động bất ngờ của thời đại nhất định. Ở nội dung trên, chúng tôi đã nêu ra một số tên các thời kỳ khác nhau đăng trên tạp chí《讽刺与幽默》ngày mồng 5 tháng 6 năm 1983. Các tên được thống kê đã thể hiện sự biến động to lớn trong thời kỳ lịch sử đặc biệt trước và sau khi Nước Cộng họa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trước khi Nước Cộng họa Nhân dân Trung Hoa thành lập, đông đào nhân dân lao động sống dưới sự áp bức của giai cấp thống trị, cuộc sống vô cùng khó khăn, mong muốn có thể sống cơm no áo ấm, cho nên đặt tên cho con cái là ―得宝(Đắc Bảo)‖,“发财 (Phát Tài)‖… Đây chính là mong muốn thế hệ sau có thể giàu có. Ngày 01 tháng 10 năm 1949, Nước Cộng họa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, nhân dân cả nước không có ai không vui mừng phấn khởi. Để chúc mừng và kỷ niệm ngày này, đặt cho con cái các tên như: ―建国(Kiến Quốc)‖, ―天明(Thiên Minh)‖ v.v. Phản ánh niềm vui trong nội tâm nhân dân và ước mơ về tương lai. Năm 1951-1953, trong khời kỳ ―Kháng Mỹ Viện Triều‖, nhiều gia đình cách mạng đã đặt tên ―援朝(Viện Triều)‖, ―卫国(Vệ Quốc)‖ cho con cái. Từ năm 1960 đến 1962 là 3 năm thời kỳ khó khăn của Trung Quốc, nhân dân đối mặt với thiên tai gian khổ, nhưng tinh thần không lo lắng, ngược lại tích cực hưởng ứng khẩu hiệu ―tự lực cánh sinh, gian khổ phấn đấu‖ của đảng. Tinh thần này thể hiện ở các tên đặt cho trẻ em sinh ra lúc bấy giờ là tên ―自立(Tự Lập)‖, ―坚 强(Kiên Cường)‖, ―向党(Hướng Đảng)‖… Các tên này đã trở thành tên thịnh hành, phản ánh ra ý nghĩa nội hàm sâu sắc. Năm 1966-1967, 10 năm thời kỳ cách mạng văn hóa, đã gây ảnh hưởng to lớn đối với xã hội Trung Quốc, tác động của nó cũng thể hiện trong tên người thời đó: ―要武( Yếu Vũ)‖, ―卫兵(Vệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(83)</span> 75. Binh)‖ … Sau cách mạng văn hóa, cả nước Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách mở cửa, dân nhân khao khát xây dựng lại gia đình quê hương, và đã có các tên như: ―振兴(Chấn Hưng)‖, ―跃华(Diệu Hoa)‖, ―文明(Văn Minh)‖ …Các tên này đã biểu hiện ra ý muốn xây dựng nhà nước và hy vọng có thể nước mạnh dân giàu. Ngoài ra, sau khi năm 1984, đặc biệt là từ cải cách mở cửa đến nay, sắc thái chính trị thể hiện trong tên người đã dần dần suy yếu, hơn nữa lại chịu ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, tên người Hán đã xuất hiện đặc trưng mới, người ta lại thích đặt tên đơn hoặc sử dụng một số từ ít gặp như: ―贾佳‖, ―雷蕾‖, ―李 淼‖ … Và cùng với sự phổ biến của việc học tập tiếng Anh, người ta đã thích đặt tên kiểu người nước ngoại như: ―李凯文(Kelvin)‖, ―王康妮(Connie)‖, ―杨 露丝(Rose)‖ … 3.2.2.3. Tính văn hóa xã hội của tên nguời Nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Saussure cho rằng: ―lịch sử dân tộc và văn hóa đều có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của ngôn ngữ, mà ngôn ngữ cũng đóng dấu ấn riêng biệt trên lịch sử dân tộc và truyền thống văn hóa.‖ Ngôn ngữ và văn hóa gắn bó như môi với răng, ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt văn hóa, ngôn ngữ và văn hóa dựa vào nhau mà tồn tại và phát triển, đồng thời ảnh hưởng lẫn nhau.Tên người là một hiện tượng ngôn ngữ và văn hóa, đã ghi lại sự phát triển của văn hóa xã hội, trong đó có dấu tích sâu sắc của văn hóa. 1) Tên người với giới tính Thời xưa Trung Quốc, phụ nữ sống trong xã hội ―nam tôn nữ ti‖, tên cũng không được nhiều người biết, chỉ được gọi là ―Vương Thị(王氏), Trương Thị(张氏), hoặc là sau khi lấy chồng, còn thêm họ chồng ở trước nữa, ví dụ: ―Trần Vương Thị(陈王氏)‖, ―Lý Trương Thị(李张氏)‖… Đặc điểm sinh lí cũng như địa vị xã hội của nam nữ khác nhau, cho nên tên cá nhân nam nữ cũng có khác biệt rõ rệt. Thông thường, tên nam phải mạnh mẽ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(84)</span> 76. như: Dũng, Cường, Cương, Kiên, Triển… tên nữ phải êm dịu, như: Xuân Lan, Thu Nguyệt, lạp Mai, Tú Châu, Gia Mẫn… 2) Tên người và những nét mê tín thời phong kiến Chế độ phong kiến đã được tồn tại ở Trung Quốc một thời kỳ lịch sử lâu dài, sự ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa phong kiến đã ăn sâu bén rễ. Cho đến hiện nay ảnh hưởng này vẫn tồn tại, chủ yếu thể hiện ở các mặt sau: + Biểu tỏ ý chí. Người Trung Quốc trong việc đặt tên rất coi trọng luân lý phẩm hạnh. Vì vậy trong tên thường xuyên có các chữ: Đức, Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu, Tín, Khiêm… + Cầu phúc. Khi đặt tên, người ta thích tỏ ra sự khao khát đối với cuộc sống sung túc và địa vị cao quý. Ví dụ: Phú Quý, Phúc Thọ, Vĩnh Quý, Đắc Lợi… ngay cả mục đích cầu mong trên con đường làm quan cũng thể hiện ở tên gọi. Thí dụ có các tên như: Tân Khoa, Trạng Nguyên, Chiếm Khôi… + Tránh khỏi tai họa. Người ta trong nhiều trường hợp cũng thông qua đặt tên để biểu tỏ ý muốn tránh khỏi tại họa và bệnh tật và gặp dữ hóa lành. Ví dụ có một số tên như: 霍去病(Hoắc Khứ Bệnh),辛弃疾(Tân Khí Tật),石保吉 (thạch Bảo Cát),孙逢吉(Tôn Phùng Cát)… + Cầu thọ. Người ta cũng hy vọng có thể kéo dài tuổi thọ qua các phương thức đặt tên khác nhau, thường là tìm các tên mà người ta cho rằng có thể thoát khỏi ràng buộc thiên nhiên đối với tính mệnh của con người. Ví dụ: 延寿(Diên Thọ),增寿(Tăng Thọ),延年(Diên Niên),万年(Vạn Niên),龟年(Quy Niên), 鹤龄(Hạc Linh),松龄(Tùng Linh)… Ngoài ra, hiện nay nhiều bố mẹ tin về ―ngũ hành‖, cũng đặt tên cho con cái thường xuyên theo ―ngũ hành‖. Tất nhiên, việc đặt tên như trên không có căn cứ khoa học mà người ta gởi gắm ý muốn tốt đẹp trong tên con cái nên có thể cho là những biểu hiện của ý thức phong kiến mê tín. 3) Tên người và phong tục xã hội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(85)</span> 77. Xã hội luôn luôn phát triển không ngừng. Trong xã hội hiện nay, tư tưởng phong kiến mê tín và nam tôn nữ ti đang dần dần phai nhạt, ―vang dội êm tai, dễ được truyền bá‖ là nguyên tắc khi các bố mẹ trẻ đặt tên cho đứa bé. Nhưng phong tục xã hội vẫn gây nhiều ảnh hưởng đối với việc đặt tên. Ví dụ: tên người thường kiêng kịch những từ mà có âm gần giống với những từ âm xấu hoặc ý không đẹp. Ví dụ: 黄泉(người ta dễ nghĩ đến Đường Hoàng Tuyền)于刚(鱼缸), nhưng lại có một số âm có hiệu quả trái ngược, gây ấn tượng sâu sắc cho mọi người. Ví dụ: họ 彭 tên 友(朋友, Bạn bè),họ 盛 tên 利(胜利, Thắng lợi), họ 苏 tên 籍(书籍 Sách vở) … 3.2.2.4. Tính ngữ dụng trong việc đặt tên nguời 1) Sự phân tích về ngữ dụng trong việc đặt tên những năm 80 Thông qua thống kê và điều tra, những năm 80 ở Trung Quốc, trong quá trình đặt tên, khuynh hướng đặt tên nam là tên đơn, trong khi đó lại có xu hướng tên nữ thường là tên kép. Điều này có thể cho rằng các yếu tố của tâm lý xã hội trong hiện tượng tên người đã tác động đến hiện tượng này. Bởi vì lúc này người ta vẫn coi tên đơn là tiêu chí của trình độ văn hóa và địa vị xã hội. Ngay cả trong tên kép của tên nữ có một số không hoàn toàn là tên kép mà là láy một từ tên đơn thành tên kép. Ví dụ: 张晶晶(Trương Tinh Tinh),王丽丽 (Vương Lệ Lệ),李芳芳(Lý Phương Phương)… Láy một từ thành tên kép là hình thức tên nữ Trung Quốc đã có từ xưa. Thí dụ thời nhà Tống (trong tác phẩm Thủy Hử) chúng ta gặp một cô kỹ nữ nổi tiếng tên là 李师师(Lý Sư Sư) tên kép của cô là láy từ Sư. Hình thức láy một từ thành tên kép thường là tên nữ, được coi là một tiêu chí khu biệt giới tính. Hiện nay, tên nam cũng đã dần dần xuất hiện hình thức láy một từ thành tên kép như: 马锬锬(Mã Đàm Đàm), 杜 明明(Đỗ Minh Minh)… Việc láy các từ hình dung có thể làm gia tăng nghĩa đáng yêu, cho nên, dưới ảnh hưởng văn hóa truyền thống Trung Quốc, tỷ lệ tên nam hình thức láy từ thường rất ít so với tên nữ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(86)</span> 78. 2) Sự phân tích về ngữ dụng trong việc đặt tên những năm 90 Các tên người đặt ra trong những năm 90 so với thời đầu những năm 80 đã có một biến đổi rõ ràng: số tên kép nam đã tăng lên nhiều. Thời kỳ này bố mẹ thích đặt tên kép cho con cái, nhưng lại không phải là tên kép có thể thức cố định những năm 60 và 70, mà đã có thay đổi và xuất hiện những tên mới có thể coi là sáng tạo. Và đã cải tiến theo hình xoắn ốc. Tên kép những năm 90, không những suy nghĩ đến mối liên hệ giữa hai chữ được chọn làm tên, mà còn suy nghĩ đến mối quan hệ giữa họ bố và họ mẹ, tên bố và tên mẹ.Cho nên đã xuất hiện hình thức họ ghép họ bố + họ mẹ, vi dụ: 刘长飞(Lưu Trường Phi),施黎 成(Thi Lê Thành),李王腾拓(Lý Vương Đằng Thác),金方三惠(Kim Phương Tam Huệ)… Trong giai đoạn này, từ láy sử dụng trong tên nữ vẫn có tỷ lệ cao. 3) Sự phân tích về ngữ dụng trong việc đặt tên sau năm 2000 Những năm sau năm 2000, do sự tiến bộ và phát triển của xã hội và sự biến đổi của bối cảnh xã hội, các tên đặt ra cho trẻ em lại có một số điểm khác nhau: tỷ lệ tên hai chữ tiếp tục tăng lên, không kể tên nam hay tên nữ. Hiện tượng họ ghép họ bố và họ mẹ càng được phổ biến hơn. Trong giai đoạn này đã xuất hiện tên ba chữ, tên bốn chữ, thậm chí là tên năm chữ. Sau năm 2000, công nghệ thông tin được phổ biển trong phạm vi toàn quốc, văn hóa Iternet đã ảnh hưởng đến nhiều mặt của văn hóa truyền thống Trung Quốc, trong đó văn hóa tên người Hán cũng không phải là ngoại lệ. Lứa tuổi trẻ hiện nay thường xuyên lấy sự theo đuổi đối với cá tính làm mục đích, vì vậy, đã xuất hiện một số tên kỳ lạ. Năm 2009, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc đã có một vụ án về gìn giữ quyền lợi họ tên của mình. Cụ thể là một người (đàn ông) tên là 赵 C,khi đi phòng quản lý hộ tịch thay chứng minh thư nhân dân đời thứ II, bị nhân viên quản lý yêu cầu đổi tên, vì nguyên nhân là chữ cái C không đăng ký vào được hệ thống Internet của chương trình quản lý hộ tịch. 赵 C để gìn giữ quyền lợi họ tên của mình đã tố cáo cục công an thành phố Ưng Đàm tỉnh Hồ Nam, tuy cuối cùng đã bị thua Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(87)</span> 79. kiện, nhưng cũng đã thể hiện điều kỳ dị trong hiện tượng tên người Hán. Vụ này đã trực tiếp liên quan đến vấn đề chuẩn mực đặt tên của người Hán. 3.2.2.5. Ảnh hưởng của các yếu tố khác trong việc đặt tên của người Hán 1) Giới tính Giới tính đã ảnh hưởng trực tiếp đối với việc lựa chọn các chữ sử dụng trong tên người. Giới tính khác nhau đã trực tiếp quyết định phạm vi và khác biệt về các chữ người ta muốn lựa chọn và sử dụng trong tên. Ví dụ: trong tên nam người ta rất ít sử dụng những chữ có bộ thủ 女,ngược lại, trong tên nữ lại ít có những chữ mang bộ thủ 山 hoặc 木… 2) Âm dương ngũ hành Người Trung Quốc rất tin cậy về ngày sinh và ngũ hành, cũng tin rằng họ tên liên quan đến số phận của một người.Tức là trong tên có đủ ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) mới có được số phận tốt. Người Trung Quốc đã vận dụng ngũ hành vào trong tên người. Ví dụ: người nào đó ngũ hành thiếu mộc thì khi đặt tên có thể sử dụng những chữ có bộ thủ 木(Mộc). Cũng có khi đặt tên người ta không đề ý đến ngũ hành, sau này khi xem lại thấy trong ngũ hành bị thiếu lại đổi các chữ trong tên thí dụ như đổi 伟 thành 炜, thực chất cách đổi này chỉ khác nhau ở bộ thủ để bổ sung cho ngũ hành, chữ hình không biến đổi và âm thì cũng giống nhau. 3) Phát âm của tiếng địa phương Tên người chủ yếu là để xưng hô, cho vậy sự êm dịu, dễ nghe cũng rất quan trọng.Có một số tên trong tiếng Hán khi đọc bằng tiếng phổ thông không có vấn đề gì, nhưng khi đọc bằng tiếng địa phương lại rất khó nghe hoặc có âm xấu. Cho nên khi người ta đặt tên không những quan tâm đến phát âm tiếng phổ thông của các chữ trong tên mà còn quan tâm đến phát âm tiếng địa phương của các chữ trong tên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(88)</span> 80. 4) Trong nội dung trên chúng tôi đã đề cập đến vụ án 赵 C, vụ án này chính là sự thể hiện của chuẩn mực dùng chữ trong tên người Hán. Năm 2007, Bộ Công An Trung Quốc đã khởi thảo ra《姓名登记条例(初稿)》,trong đó đã có ghi: công dân chỉ cho phép đăng ký một tên, và tên được đăng ký nên sử dụng chữ Hán chuẩn mực. Trong tên không được sử dụng hoặc bao hàm những nội dung như: Chữ cái, con số, phù hiệu, chữ phồn thể, chữ tự sáng tạo và chữ nước khác, phiên âm, chữ La Mã… Tuy Điều Lệ này thuộc pháp qui hành chính, không phải là pháp luật, và bây giờ vẫn đang xin ý kiến của dân chúng, chưa được công bố và thực hiện, nhưng qua đó chúng ta có thể thấy rõ được chuẩn mực dùng chữ trong tên người Hán. Và theo dự kiến của hội đồng ngôn ngữ nhà nước Trung Quốc, Hội đồng Ngôn ngữ, Bộ Công an và Cục Dân chính sẽ liên kết thiết lập ra《人名规范用字表》để giúp người ta đặt tên hợp với phong tục truyền thống và tình hình thực tế Trung Quốc. Trong《人名规范用字表》sẽ thu thập khoảng 7000 chữ thường dùng và còn thêm 5000 chữ ít gặp để thỏa mãn nhu cầu của dân chúng về tâm lý. 5) Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, chưa bao giờ khu biệt về giai cấp và tầng lớp và nó phục vụ cho tất cả mọi người trong xã hội, không mang tính giai cấp, mà có tính toàn dân. Ngôn ngữ xuất hiện tại xã hội chưa có giai cấp, hình thức ngữ âm và cấu trúc ngữ pháp cũng không có tính giai cấp. Tuy nhiên, những tư tưởng do ngôn ngữ thể hiện thì lại mang tính giai cấp. Cũng như trên đã nói, tên người là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt, cho nên những đặc điểm về giai cấp cũng có ảnh hưởng đến quá trình đặt tên riêng của con người. Cụ thể là nghề nghiệp, trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế, môi trường sống… của mỗi tầng lớp giai cấp khác nhau cũng có thể ảnh hưởng đến tên gọi của con người. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về tên gọi của các giai cấp trong xã hội Trung Quốc hiện nay. a. Tên gọi của giai cấp nông dân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(89)</span> 81. Trung Quốc là một nước nông nghiệp từ xưa đến nay, nông nghiệp là sản nghiệp nòng cốt của Trung Quốc. Theo thống kê tính đến cuối năm 2010, dân số Trung Quốc khoảng 1,341tỷ, trong đó dân số nông nghiệp hơn 0,6 tỷ, khoảng một nửa tổng dân số Trung Quốc. Vì vậy có thể nói dân số nông thôn và nông nghiệp vẫn chiếm vị trí chủ đảo. Do vậy từ cổ xưa đã hình thành văn hóa nông nghiệp và văn hóa nông thôn khá đặc biệt. Ngoài ra còn nguyên nhân do cư dân nông thôn nông nghiệp trình độ văn hóa thấp, cho nên quá trình đặt tên của người Hán cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa nông nghiệp và văn hóa nông thôn. Sau đây là một số tên của người nông thôn: Bảng 3.2 Một số tên của ngƣời nông thôn Trung Quốc Tên Nam. Tên Nữ. 李二狗. 丁志山. 王桂芝. 闫宝翠. Lý Nhị Chó. Đinh Chí Sơn. Vương Quế Chi. Diêm Bảo Thúy. 李小发. 张旺财. 张英. 田桂花. Lý Tiểu Phát. Trương Vượng Tài. Trương Anh. Tiền Quế Hoa. 刘老根. 何宝金. 李瑞英. 苏秀娟. Lưu Lão Căn. Hà Bảo Kim. Lý Thụy Anh. Tô Tú Quyên. 黄永才. 刘善. 崔淑珍. 张洪. Hoàng Vĩnh Tài. Lưu Thiện. Thôi Thục Trâm. Trương Hồng. 于胜利. 王宝. 张明丽. 李秀芹. Dư Thắng Lợi. Vương Bảo. Trương Minh Lệ Lý Tú Cần. … Từ ví dụ trên và qua nghiên cứu các tài liệu khác chúng tôi thấy rằng ở nông thôn Trung Quốc phụ nữ vẫn theo qui luật chung ít có tên một chữ, trong khi đó nam giới cũng vậy tên hai chữ không nhiều. Mặt khác tên gọi của người dân vẫn gửi vào đó nguyện vọng mong muốn có cuộc sống giàu sang đầy đủ. b. Tên gọi của giai cấp công nhân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(90)</span> 82. Sau khi Nước Cộng họa Nhân dân Trung Hoa thành lập, Trung Quốc đã nỗ lực phát triển công nghiệp, đặc biệt sau khi cải cách mở cửa, công nghiệp Trung Quốc đã không ngừng phát triển, đồng thời giữ được tốc độ phát triển nhanh. Sau năm 1979, trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, Trung Quốc lại xây dựng thêm nhiều nhà máy về khu kinh tế, nhiều đất canh tác bị trưng dụng dẫn đến tình hình nông dân bị mất ruộng và bắt đầu di chuyển vào các thành phố tìm việc ngày càng tăng lên, dần dần đã hình thành tầng lớp nông dân công. Đến năm 2010, dân số công dân Trung Quốc đã hơn 0,3 tỷ. Sau khi tầng lớp này hình thành, đa số người từ nông dân trở thành công nhân, ảnh hưởng của thiên nhiên giảm xuống, điều kiện kinh tế có thể tốt hơn so với nông dân, chính vì thế cách đặt tên cũng bị ảnh hưởng nhiều. Lấy một số ví dụ như sau: Bảng 3.3 Một số tên của tầng lớp công nhân Trung Quốc Tên Nam. Tên Nữ. 李江. 白力. 门丽. 韩洁. Lý Giang. Bạch Lực. Môn Lệ. Hàn Khiết. 马建川. 刘世平. 王云. 张立英. Mã Kiến Xuyên. Lưu Thế Bình. Vương Vân. Trương Lập Anh. 徐志斌. 杨永强. 刘泽美. 程素萍. Từ Chí Bân. Dương Vĩnh Cường. Lưu Trạch Mỹ. Trình Tố Bình. 孙铁山. 吕志忠. 郭玉红. 胡文菊. Tôn Thiết Sơn. Lữ Chí Chung. Quách. Ngọc Hồ Văn Cúc. Hồng 孔凡成 Khổng. 王学毅 Phàm Vương Học Nghị. 王莉娜. 杨丽萍. Vương Lợi Na. Dương Lệ Bình. Thành Thông qua ví dụ trên và qua sự khảo sát của chúng tôi, có thể thấy rằng: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(91)</span> 83. tên gọi trong tầng lớp công nhân, các chữ được sử dụng đã khác biệt với tên người nông dân, hàm ý đã sâu sắc hơn. Tên của phụ nữ đã có nhiều tên hai chữ và tên hai chữ thường là tiêu chí của trình độ văn hóa, có nghĩa là tên gọi của phụ nữ cũng đã biến đổi theo trào lưu phát triển của văn hóa xã hội. c. Tên của lớp ngưòi trí thức Tầng lớp trí thức Trung Quốc hiện nay có phạm vi rất rộng lớn, và thường được phân bố trong nhiều ngành nghề khác nhau như: giáo viên, học giả, nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, kĩ sư, bác sĩ, nhà khoa học, công chức nhà nước … Họ thường là những người đã được học tập tại các trường cao đẳng và đại học, có kiến thức phong phú có tư duy riêng của mình. Mặt khác, tính chất ngành nghề và năng lực của họ đã tạo điều kiện cho họ có một cuộc sống đầy đủ với kinh tế tốt. Hoàn cảnh cuộc sống của tầng lớp này tương đối ổn định và thuận lợi. Chính vì các điều kiện nêu ra trên trong quá trình đặc tên, họ thường có tư duy khác với các giai cấp khác. Lấy một số ví dụ cụ thể: Bảng 3.4 Một số tên của lớp ngƣời trí thức Trung Quốc Tên Nam. Tên Nữ. 顾秉林. 丁一鸣. 宋祖英. 范冰冰. Cố Bẩm Lâm. Đinh Nhất Minh. Tống Tổ Anh. Phạm Băng Băng. 许智宏. 韩寒. 潘玉良. 秦百兰. Hứa Trí Hồng. Hàn Hàn. Phan Ngọc Lương. Tần Bạch Lan. 郎朗. 郑渊洁. 谢冰莹. 丁玲. Lang Lãng. Trịnh Nguyên Khiết. Tạ Băng Doanh. Đinh Linh. 季羡林. 林语堂. 张璐. 杨澜. Quý Tiễn Lâm. Lâm Ngữ Đường. Trượng Lộ. Dương Lan. 梁英杰. 杨振宁. 孙亚芳. 尹爱萍. Lương Anh Kiệt. Dương chấn Ninh. Tôn Á Phương. Doãnh Ái Bình. … Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(92)</span> 84. Trong các ví dụ cụ thể trên, chúng tôi có thấy tên gọi lớp trí thức chú trọng sử dụng những chữ có ý đẹp và nho nhã, phát âm các chữ trong tên kết hợp nhau có ý cảnh hoàn hảo và tốt đẹp. 3.3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA TÊN RIÊNG NGƢỜI VIỆT 3.3.1. Chữ quốc ngữ với tên ngƣời Việt Trong lịch sử Việt Nam, đã có một thời gian dài lấy Chữ Hán làm chữ Viết chính thức. Trước khi chữ La-Tinh ra đời, người Việt đã từng sử dụng Chữ Nôm, một loại chữ viết được hình thành dựa theo chữ Hán, nhưng hiện nay đã không còn được sử dụng nữa. Hiện nay tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam, thuộc ngữ hệ Nam Á. Dưới hình thức ngôn ngữ, chữ viết chính thức của Việt Nam hiện nay là Chữ Quốc Ngữ theo kiểu Chữ La-Tinh. Năm 1651, một giáo sĩ tên là Alexandro de Rhodes đã viết ra Từ điển Việt-Bồ-La. Với cuốn từ điển này, chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự La-Tinh đã ra đời. Chữ quốc ngữ là hình thức chữ viết của tiếng Việt hiện nay. Nhà nước đã qui định tiếng Việt và chữ ngôn ngữ dùng phổ thông trên toàn Việt Nam gọi là tiếng phổ thông và chữ quốc ngữ. Ở phần trên chúng tôi đã giới thiệu sơ lược và sự ra đời của chữ quốc ngữ theo mẫu tự La-Tinh. Từ khi ra đời chữ viết này chắc chắn cũng có quan hệ đến việc đặt tên của người Việt về hình thức chữ viết hiện nay là mẫu tự phiên âm hình dài, không giống trước đây khi dùng chữ Hán là kiểu chữ tượng hình ( hình vuông). Có thể nói đặc điểm của chữ La-Tinh không ảnh hưởng nhiều đến việc dụng chữ trong tên người Việt. Trong tên người Việt, ngữ âm và ngữ nghĩa được người ta chú trọng hơn nhiều, hình chữ thì có thể coi là một yếu tố không quan trọng lắm. Điều này không giống như trước đây khi còn đặt tên theo ―âm Hán Việt‖. Âm Hán Việt đã có tác động sâu đậm, lâu đời đối với việc đặt tên của người Việt. Hầu hết tên họ và các chữ dùng trong tên đều có một âm tương ứng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(93)</span> 85. trong tiếng Hán. Tiếng Việt khi là loại văn tự phiên âm, thì nó cũng mang đặc tính của văn tự phiên âm, tức là khi trùng danh nhất định đồng thời phải trùng âm. Không giống như tiếng Hán có hiện tượng một chữ đa âm hoặc một âm đa chữ. Ví dụ: trong tiếng Việt một hai người hoặc nhiều người có tên Nguyễn Văn Quang, thì chắc chỉ có cách viết và cách đọc duy nhất. Như vậy, trùng danh đồng thời sẽ trùng hình và cả trùng âm. Nhưng trước đây khi dùng tiếng Hán nêu một số người gọi cùng một tên, thí dụ: 杨乐, thì có thể không đông âm. Vì có người đọc là yáng lè (Dương Lạc) nhưng có người lại đọc là yáng yuè (Dương Nhạc). Cũng có trường hợp cùng một âm zhāng chéng lại có các hình chữ khác nhau: 张成(Trương Thành),章程(Chương Trình),张诚(Trương Thành) … Đây chính là một đặc điểm rất khác biệt của tiếng Hán. 3.3.2. Một số đặc điểm văn hoá xã hội của Việt Nam liên quan đến cách đặt tên nguời Việt 3.3.2.1. Đặc điểm tâm lý xã hội trong việc đặt tên người Việt Các loại hình thái tên người khác nhau đều bị tác động mạnh và hạn chế, ràng buộc bởi tâm lý xã hội. Đặt tên và đổi tên cho người khác hoặc bản thân mình tuy là hành động cá nhân, mức độ tự do tương đối lớn, nhưng những hành động tự do này không phải là không có hạn chế. Tương ứng và phù hợp với tâm lý xã hội chính là một trong các hạn chế. Do mỗi dân tộc đều có văn hóa truyền thống riêng, hoàn cảnh xã hội và tâm lý cá nhân khác nhau, vì vậy quá trình hình thành tâm lý xã hội cũng khác nhau. Trong bộ phận giới thiệu về tâm lý xã hội tác động đến tên người Hán, chúng tôi cũng đã nêu ra một số tâm lý xã hội đã từng ảnh hưởng đến việc đặt tên của người Hán, đó là: tâm lý cầu mỹ, tâm lý theo số đông và tâm lý chống đỡ. Các tâm lý này không phải chỉ xuất hiện tại nước Trung Quốc và cũng không phải chỉ là nhữn tâm lý của người Hán. Mặc dù về mặt lý thuyết cũng như thực tế các dân tộc khác nhau và các nước khác nhau sẽ có tâm lý xã hội khác nhau, nhưng thực chất chỉ khác nhau về chi tiết, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(94)</span> 86. do đó có thể nói có một số tâm lý hình như tất cả các dân tộc đều có những điểm giống nhau. Văn hóa truyền thống Việt Nam đã chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Trung Quốc, nho giáo đã truyền vào Việt Nam và được phát triển mạnh trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Đã có một thời gian dài người Việt viết chữ Hán và đọc được tiếng Hán tuy chỉ là những quan lại, sư phu. Cho nên, việc đặt tên cũng được ảnh hưởng nhiều từ Trung Quốc. Ví dụ, người xưa Trung Quốc ngoài tên chính còn có Tự, Hiệu, Biệt hiệu… và thời xưa Việt Nam đa số cũng theo tập quán của Trung Quốc, đặc biệt là lớp trí thức. Đồng thời, tâm lý trong việc đặt tên người Hán cũng ảnh hưởng đến người Việt. Thậm chí đó đến hiện nay vẫn còn, nhất là khi kinh tế phát triển, tâm lý ―hồi cổ‖ cũng có điều kiện thể hiện mạnh mẽ. a. Tâm lý cầu mỹ Do chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là như trên chúng tôi đã nói đến âm Hán Việt, hầu hết tất cả chữ người Việt dùng để đặt tên đều có một chữ Hán tương ứng và nhiều khi lại có phát âm gần nhau. Như vậy, tên người Việt cũng giống như tên người Hán, khi đặt tên người ta thường có tâm lý cầu mỹ. Trong tên tiếng Việt, người ta cũng thường xuyên sử dụng các từ có nghĩa tốt đẹp,ví dụ tên nam: Anh, Dũng, Cường, Hiếu, Kiên, Thành, Mạnh, Tiến, Trung, Tín, Nhân, Nghĩa… Từ các từ ngữ này chúng ta có thể nhìn rõ sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam. Người đặt tên đã mong muốn người mang tên có thể có được những phẩm chất dũng mạnh, nhân nghĩa, trung tín, hiếu thảo… So với tên nam, thì tên của nữ lại dịu dàng hơn, ví dụ như: Thảo, Trang, Hà, Hương, Linh, Huyền, Phương, Hằng, Vân… Người đặt tên đã tỏ ra ý muốn là hy vọng một con gái có tính dịu rạng và có phẩm chất tốt, và trong các tên này chúng ta cũng có thể thấy rõ tên nữ mang tính lãng mạn hơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(95)</span> 87. so với tên nam. Ngôn ngữ tiếng Việt cũng như tiếng Hán, một số từ kết hợp nhau lại thường xuyên có ý nghĩa sâu sắc. Trong tên người Việt thường có những tổ hợp các chữ như thế này đặt ra một tên tốt và đồng thời biểu tỏ mong muốn tốt đẹp của người đặt tên, ví dụ: tên Mai Anh Tuấn. Anh và Tuấn là hai từ âm Hán Việt, tổ hợp thành một từ Anh Tuấn. Theo nghĩa tiếng Hán ―Anh Tuấn‖ chuyên dùng để miêu tả một người con trai đẹp trai và khôi ngô; Một ví dụ khác: Nguyễn Thị Bạch Tuyết. Chữ Tuyết khi tổ hợp cùng chữ Bạch dùng trong tên nữ, cả hai chữ mang tâm lý của người đặt tên mong muốn người con gái có phẩm chất trong trắng. Theo quan điểm của tác giả Lê Trung Hoa: ―tên người cũng phải đặt sao cho hay về ngữ âm lẫn ngữ nghĩa‖. Trong tên Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Tuyết chủ yếu để biểu tỏ ngữ nghĩa hay và thêm chữ Bạch chủ yếu lại để tăng mức độ đẹp về ngữ âm. Đây chính là sự thể hiện của tâm lý cầu mỹ trong tên người Việt. b. Tâm lý theo số đông Tâm lý theo số đông trong tên người Việt rất là điển hình và phổ biến. Trong tên người Việt, hầu hết tất cả tên nam hay tên nữ đều có tên đệm theo tâm lý mọi người trong xã hội. Tên đệm sử dụng trong tên người Việt đã có lịch sử lâu đời. Mọi người cũng theo, đã có lịch sử lâu đời. Khi thấy người khác có tên đệm thì đặt tên cho trẻ em mọi người cũng theo đặt tên đệm cho con. Mặt khác, chức năng khu biệt giới tính cũng làm cho người ta thích đặt tên đệm cho con. Ngoài ra, một hiện tượng phổ biến nữa là tên nam người Việt thường là tên đơn. Mỗi thời đại đều có một tâm lý đặt tên khác nhau. Ngày xưa, đặt tên con trùng với tên người trên, người thân là điều cấm kỵ. Các nho sỹ thích đặt tên tự, hiệu, biệt hiệu cho con. Ngày nay, tâm lý lấy họ mẹ đặt tên đệm cho con dần dần phổ biến. Bên cạnh đó, đa số cha mẹ thời nay không muốn đặt tên con có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(96)</span> 88. đệm là ―Văn‖, ―Thị‖ nữa vì nó không còn chức năng thẩm mỹ nữa (theo khảo sát ngẫu nhiên ở trường PTTH Lê Văn Anh Hà Nội, chỉ còn hơn 40% nữ sinh có tên đệm là Thị và 2,5 % nam sinh có tên đệm là Văn). Tên tục chỉ còn lại rất hiếm và chỉ có ở nông thôn. Tên chính là từ Hán Việt như Hùng, Anh, Minh, Nguyệt... ngày càng chiếm đa số. Trong khi đó tên thuần Việt như Giàu, Giát, Áng… thì ngày càng hiếm. Đây chính là sự thể hiện của tâm lý theo chúng số đông trong cách đặt tên người Việt. c. Tâm lý chống đỡ Ngày xưa, người bình dân sợ con mình bị ―ma, quỷ bắt‖ thì đặt những tên xấu xí như: Đẹt, Còm, Cúm, Nướp…Cách gọi tên như thế thể hiện rõ tâm lý chống đỡ trong tên người Việt đã có lịch sử lâu đời. Hiện tượng như thế này cũng tồn tại trong tên người Hán Trung Quốc, và được gọi là ―hiện tượng tên hèn‖ và hiện nay vẫn còn. Ngoài ra, hiện tượng con trai có tên nữ và con gái có tên nam cũng là sự thể hiện của tâm lý chống đỡ trong việc đặt tên. Trong tên người Việt cũng có con trai mang tên nữ là Ngọc Tú, Hoài Linh… Hiện nay, cùng với sự tiến bộ của xã hội và sự phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật thông tin, tâm lý đặt tên cho con lại chịu nhiều ảnh hưởng khác và cũng có nhiều biến đổi. Mỗi bố mẹ hoặc phụ huynh trong gia đình khi đặt tên cho con đều có tâm lý mong muốn tên con mình có thể gây ấn tượng sâu sắc cho mọi người. Như vậy, hiện nay cho dù trong xã hội Trung Quốc hay Việt Nam đã có một xu thế đặt tên mới là đặt tên nhiều chữ cho con. Thí dụ như một lưu học sinh Việt Nam trong trường Học Viện Hồng Hà có tên là: Đỗ Thành Lê Phương Lệ. Có ý cho rằng và hiện tượng đặt tên đa âm tiết hoặc có thể nói tên nhiều chữ đang là xu hướng được ưa thích hiện nay và đây chính là sự thể hiện của tâm lý chống đỡ đối với cách đặt tên truyền thống. 3.3.2.2. Tính lịch sử chính trị trong tên người Việt Tên người là một hiện tượng xã hội, đặc biệt trong đó lại chứa đựng tâm lý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(97)</span> 89. xã hội phản ánh mỗi thời kỳ riêng biệt. Vì thế qua tên người chúng ta có thể tìm hiểu được một số sự kiện lớn trong lịch sử về mặt chính trị. Tên người Việt cũng như vậy và cũng mang tính chất đặc biệt này. Lấy một ví dụ tiêu biểu nhất: thời chống Mỹ, nhiều người đặt tên cho con là Chiến Thắng, Tiến Quân, Quyết Chiến… đã tỏ ra ý muốn là hy vọng quân đội Việt Nam có thể sớm giành được thắng lợi; Sau khi cải cách mở cửa lại xuất hiện các tên như: Cách Tân, Văn Minh, Tân Sinh…đã thể hiện người đặt tên có tình cảm, tin tưởng với việc cải cách mở cửa. Qua việc đặt tên bộc lộ niềm vui của mình. Ngoài ra trong các tên khác lại thể hiện ý muốn của dân chúng là hy vọng việc cải cách mở cửa có thể có được cuộc sống mới và xã hội có thể được văn minh hơn. Cũng như ở Trung Quốc, sau khi cải cách mở cửa, văn hóa truyền thống Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa phương Tây. Cùng với sự phát triển và quảng bá của tiếng Anh, và có một bộ phận người Việt đi khỏi Việt Nam sau khi sự kiện 1975, tên người Việt đã xuất hiện một số kiểu tên mới như: Kate Nguyễn, Jonny Lý…và hiện tượng này cũng đã gây một cuộc tranh luận lớn trong xã hội Việt Nam về mặt kế thừa và duy trì văn hóa truyền thống Việt Nam. 3.3.2.3. Sự ảnh hưởng của các yếu tố khác trong việc đặt tên của người Việt 1) Tên người Việt và giới tính So với tên người Hán, tên người Việt thể hiện giới tính rất rõ ràng, tên đệm trong tên người Việt có chức năng khu biệt giới tính. Như mọi người đã biết trong tên người Việt cho dù tên nam hay tên nữ, tên đệm đã chiếm tỷ lệ rất cao. Tên đệm trong tên nam tỷ lệ sử dụng cao nhất là ―Văn‖, tên đệm trong tên nữ tỷ lệ sử dụng cao nhất là ―Thị‖. Hiện nay cùng với sự phát triển và tiến bộ của văn hóa xã hội Việt Nam, cách đặt tên của người Việt cũng có nhiều biến đổi, tỷ lệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(98)</span> 90. sử dụng tên đệm ―Văn‖ và ―Thị‖ đã dần dần bớt đi, và đã xuất hiện nhiều tên đệm khác được người đặt tên lựa chọn làm tên đệm, ví dụ tên đệm Nam có Quang, Quốc, Minh, Duy, Hữu, Đức… và trong tên nữ lại có Thùy, Thu, Thanh, Hồng, Ngọc,… Ngoài tên đệm, tên cá nhân trong tên người Việt cũng có chức năng khu biệt giới tính.Tên cá nhân nam, người Việt thích sử dụng những từ có thể tỏ ra ý chí của mình như: Cường, Mạnh, Dũng… hoặc tỏ ra mong muốn tốt đẹp về mặt phẩm chất con người của người đặt tên và: Hiếu, Tín, Trung, Nghĩa… Tên cá nhân nữ người Việt lại thường lấy các từ mềm mại, dịu dàng làm tên nữ, ví dụ: Huệ, Hạnh, Tuyết, Thùy, Nhung, dung, Phương… 2) Tên người và phong tục xã hội Việt Nam Theo tác giả Trương Thìn: ―Tên gọi sẽ gắn với một người suốt cả cuộc đời, là niềm hãnh diện, là sự trìu mến mỗi khi con bạn nghĩ đến hoặc nghe ai đó gọi mình.Tên gọi của mỗi người tưởng đơn giản mà lại gắn liền với bề dày văn hoá dân tộc, đặc biệt là phong tục xã hội.Ngày xưa, cái tên thể hiện cấp bậc trong xã hội. Chỉ cần nghe đến Sen, Nhài… người ta có thể biết ngay cô gái ấy là con nhà nghèo hèn.Thấp kém nhất trong xã hội nông thôn là Mõ. Chẳng biết người bần nông trước khi trở thành mõ có cái tên gì, nhưng đã làm việc đó trong làng thì chỉ còn được gọi bằng cái tên: Mõ. Những tên đẹp, có ý nghĩa, thường là gốc Hán, chỉ đặt cho con nhà giàu, nhà nho giáo: Kim Thuý, Quỳnh Hoa…‖[I-23] Cũng như ví dụ trên mà tác giả Trương Thìn nêu ra, việc đặt tên của người Việt lại liên quan đến phong tục xã hội. Vì vậy, khi đặt tên cho con bé, người Việt lại thường tìm hiểu phong tục đặt tên dân gian, kết hợp với cách đặt tên khoa học. Tuy xã hội đang tiến bộ không ngừng, việc đặt tên cũng chịu ảnh hưởng của sự phát triển văn hóa xã hội và sự biến đổi phong tục xã hội. Ví dụ: hiện nay, nhiều cặp vợ chồng trẻ thích đặt tên cho con bé theo mốt, tức là thích đặt cho con tên nhiều chữ, như: Đỗ Thành Lệ Phương lệ, Hoàng Thế Việt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(99)</span> 91. Chinh… Hoặc là theo mốt đặt một tên kiều Tây cho con như: Lisa Lý… Ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng của văn hóa và văn minh con người, tên người không những là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt mà còn là một hiện tượng văn hóa đặc biệt, sự nghiên cứu về tên người hoặc nói một cách khoa học hơn là Nhân danh học, sẽ có tác dụng tích cực đối với việc nghiên cữu văn hóa xã hội trong thời kỳ nhất định. Những năm đầu 1980 Dựa vào số liệu thống kê của chúng tôi, trong những năm 80, vì nguyên nhân đất nước Việt Nam mới kết thúc chiến tranh, thống nhất Nam Bắc, cho nên việc đặt tên vẫn phải chịu ảnh hưởng của văn hóa và phong tục ngày xưa. Điển hình là thời đó tên người Việt theo cấu trúc tên: Họ + Văn/Thị + tên cá nhân đơn vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất, nhưng đồng thời lại có một số tên không sử dụng tên đệm ―Văn‖ và ―Thị‖ nữa, lấy một số tên đệm khác thay thế, hoặc có một số tên nam trực tiếp không sử dụng tên đệm nữa như: Phạm Tùng, Hoàng Hậu, v.v… mà tên nữ thị rất ít có tên là Họ + tên cá nhân đơn. Những năm đầu1990 Theo điều tra và thống kê của chúng tôi, trong những năm 1990, đặc biệt là sau khi năm 1986, Việt Nam thực hành cải cách mở cửa, văn hóa truyền thống đã chịu ảnh hưởng to lớn của văn hóa phương Tây, văn hóa tên người cũng chịu nhiều tác động. Đặc điểm nổi bật nhất của tên người Việt là tên đệm ―Văn‖ trong tên nam và ―Thị‖ trong tên nữ đã bị một số tên đệm khác vì thế và ngày càng được nhiều người chọn đặt tên cho trẻ em mới sinh ra. Như thế đã xuất hiện nhiều tên như: Đỗ Mạnh Cường, Hoàng Trung Tín, Nguyễn Việt Hà, Bùi Diệu Thúy, Trần Ái Vân,Vi An NA … Và đã xuất hiện kiểu cấu trúc tên: họ bố + họ mẹ + tên cá nhân, ví dụ: Trần Hoàng Anh, Nguyễn Lê Huỳnh, Nguyễn Đỗ Sơn Tùng, Lê Trần Hồng Trang… Những năm đầu thế kỳ mới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(100)</span> 92. Sau năm 2000, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đã bước vào một thế kỷ mới, thế kỷ 21. Vào thời kỳ này kỹ thuật thông tin phát triển rất mạnh và đã tạo ra ảnh hưởng lớn đối với văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa tên người nói riêng, đặc biệt là sự phổ biến của Internet. Hiện nay, tầng lớp trẻ (sinh ra sau nhưng năm 80) hầu hết mọi người đều biết chơi điện tử và chát trên mạng, lớp trẻ đã được tiếp xúc với nhiều thứ văn hóa khác nhau, như vậy khi đặt tên cho con bé lại chịu tác động với nhiều yếu tố khác nữa. Nói chính xác hơn giai đoạn này tên người Việt có đặc điểm nổi bật là đa nguyên hóa, phong phú và đa dạng hơn nhiều so với giai đoạn thế kỳ 20. Từ đó cũng đã nảy sinh ra một khái niệm mới là tên Nick, Như trên đã trình bày luận văn chúng tôi chỉ nghiên cứu về tên chính, cho nên chúng tôi không trình bày về các loại tên mới. 3) Tính phân tầng xã hội trong tên người Việt Trong tác phẩm ―Ngôn ngữ học xã hội – Những vấn đề cơ bản‖ [I-10] tác giả Nguyễn Văn Khang đã cho rằng: ―Bản thân ngôn ngữ không có tính giai cấp, nhưng những giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau có ảnh hưởng tới việc sử dụng ngôn ngữ và làm cho ngôn ngữ trong sử dụng vừa phản ánh vừa mang tính đặc thù giai cấp hoặc đặc thù của một tầng lớp xã hội nào đó. Đây chính là nguyên nhân nảy sinh ra sự phân tầng xã hội trong sử dụng ngôn ngữ‖. Cũng như đối với các hiện tượng ngôn ngữ khác, những đặc trưng về giai cấp cũng có ảnh hưởng đến quá trình đặt tên của người Việt, những đặc điểm về nghề nghiệp, trình độ văn hóa, về kinh tế v.v… của mỗi tầng lớp giai cấp khác nhau đều có ảnh hưởng đến tên gọi người Việt. - Tên riêng của tầng lớp nông dân: Cũng như ở Trung Quốc, lớp nông dân là một giai cấp có vị trí tương đối đặc biệt đó là đông và trình độ văn hóa thấp, nguyên nhân chủ yếu do công việc môi trường và điều kiện kinh tế của họ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(101)</span> 93. Trong lịch sử cũng như hiện nay, giai cấp nông dân Việt Nam chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng, hoặc trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, đánh cá… Nông dân Việt Nam cũng như nông dân Trung Quốc, hiện nay vẫn còn làm ruộng theo kiểu truyền thống, không giống như nông dân ở các nước phát triển trồng trọt đã cơ khí hóa. Như vậy, với nền kinh tế tự cung tự cấp và phụ thuộc vào thiên nhiên, cuộc sống của tầng lớp nông dân vẫn còn nghèo nàn và trình độ văn hóa cũng thấp hơn nhiều so với các tầng lớp khác. Chính là đặc tính như thế này đã ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển tên gọi người nông dân.Ví dụ tên nam có: Đào Trọng Nghĩa, Vũ Hữu Tình, Đặng Phương Hướng, Vũ Mão, Nguyễn Bảo, Nguyễn Văn Đinh, Bùi Đức Phong , Trần Xuân Thìn… Tên Nữ có: Lê Thị Trà Giang, Đặng Thị Hương Mơ, Trần Thị Mùi, Lê Thị Hồng, Vũ Thị Nga, Lý Thị Mây, Nguyễn Thị Mười… - Tên riêng của tầng lớp công nhân Giai cấp công nhân là lớp người thường làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ… Không giống như lớp nông dân, công cụ làm việc của công nhân đã tiến bộ hơn nhiều, đã từ nông cụ nguyên thủy đến máy móc, cơ khí, vì thế năng xuất lao động đã cao hơn nhiều so với nông dân, do vậy cuộc sống mặt kinh tế cũng tốt hơn nhiều và điều kiện sống của họ tương đối ổn định.Vì phải học tập về máy móc trang bị, họ lại có kiến thức chuyên môn, cho nên trình độ văn hóa cao hơn nông dân.Chính là những đặc điểm này đã ảnh hưởng đến cách đặt tên gọi của họ. Ví dụ: Vũ Công Nghiệp, Đặng Văn Búa, Lương Văn Xe, Cao Đức Máy, Nguyễn Thị Lan, Mai Thúc Kìm… - Tên riêng của tầng lớp trí thức Cho dù là Việt Nam hay là Trung Quốc, tầng lớp trí thức đều là những người có học vấn phong phú được coi là những người học rộng tài cao. Những người này thường làm một số ngành nghề tại các lĩnh vực rất khác nhau như là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(102)</span> 94. giảng viên trong các cấp trường, nghiên cứu viên hoặc nhà khoa học, họa sĩ, nghệ sĩ, kỹ sư, bác sĩ, biên tập, nhà báo, nhà văn… Môi trường sống của họ tập trung tại thành phố, vì thế họ có đời sống kinh tế và văn hóa khá hơn nhiều so với hai giai cấp nông dân và công nhân. Chính những điều khác nhau về cuộc sống vật chất và cuộc sống tinh thần đã làm cho quá trình đặt tên gọi của họ đã khác nhiều so với công nhân và nông dân. Ví dụ: Nguyễn Trường Chinh, Trần Trí Dõi, Lâm Bảo Ngọc, Đoàn Kiều Trang, Mai Huyền Mi, Lê Mộng Điệp, Vũ Thanh Nga…. 3.4. TIỂU KẾT Trong chương này chúng tôi chủ yếu trình bày về đặc điểm về mặt xã hội và văn hóa của tên người Hán và người Việt. Cho dù là tên người Hán hay là tên người Việt thì tên gọi vừa là một hiện tượng ngôn ngữ vừa là một hiện tượng xã hội. Sự hình thành và phát triển của tên người không thể tách rời với sự phát triển của xã hội và văn hóa.Tên người phải chịu ảnh hưởng từ các mặt trong xã hội. Đầu tiên về đặc điểm văn hóa xã hội của tên người Hán, tiếng Hán, chữ Hán và văn hóa tên người Hán có quan hệ chặt chẽ với nhau, đặc điểm tượng hình của chữ Hán đã ít nhiều ảnh hưởng tới văn hóa tên gọi của người Hán. So với chữ Hán, đặc điểm của chữ La-Tinh trong tiếng Việt lại không độc đáo như chữ Hán. Ngoài chữ viết, tâm lý xã hội cũng là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng tới văn hóa tên người Hán. Nói cụ thể hơn, trong quá trình đặt tên người ta thường tồn tại 3 tâm lý phổ biến: tâm lý cầu mỹ, tâm lý theo số đông và tâm lý chống đỡ. Văn hóa Trung Quốc thời xưa, đặc biệt là Nho Học đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với văn hóa Việt Nam, vì vậy, nguyên tắc và phương pháp đặc tên giữa người Hán và người Việt cũng có một số điểm giống nhau, tên của trẻ mới sinh đa số đều phải theo họ bố và theo kiểu cấu trúc tên gọi: Họ + Tên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(103)</span> 95. Do sự ảnh hưởng của Âm Hán Việt, tên người Việt cũng giống như tên ngường Hán có thể thể hiện cả quan điểm chính trị và lịch sử tại một thời điểm nhất định. Sau khi phân tích về mặt ngữ dụng, chúng tôi nhận thấy rằng: về mặt sử dụng chữ tên người Hán và người Việt đều thích sử dụng những chữ có đặc điểm vừa có âm đẹp vừa có nghĩa tốt. Ngoài các yếu tố nói trên, các mặt giới tính, tư tưởng phong kiến mê tín, phong tục xã hội … cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của văn hóa tên người Hán và người Việt. Ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt thông tin của văn hóa, đã phản ánh ra sự biến đổi của xã hội, vì thế tên người với tư cách là một hiện tượng ngôn ngữ văn hóa đặc biệt, có đặc điểm thời đại nổi bật.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(104)</span> 96. KẾT LUẬN Tên người là một hiện tượng đặc biệt vừa thuộc lĩnh vực ngôn ngữ vừa thuộc lĩnh vực văn hóa, từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: Dân tộc học, Xã hội học, Tâm lý học, Lịch sử học, Âm vần học, Mỹ học,v.v. Trên bình diện ngôn ngữ học, tên người được nhìn nhận như là một lớp từ vựng đặc biệt, vừa hình thành và phát triển theo các quy luật của ngôn ngữ vừa tuân theo các quy luật nằm ngoài ngôn ngữ. Xuất phát từ quan điểm ngôn ngữ học, luận văn tiến hành nghiên cứu về đề tài “đối chiếu đặc điểm tên riêng của người Hán và người Việt hiện nay”, Tên thật của người Hán cũng như tên người Việt có một kết cấu chung là: Họ + tên. Với mô hình cụ thể thì tên người Hán và tên người Việt cũng có một số khác nhau, thí dụ như mô hình của tên người Việt thường là Họ + Tên đệm + Tên cá nhân nhưng tên người Hán hiện nay đã ít dùng tên đệm. Nguyên nhân có thể do chức năng của tên đệm người Hán chủ yếu để khu biệt thứ bậc, nhưng với chính sách ―mỗi gia đình một con‖ phổ biến ở Trung Quốc, chức năng đó đã dần dần bị mất, cho nên tên người Hán hiên nay có thể coi là có cấu trúc chung Họ + tên. Trong luận văn chúng tôi đã trình bày 9 kiểu cấu trúc tên người Hán và 9 kiểu cấu trúc tên người Việt.Mỗi Thành phần ( Họ, tên đệm, tên cá nhân) trong tên người Hán và tên người Việt đều có cấu trúc và ý nghĩa riêng, nên chúng có thể tách rời và hoạt động một cách tương đối độc lập. Ngoài trình bày về đặc điểm cấu trúc tên người Hán và tên người Việt hiện nay ra, luận văn cũng chú ý trình bày một số đặc điểm về mặt xã hội và văn hóa của tên người Hán và tên người Việt để làm nổi bật mục tiêu chính. Về mặt văn hóa xã hội, ngay từ những phần đầu luận văn đã đề cập đến chữ Hán. Bởi vì chữ Hán có ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa tên người Hán Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(105)</span> 97. cũng như người Việt. Chữ Hán có đặc điểm tượng hình, không giống như Chữ La-Tinh trong tiếng Việt phải là xếp theo thứ tự chữ cái. Chữ Hán có tác dụng tạo hình trong tên người, trong quá trình đặt tên của người Hán, ngoài ra chữ âm và chữ nghĩa, chữ hình cũng là yếu tố phải suy xét. Trong khi đó tên người Việt thì lại chú trọng hơn nhiều về âm và nghĩa. Thứ hai, luận văn xuất phát từ góc độ tâm lý xã hội, trình bày rõ tâm lý trong xã hội nói chung và tâm lý người đặt tên nói riêng. Và nói cho cùng, có ba tâm lý xã hội đã có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của tên người Hán cũng như tên người Việt, là: tâm lý cầu mỹ, tâm lý theo số đông, tâm lý chống đỡ. Thứ ba, luận văn từ mặt ý nghĩa văn hóa – xã hội trình bày về đặc điểm của tên người Hán và tên người Việt. Vì văn hóa truyền thống Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Trung Quốc, nguyên tắc đặt tên giữa người Hán và người Việt vì thế không có khác biệt lớn, đều chú trọng đến âm và nghĩa. Mỗi tên đặt ra đều phải hay về âm và nghĩa. Về mặt ý nghĩa văn hóa – xã hội, tên người Hán và tên người Việt lại có một đặc điểm giống nhau: thể hiện lịch sử chính trị, đồng thời biểu tỏ ra ý muốn tốt đẹp của người đặt tên. Ngoài các yếu tố nêu trên, vẫn còn một số yếu tố cũng ảnh hưởng đến việc đặt tên của người Hàn và người Việt. Đầu tiên là giới tính, trong tên người Hán khu biệt tên nam hay tên nữ chủ yếu thông qua tên cá nhân, tên nam thường được người ta chọn các chữ khí thế hào hùng và có phát âm vang vọng, và tên nữ người ta lại thích sử dụng những chữ dịu dàng, thanh nhã; Trong tên người Việt, tiêu chí khu biệt tên nam và tên nữ chủ yếu qua tên đệm và tên cá nhân, đặc biệt là tên đệm. Tên đệm ―Văn‖ (trong tên nam) và ―Thị‖ (trong tên nữ) đã đóng vai trò cực quan trọng trong việc khu biệt tên nam và tên nữ người Việt Nam và đã đến nay vẫn còn thực hành chức năng này. Cùng với sự tiến bộ của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(106)</span> 98. xã hội hiện nay, tên đệm ―Văn‖ và ―Thị‖ đã dần dần được một số tên đệm khác thay thế, nhưng chức năng chủ yếu của tên đệm người Việt vẫn là khu biệt giới tính. Bên cạnh tên đệm, tên cá nhân người Việt cũng nhữ trong tên người Hán cũng có chức năng khu biệt giới tính và chủ yếu cũng là tên nam chọn các chữ có khí thế và tên nữ lại sử dụng các chữ dịu dàng. Tóm lại, trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ có thể dừng lại ở việc khảo sát và miêu tả những đặc trưng chủ yếu về mặt cấu trúc và mặt xã hội của tên thật người Hán và người Việt hiện nay. Tuy vậy ngay trên bình diện cấu trúc và xã hội thì đối tượng nghiên cứu cũng chưa toàn diện mà cũng chỉ tập trung vào một số khu vực dễ điều tra, thống kê. Chúng tôi cũng ý thức rằng đây là một đề tài hấp dẫn cần tìm hiểu thêm về mặt tri thức. Chúng tôi hy vọng sẽ được tiếp tục thực hiện đề tài ở những công trình cao hơn.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(107)</span> 99. TÀI LIỆU THAM KHẢO I - Tiếng Việt: 1. Nguyễn Tài cẩn, Từ Loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại. NXB KHXH Hà Nội, 1975 2. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB GD,H, 1981 3. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan, Cơ Sở tiếng Việt, NXB GD,1998 4. Nguyễn Thiện Giáp, Cơ sở ngôn ngữ học, NXB KHXH, Hà Nội,1998 5. Nguyễn Thiện Giáp, Từ Vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1998 6. Lê Trung Hoa, Cách đặt tên chính của người Việt – Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc phía nam. NXB KHXH Hà Nội, 1992 7. Lê Trung Hoa, Họ tên người Việt Nam. NXB KHXH, Hà Nội, 1992 8. Vũ Thị Kim Hoa, Những đặc trưng Xã hội – Ngôn ngữ học của tên riêng chỉ người trong tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, (bảo vệ tại Trường đại học khoa học xã hội và Nhân văn , Đại học Quốc gia Hà Nội ) 9. Nguyễn Văn Khang, Bình diện xã hội ngôn ngữ của vấn đề họ trong tiếng Hán, T/c Ngôn ngữ & Đời sống, S. 10, 2002 10.Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội – Những vấn đề cơ bản. NXB KHXH, Hà Nội, 1999 11.Nguyễn Việt Khoa, Khảo sát đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của tên người Anh,Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học (bảo vệ tại Trường đại học khoa học xã hội và Nhân văn , Đại học Quốc gia Hà Nội ) 12. Bùi Xuân Mỹ, Bùi Thiết, Phạm Minh Thảo, Từ điển lễ tục Việt Nam, NXB văn hóa thông tin, H, 1996 13.Hứa Ngân, Đổi mới cách đặt tên (Nguyễn Đanh Đạt dịch), NXB Hải Phòng , 2003 14.Hoàng Phê, Vấn đề cải tiến và chuẩn hóa chính tả, T/c Ngôn ngữ, S.3-4, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. 1979. .
<span class='text_page_counter'>(108)</span> 100. 15.Vị Nghĩa Thư Sinh, Lại bàn về tên người và cách gọi tên, T/c Ngôn ngữ & Đời sống, S.9, 2002 16.Nguyễn Kim Thản, Vài nét về tên người Việt, T/c Dân tộc học, NXB KHXH, S.4, 1975 17. Phạm Tất Thắng, Các kiểu cấu trúc tên chính của người Việt, T/c Ngôn ngữ, S. 11, 2003 18.Phạm Tất Thắng, Mối quan hệ giữa tên riêng và tên chung, trong ―Những vấn đề ngôn ngữ học‖, NXB KHXH, H, 2004 19.Phạm Tất Thắng, Một cách phân loại tên riêng trong tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ , S.5, 2003 20.Phạm Tất Thắng, Sự khác biệt giữ tên chung và tên riêng, T/c Ngôn ngữ & Đời sống, S.6,2004 21.Phạm Tất Thắng, Tên người Việt và cách sử dụng chúng trong giao tiếp gia đình, trong ―Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình gia đình người Việt‖, NXB Văn hóa thông tin,1996 22.Trần Ngọc Thêm, Về lịch sử hiện đại và tương lai của tên riêng người Việt, T/c Dân tộc học, S. 3, 1976 23.Trương Thìn, Đặt tên theo phong tục Dân gian, NXB Hà Nội, 2009 24.Nguyễn Văn Tu, Từ vựng học tiếng Việt hiện đại. NXB GD Hà Nội, 1968 25.Hoàng Tuệ, Nghĩa trong tên riêng của người, t/c Ngôn ngữ và đời sống xã hội – văn hóa. NXB GD, H, 1996 26.Nguyễn Minh Thuyết, Chung quanh cái tên người, T/c Ngôn ngũ & Đời sống, S.1, 1995 27.Nguyễn Như Ý (chủ biên), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB GD, 2002, 28. Dự thảo quy tắc viết hoa, T/c Ngôn ngữ, S.1, 1972. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(109)</span> 101. II - Tiếng Hán 1. 常敬宇,《汉语词汇与文化》,北京大学出版社,北京,1995 2. 陈玉龙,杨通方,《汉文化论纲》 ,北京大学出版社,北京 1993 3. 郭锦桴,《汉语与中国传统文化》 ,中国人名大学出版社,北京,1993 4. 胡晓梅,许之所,《论中国人名的文化内涵》 ,理论月刊 2006 年第 11 期 5. 黄涛, 《语言民俗与中国文化》,人民出版社,北京,2002 6. 吉常宏,《中国人的名字别号》,商务印书馆,北京,1997 7. 纪秀生,《汉语人名学论纲》,时代文艺出版社,2007 8. 李幼蒸,《理论符号学导论》,中国人名大学出版社,2007 9. 林明华,<漫话越南人的姓氏字号>,《东南亚纵横》 , 1990 年第 04 期 10.柳金殿,孟建安,《人名与社会文化》,汉语学习 1994 年第 01 期 11.马鸣春《人名修辞学》,陕西人民教育出版社,西安,1990 12.纳日碧力戈, 《姓名论》,北京社会科学文献出版社,1997 13.王爱静,《人名与社会》,中国海洋大学出版社,2009 14.王德春,孙汝建,姚远《社会心理语言学》,中国人民大学出版社,1995 15.王建华,《文化的镜像 — 人名》,吉林教育出版社,1990 16.王麦巧,<人名用字与不规范字>, 《语言文学研究》 ,2009 年 9 月下旬刊 17.王泉根,《华夏姓名面面观》,广西人名出版社,1988 18.夏天琼,《当代汉语人名的社会文化意义》,林区教学,2009 第 10 期 19.萧遥天,《中国人名的研究》,国际文化出版公司,1987 20.杨扬, 《汉语人名文化放谈》,新华出版社,2004 21.袁义达,张诚,《中国姓氏:群体遗传和人口分布》,华东师范大学出 版社,2002 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(110)</span> 102. 22.张公瑾,《语言与民族物质文化史》,民族出版社,北京,2002 23.张联芳主编, 《中国人的姓名》,中国社会科学出版社,1992 24.郑宝倩,《华夏人名与中国文化》,中国人民大学出版社,1993 25.《姓氏人名用字分析统计》,中国社会科学院语言文字应用研究所汉字 整理研究室主编,北京语文出版社,1991 26.中国社会科学院语言研究所词典编辑室,《现代汉语词典》,增补本, 商务印书馆,北京. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(111)</span> 103. PHỤ LỤC 新编百家姓 单姓 赵钱孙李. 周吴正王. 冯陈楮卫. 蒋沈韩杨. 朱秦尤许. 何吕施张. 孔曹严华. 金魏陶姜. 戚谢邹喻. 柏水窦章. 云苏潘葛. 奚范彭郎. 鲁韦昌马. 苗凤花方. 俞任袁柳. 酆鲍史唐. 费廉岑薛. 雷贺倪汤. 滕殷罗毕. 郝邬安常. 乐于时傅. 皮卞齐康. 伍余元卜. 顾孟平黄. 和穆萧尹. 姚邵湛汪. 祁毛禹狄. 米贝明臧. 计伏成戴. 谈宋茅庞. 熊纪舒屈. 项祝董粱. 杜阮蓝闵. 席季麻强. 贾路娄危. 江童颜郭. 梅盛林刁. 钟徐邱骆. 高夏蔡田. 樊胡凌霍. 虞万支柯. 咎管卢莫. 经房裘缪. 干解应宗. 丁宣贲邓. 郁单杭洪. 包诸左石. 崔吉钮龚. 程嵇邢滑. 裴陆荣翁. 荀羊於惠. 甄麴家封. 芮羿储靳. 汲邴糜松. 井段富巫. 乌焦巴弓. 牧隗山谷. 车侯宓蓬. 全郗班仰. 秋仲伊宫. 宁仇栾暴. 甘钭厉戎. 祖武符刘. 景詹束龙. 叶幸司韶. 郜黎蓟薄. 印宿白怀. 蒲台从鄂. 索咸籍赖. 卓蔺屠蒙. 池乔阴郁. 胥能苍双. 闻莘党翟. 谭贡劳逄. 姬申扶堵. 冉宰郦雍. 卻璩桑桂. 濮牛寿通. 边扈燕冀. 郏浦尚农. 温别庄晏. 柴瞿阎充. 慕连茹习. 宦艾鱼容. 向古易慎. 戈廖庚终. 暨居衡步. 都耿满弘. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(112)</span> 104. 国文寇. 广禄阙东. 殴殳沃利. 蔚越夔隆. 师巩厍聂. 晁勾敖融. 冷訾辛阚. 那简饶空. 曾毋沙乜. 养鞠须丰. 巢关蒯相. 查后荆红. 游竺权逯. 盖益桓公. 钞漕必丙. 宝奔超寒. 卑臣道斗. 阿哀冻天. 羲娥迟辅. 触钏棣覃. 健减复化. 贰月浩泉. 胶节具画. 礼露懋千. 梦奂仵矫. 造俱颇鲜. 怕岐求染. 女绕独盘. 仆其然涉. 赛守嵩黔. 赦斯僧桃. 宛特舜轩. 会客坦蹇. 奥保拜先. 门才买里. 畅昶承源. 布朝力蒉. 旷栗老兰. 崇丑初揣. 春侴慈官. 椿从次爨. 萃寸达端. 大刀但德. 典代啖瞻. 到撖弟顿. 朵邸恩延. 轷蛾假镜. 皦耏稽涓. 滹牢佼浪. 斛垒麋阡. 激科郍取. 钧莱妙铨. 讴末屈倪. 勤勉赡镡. 叱霭豠犊. 僦夸摎邗. 斡袭雪衅. 绣医庆昙. 欣盱谒厓. 征栈昭榬. 祈为佚偃. 壹萭御蜎. 中州恤夷. 辕渫未拳. 挚瑕肆鬻. 缩薳泄原. 思本怡性. 长抱诗弦. 姑舅躬命. 素书渐联. 牒导当桀. 贶踏豪尖. 虎驷驹厩. 嚣貊系骈. 隰无母就. 船速履贤. 院苟蛇昋. 直类意三. 奈圭约偰. 兹访糟毡. 誾孑俭沛. 赤北算颠. 射虽俟柞. 息阁梵蛮. 培落褒帷. 筮枉川滇. 亚育鄚藕. 羽量运乾. 挟靡救漏. 洼沂蛟瞒. 癿纵栩隐. 脱翔骨淹. 掬咎肃篡. 恪哲恭谦. 异猷莒胙. 耀移者歂. 霞吾伤纞. 隶澧彬銮. 佛壤喇怪. 便急察迁. 轲臾辩用. 盎统铎添. 绿泽销小. 淇棓幕卷. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(113)</span> 105. 适禺牞歹. 疾蚁韰堪. 混答爵举. 虖蓐洩汜. 稻籴徭想. 捷夫册纶. 巷榆斜草. 结纸象铅. 聿俳郰止. 迷纂断钳. 殿僚颐考. 眉苦目骞. 禼优足允. 厨椒悼凡. 历谣與辇. 骑晃蒂藩. 雁凫鸡鸟. 栖穴耨烟. 绛羁驰准. 浊绞说奄. 莉葭荻蓼. 输翠茂丹. 裂磨迭姐. 讹斩鉴研. 兑凋邿本. 期巧赐虔. 荔淮缴组. 塞辽宕渊. 烈蛸概免. 辱齿错鍼. 诺奴枭省. 伋糗栋偏. 六潞贸冕. 竂忂泡炎. 貌实蛊学. 浮斐稚男. 觟貂粆毗. 闽仍旦耽. 蔑差蚩领. 该淑厝郸. 秣驴界旺. 葵企深潭. 颂义鄜皖. 希梧遂恬. 宥盂晰罔. 夹耷住闲. 岁畦绥绮. 勺茄味顽. 近听觉既. 盍出少澹. 钜舌倭锦. 久汴阜缠. 啬杀忌览. 七侨硕穿. 禁技蹄把. 魁矍竞铉. 绎繇樗鄝. 菑葰痛苫. 释阖鲑与. 饥旻降緜. 略几职皓. 耘伐绍篯. 备刕婤筑. 遏蚳犴鄢. 弁轱劦湫. 骀涪鄐阏. 述竭耆敏. 忠忧丽篇. 侍雏儿俾. 荠隋藏圆. 汛霊闾亮. 依济彦玄. 底甫定望. 付杲艮冮. 鹿绥练理. 檀提铁苌. 伉题苇问. 枞徒尸光. 锡洗彤燮. 完务缐芒. 称跋癸偶. 肥尘灌邦. 旗旅蹉谋. 纽若牵枪. 被稠府皋. 攻莞亶襄. 五庹蒲皎. 彪秘静彰. 度豆冠所. 辜革固皇. 贯邽环赫. 厚火狐羌. 槐户果炔. 坚集加祥. 呼昊还过. 嘉甲妫扬. 介救回见. 教箕敬棠. 接京恽检. 剧酒菊香. 隽凯巨爰. 开靖琚仓. 庐律眭泰. 将台甪襄. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(114)</span> 106. 聊立临留. 离列楼忙. 奉服淦改. 多亓苻芳. 葆圆可钓. 敦操闭良. 彻参尔瓦. 交并孛丧. 食夕谁阪. 调澄璧墙. 誉栎璞橄. 渝趣斥坊. 淳旃暌逞. 辰邗背鞅. 镐鹤勃比. 哥似豹鲂. 撤邯悉己. 缓萌碧茫. 跪飞供产. 壁表辟偿. 陖鸣荥耳. 屏峰邲阆. 货秩踪柄. 淝笙告旁. 陌荼设映. 虚贱臼姜. 奋发互追. 昼夜晓寅. 波荡狂动. 飘振宇森. 永进共处. 笃宠逊亲. 兖野陇郢. 地县秀麟. 亳茶汉霸. 鬲带友尊. 荚榖植柘. 蒿蔓一盆. 佳叔堂第. 庙语非今. 雕杯编禢. 霜刹枯针. 泥尼悲克. 奇绚采粉. 基冈剡溪. 社器圣斌. 召疆姓众. 八艺建军. 盐钢狼畜. 丝碗铸银. 风皞曰润. 鸦鄡殁熏. 镂洞休热. 庖匄对斟. 牙业铫营. 乙涌洛伦. 翼莽幽冒. 尉奕清新. 药宜由密. 麋木散浑. 睦南铙茆. 邺亦勇妘. 袮弥纳迺. 沐念赢郇. 侬泮邳朴. 太塔舄谌. 乘兴篓釐. 繁杞普仁. 浇傍敝帛. 抄来垣人. 不函忖炅. 河玉敷伸. 棘腹更琮. 毫稷谏缗. 邺附妾整. 畏候亘轮. 掖攸遁使. 围汶夐郴. 侧縻邕坎. 媒叙号频. 眷宪遗父. 翳颓仕歆. 彘僰甥攘. 岸颢放昐. 液膳侠始. 室悝著箴. 勿闰共廪. 酃郚样闉. 副威湖颍. 桐庭质訚. 受委桓甬. 据引鼓葴. 敕谓唯署. 猗黥粲音. 汛除鄯掩. 钩厥寺薪. 亍猫锐梗. 熙湿重芸. 负霄忍羑. 沁作逸甡. 细屋嬉舞. 丕虙戊斤. 摄条僮九. 秃朔兀身. 匠扉豗臫. 茌爽倍纯. 血泊郊蜀. 颉根制君. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(115)</span> 107. 刜亭蹶衍. 欱弧戒均. 裕郱曷枕. 弗什术昆. 鹊爬禾冉. 枝及训旬. 邑娵孺卤. 纫婋丐遵. 遆帖凉土. 毋位秉寻. 雒羡孝信. 奭修续真. 旋专肖微. 论顼幺吞. 旭尧弋冶. 轧要褟神. 昂头砚赞. 市畴祋贞. 劭岛鄘锁. 曼赣淡循. 犀柱婴朗. 忽督絮豳. 竖鄈忼赧. 郥菟侩姺. 鄮狸涳轸. 悍郪示邠. 鄀酅伾茧. 予梼犨妘. 鄠鄁歈湣. 杌卬渌阍. 邶豚畿鄤. 冘尞泫寻. 仉主镇志. 喜雅园庚. 渔舟驺俎. 仙颖因逢. 毓恒星潜. 曲韵招朋. 绳侏顺治. 世疏献横. 丘乞渠税. 耍悦粟呈. 庸佑子智. 竹枣树生. 占展祭正. 紫战种宏. 早也钊知. 倚我伟鸿. 衣昔豫嫪. 英芦令冬. 俸弭郐啜. 奎虑库仝. 格贵憨合. 黑郈壶腾. 砦邝蕲校. 圈翦拱赓. 谬角励呙. 观裔仪刑. 伞佀显酉. 撒首士灵. 伶骊耙耦. 谅宽裨瓶. 庶每厘侵. 氏儒胜零. 圃佗投沓. 玊率蘧瀛. 遇苑资兆. 郅午犹雄. 邾禚政载. 迮麦析闳. 私漆罕尾. 戏玺摇衷. 衙妟纡殖. 之梓烛冲. 继欲曋恺. 拾口谕声. 郫按匏亥. 寋补轨郕. 鄙鄞浴懿. 懿胤鄾冥. 极获迈闬. 戌鬼诣功. 抗虢番藉. 上勒戢蕯. 部姞瓮拓. 维折冼訇. 郓笮僖炭. 执掌睢行. 腰柔如是. 邮绪刚卿. 禽嗣犁挐. 奢审璛升. 菅字监扁. 揭茨名陵. 郯博磊西. 序蕃指亨. 百员同防. 苴脂城廷. 沮卯喀兼. 凭诚霏冰. 涅即它粘. 棸浞盈虫. 工精争登. 视夙掜傰. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(116)</span> 108. 自专玲矣. 枚镏猛邛. 谔樠聃敛. 鬷骓爰缯. 复姓 万俟 司马. 上官 欧阳. 夏侯 诸葛. 闻人 东方. 赫连 皇甫. 尉迟 公羊. 澹台 公冶. 宗政 濮阳. 淳于 单于. 太叔 申屠. 公孙 仲孙. 轩辕 令狐. 钟离 宇文. 长孙 慕容. 鲜于 闾丘. 司徒 司空. 亓官 司寇. 仉督 子车. 颛孙 端木. 巫马 公西. 漆雕 乐正. 壤驷 公良. 拓跋 夹谷. 宰父 榖梁. 晋楚 阎法. 汝鄢 涂钦. 段干 百里. 东郭 南门. 呼延 归海. 羊舌 微生. 岳帅 缑亢. 况后 有琴. 梁丘 左丘. 东门 西门. 商牟 佘佴. 伯赏 南宫. 墨哈 谯笪. 年爱 阳佟. 第五 言福. 毌丘 哥舒. 公伯 辛垣. 信都 公晰. 公仲 公坚. 同蹄 秃发. 伊秩 子言. 於陵 於丘. 延陵 屈南. 公师 公仪. 公玉 叔先. 沮渠 巨毋. 可频 公山. 公绪 公冉. 公夏 公肩. 纥干 斛律. 耶律 若干. 姑布 罕父. 主父 徒单. 公明 公綦. 太士 东关. 瑕丘 瑶里. 辟闾 新垣. 大戊 仆散. 术虎 兀颜. 公孟 太公. 叱列 叱干. 尔朱 独孤. 大野 完颜. 帅灵 仲长. 长鱼 瓜田. 公沙 公梼. 老成 是云. 贺娄 贺若. 高堂 公宾. 侍其 屠岸. 屠门 大心. 渠丘 公乘. 王子 逢门. 仆固 野诗. 士孙 奥屯. 子服 桐里. 赤盏 赤张. 九方 西方. 中英 中央. 谷浑 都尉. 夏父 夏阳. 戏阳 堂溪. 南荣 庚桑. 抹撚 公上. 公叔 璞阳. 第二 第八. 叔仲 东乡. 子驷 乌氏. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(117)</span> 109. 由吾 东阳. 成公 步叔. 不第 赤将. 宣于 夙沙. 伯德 伯常. 曼丘 浮丘. 邯郸 毌将. 纳合 北宫. 合博 北唐. 公族 公祖. 太史 觟阳. 库狄 申徒. 白马 豢龙. 鲜卑 诸御. 东野 东宫. 工尹 浮屠. 綦毋 句龙. 蒲察 义渠. 闭珊 浩生. 公户 钳耳. 宾牟 扰龙. 灵姑 斡勒. 术甲 伯成. 子家 子桑. 右师 乞伏. 即墨 墨胎. 达奚 答禄. 子我 吾丘. 浩星 屈突. 左人 哀骀. 叱奴 女叔. 荔非 商丘. 斛斯 斛粟. 类犴 莫折. 南伯 申叔. 胡母 奥敦. 独吉 马服. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .
<span class='text_page_counter'>(118)</span>