Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.42 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Di tích hịn Trống mái Chuyện kể rằng, ở vùng Sầm Thơn, có chàng trai tên Ngư Phủ, khỏe mạnh lại siêng năng. Vào một
buổi chiều, khi thuyền đã cập bến, trời bỗng nổi cơn giông dữ dội, giữa khơng trung, một cánh cị trắng sức cùng lực kiệt
lao xuống vũng Tiên. Thấy vậy, chàng Ngư Phủ mang cị về chăm sóc, từ đó, cị ở lại cùng chàng.
Như mọi ngày, chàng Ngư Phủ ra biển quăng chài, cị ở nhà một mình trong lịng rất vui sướng bởi hơm nay, là hết hạn
đội lốt cị và được trở về tiên giới. Cò trở thành một người con gái nhan sắc tuyệt trần, nhưng nàng không trở lại thiên
đình làm tiên nữ, mà nguyện ở lại trần gian.
Ngư Phủ trở về, ngạc nhiên khi thấy nhà cửa gọn gàng, cơm canh đã ở trên mâm, mà vắng bóng cị như mọi khi. Chàng
buồn rầu, bỗng từ trong liếp nàng bước ra e lệ cúi chào, cuộc thiên duyên giữa chàng Ngư Phủ và một tiên nữ đã trở thành
hiện thực. Chốn thiên đình, hết hạn phải làm kiếp cò, mà vẫn chưa thấy con gái trở về, hay tin nàng kết hơn với người hạ
giới, Ngọc Hồng nổi trận lơi đình sai người xuống trừng phạt.
Chàng Ngư Phủ hết lời khuyên nhủ nàng trở về trời, nhưng nàng một mực ở lại cùng chàng. Nàng dùng phép, biến vợ
chồng thành đôi chim, khi sứ giả bước vào định bắt, thì đơi chim non kia biến thành đá đứng trơ trơ.
Phiến đá đó, người dân gọi là hịn Trống Mái, là biểu tượng của tình thủy chung, là khát khao hạnh phúc, được sống trong
tình yêu, mà người xưa đã khéo léo gửi gắm vào đất trời nơi đây.
Sự Tích Tháp Bút Kim Nhan
Anh học trị nghèo, ngày ngày lên rừng đốn củi bán lấy tiền ăn học và nuôi cha mẹ, đêm đêm đốt củi học bài. Người anh
gầy gị, ốm yếu. Cha mẹ nhìn anh, thương hại, khuyên "học tài thi phận. Con học vừa phải để giữ gìn sức khỏe", Nhưng
anh khơng nghe. Đêm nào cũng vậy, anh gối đầu lên một khúc gỗ xù xì để cho đầu đau, khơng thể ngủ qn được. Sắp
đến kỳ thi mà anh chưa sắm sanh được gì. Lều chưa có. Chõng chưa có. Bút chưa có. Nghiên chưa có. Sức anh lại gầy
cịm... Anh ngồi khóc. Bỗng dưng rừng nổi gió. Lá đổ ào ào. Anh ngẩng đầu nhìn ra xung quanh, thấy hàng trăm con thú
rừng: hổ, nai, hươu, khỉ, trăn, cóc... Anh hoảng sợ. Nhưng chú hổ hiểu ý anh, liền nói: "Chúng tơi đến đây không phải để
ăn anh, mà để giúp anh sắm những thứ cần thiết cho kỳ thi sắp tới". Mặt mũi anh rạng rỡ. Bầy thú hối hả: con thì đi sắm
địn gánh, con thì làm chõng, con thì làm lều... Xong xi mọi thứ, chỉ cịn thiếu nghiên mực và cái bút. Bầy thú nhìn
nhau lo lắng. Bỗng chú cóc hăm hở thưa: "Tơi nghĩ ra rồi. Tơi là cậu ơng trời. Tơi sẽ lên gặp Ngọc Hồng. Nếu Ngọc
Hồng lơi thơi, tơi sẽ đánh cắp bút lơng và nghiên mực của Ngọc Hoàng". Cả đám thú vui sướng, cười ha ha... Mấy hơm
Đến ngày lên đường vào kinh, anh học trò vui vẻ cảm ơn đàn thú đã giúp mình sắm sanh đầy đủ. Nhưng đến lúc đặt gánh
lên vai, anh khơng đi nổi, vì bụng đói, sức yếu. Anh lại ngồi khóc. Bầy thú lại đến giúp: nấu cho anh ăn một bữa no nê, rồi
gánh dùm các thứ cho anh. Hổ mang chõng, nai mang lều, hươu mang ghế, cóc mang nghiên và bút. Trăn thì bị theo để
khi gặp sơng suối sẽ vắt mình làm cầu...
Đàn thú đang đi tưng bừng như một ngày hội, thì trên trời, Ngọc Hồng biết mất bút và mực do cóc đánh cắp, bèn sai
Thiên Lơi đánh. Trời đang yên lành, bỗng nổi ầm ầm giông tố, sấm sét. Cóc bị đánh trúng một quả tầm sét, nghiên vỡ
tung tóe và tạo thành những cái hồ xung quanh, bút văng ra một nơi và mọc thành ngọn núi Kim Nhan.
Tháp bút Kim Nhan mỗi ngày một mọc cao. Người ta cho đó là điềm lành mà Ngọc Hoàng đã ban phát cho vùng đất này
nẩy sinh ra những nho học.
Vùng đất xứ Nghệ cũng như nhiều vùng đất khác ở nước ta, tuy nghèo nhưng chuộng sự học hành. Điều đó, nhiều nhà
nghiên cứu đã đề cập. Còn một chi tiết mà chưa hề thấy ai khai thác. Từ tháp bút Kim Nhan tỏa ra xung quanh, có nhiều
địa danh mang đậm màu sắc học vấn: Cát Văn, Bút Điền, Bút Trận, Văn Tập, Nho Lâm... Mỗi tên gọi gắn liền với một
huyền thoại bộc lộ lịng tơn kính của nhân dân đối với nền văn hiến của nước nhà, của xứ sở mình
Tháp Bút ở Hồ Gươm là một ngọn tháp bằng đá cao năm tầng, được xây dựng năm Tự Đức thứ 18 (1865) trên nền núi
Độc Tôncũ theo ý tưởng của nhà nho Nguyễn Văn Siêu, nằm ở phía ngồi lối vào cầu Thê Húc,đền Ngọc Sơn.
Tháp dựng trên ngọn núi do đá xếp, đường kính 12m, cao 4m. Tháp vng có năm tầng, cao 28m. Đỉnh là một ngịi bút
lơng dựng ngược. Cả cán và ngòi bút cao 0,9m. Trên thân ba tầng giữa có khắc theo chiều dọc ba chữ Tả Thanh Thiên
mang nghĩa "Viết lên trời xanh"...
Cụm kiến trúc Tháp Bút biểu dương văn chương, nhưng đồng thời cũng để biểu dương võ công của chúa Trịnh trong việc
dẹp cuộc khởi nghĩa của quận Hẻo Nguyễn Danh Phương. Tháp Bút dựng trên một cái gò chất đầy đá hộc, gò này tượng
trưng cho 1 ngọn núi, tên là Độc Tơn. Trong bài Bút Tháp chí do Nguyễn Văn Siêu soạn năm 1865 được khắc ngay trên
thân tháp: "Trên đỉnh núi Độc Tơn có Tháp Bút năm tầng. Tháp nhờ núi mà cao thêm, núi nhờ tháp mà truyền mãi.
Ở đầu cầu Thê Húc là Đài Nghiên, nghiên được đặt trên tòa cửa đầu tiên dẫn vào đền, là một nghiên mực bằng đá xanh
đẽo tạc theo hình nửa quả đào, cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm. Bề dài quả đào 0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu
vi 2m, có ba con thiềm thừ (con cóc) đội nghiên như ba cái chân kiềng. Đặc biệt trên thân của nghiên có khắc một bài
minh mà tác giả lại cũng là Nguyễn Văn Siêu. Chỉ có 64 chữ (Hán) nhưng ý tứ rất hàm súc, tạm dịch: "Xưa lấy hốc đất
làm nghiên, chú giải Đạo Đức kinh, nghiền ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu. Từ đá tách ra làm nghiên,
chẳng có hình dáng. Khơng vng khơng trịn, dùng vào mọi việc thật kỳ diệu. Không cao không thấp, ngôi ở chính giữa.
Cúi soi hồ Hồn Kiếm, ngửa trơng ngọn Bút đá. ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi. Ngậm ngun khí mà mài hư
khơng".
Hiện đã có bài hát về Tháp bút, đó là bài Nghiên Bút Non Sơng do Đình Dương sáng tác.
Sách Quảng Ngãi nhất thống chí do ơng Lê Ngãi (đỗ đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân năm Tân Sửu 1901) biên soạn,
phần về các ngọn núi ở huyện Chương Nghĩa (nay là thành phố Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa) có đoạn: “Núi Thiên Bút
ở phía đơng bắc, cách huyện trị chừng 4 dặm [...] Phía tây mạn núi ấy có Đàn Sơn Xuyên, là cái nền để tế cáo thần núi,
thần sơng. Mười cảnh đẹp của tỉnh Quảng Ngãi có một cảnh là Bút trời phê vào mây tức là trái núi nầy”.
Chỉ cao hơn 60 mét so với mặt nước biển, nhưng Thiên Bút có hình dáng cân đối, đỉnh núi thoai thoải vươn lên trời cao,
từ cánh đồng Ngọc Áng ở phía đơng nhìn lên, tựa như ngịi bút của đấng vơ biên. Có những hồng hơn kỳ thú, sườn núi
chầm chậm khuất dần trong sương chiều, mây lam vấn vương trên đỉnh núi, ánh hồi quang từ phía trời tây bịn rịn dấu
ngày. Cảnh tượng đất trời phóng khống, sơn thủy liên tình gợi lên hình ảnh bút trời phê vào mây gió. Bởi vậy cổ nhân
mới đặt cho mỹ tự Thiên Bút phê vân (Bút trời vẽ mây).
Từ đỉnh núi trông ra bốn hướng mới thấy vị trí đắc địa của Thiên Bút trong tổng thể cảnh quan vùng hạ du sông Trà Khúc
và sông Vệ. Phía bắc là dịng nước Trà Giang quanh co uốn lượn, núi Sứa, núi Long Đầu, núi Thiên Ấn, núi Đầu Voi, núi
Các bậc cao niên trong vùng kể rằng trên đỉnh núi trước đây còn lờ mờ dấu vết một phế tháp của người Chăm. Câu trả lời
vẫn còn đợi từ các nhà khảo cổ, song đây là một gợi ý đáng được lưu tâm. Người Chăm thường chọn những ngọn đồi
thoáng đãng, nổi lên giữa một vùng bình địa để xây linh tháp.
Các phế tích tháp Chăm trên đất Quảng Ngãi như Gị Phố, Khánh Vân (Sơn Tịnh), Hành Thịnh (Nghĩa Hành), An Tập
(Tư Nghĩa)... đều được thiết dựng theo mơ hình nầy. Núi Thiên Bút nổi lên giữa một vùng ruộng đồng thống đãng gợi
bóng dáng đỉnh mênu huyền thoại, quả là nơi lý tưởng để xây ngọn tháp thờ thần Xiva, vị thần chủ trong tín ngưỡng của
dân Chăm.
Bên phía sườn nam Thiên Bút là một quả đồi thấp, tựa hình nghiên mực nên được gọi hòn Nghiên. Ngày trước quan
Thượng thư trí sỹ Nguyễn Hữu Chun có xây lên đó một ngôi chùa, đặt tên Quy Sơn tự, ý rằng nơi đây là chốn để con
người tìm về với bản thể chân nguyên, hòa đồng cùng thiên nhiên trời đất. Quy Sơn tự đã bị hư hại và mất hết dấu tích từ
lâu. Ngơi chùa hiện nay, nằm dưới chân núi phía tây bắc là Thiên Bút tự, thuộc hệ phái Phật giáo Cổ Sơn mơn.
Cũng về phía tây, đường Thiên lý chạy gần chân núi, nơi đây ngày xưa có một qn nhỏ bên đường, tên gọi qn Đàng.
Cơ gái quê nào đó đã mượn núi Bút, quán Đàng tỏ tấc lịng với người mình thương rồi để lại câu ca dao đong đầy duyên
nợ:
<i>Ngó lên núi Bút, quán Đàng Núi bao nhiêu đá dạ thương chàng bấy nhiêu.</i>Các nhà nho ngày trước quan niệm Thiên Bút
là biểu tượng trưng cho học phong, văn mạch của vùng đất Quảng Ngãi. Đền Văn Thánh (Văn miếu Quảng Ngãi), dẫu
nằm tận bên bờ bắc sông Trà Khúc vẫn chọn núi Thiên Bút làm tiền án.
Thiên Bút còn là ngọn núi gắn với nhiều truyền thuyết, giai thoại. Câu chuyện cảm động Cây quế thần và người phu xe
nghèo nhắc đến cây quế bí ẩn đâu đó trên đỉnh Thiên Bút. Người dân quanh vùng kể rằng nhiều đêm thanh vắng, hốt
nhiên mùi hương quế thoang thoảng lan ra giữa thinh không, nhưng khi ai nấy ra cơng đi tìm thì chẳng thấy đâu hình cây,
bóng lá. Có người phu xe nghèo khó sống dưới chân núi được thần linh ban cho chiếc lá quế vàng đem về làm thuốc, chữa
Chuyện ma Tây lại liên quan đến một người Pháp. Số là, vào tháng chạp năm 1894, dân Quảng Ngãi nổi lên phá đồn
thương chánh Cổ Lũy, giết chết viên quan thu thuế Regnard. Xác ơng Tây thực dân xấu số sau đó được chơn dưới chân
núi Bút. Ít lâu sau, người dân quanh vùng kháo nhau về một con “ma Tây” những đêm khoảnh vắng thường bất ngờ hiện
ra hù dọa phàm nhân.
Có người học trị, q ở một huyện phía bắc tỉnh thành, trên đường vào Bình Định dự kỳ thi Hương, dừng chân bên quán
Đàng uống bát nước chè xanh, vơ tình nghe đầu đi câu chuyện. Chờ khi khách vãn, anh ta nhờ cô chủ quán mua giúp
nậm rượu với mấy nén hương rồi mang ra mộ Regnard làm một lễ tế đơn sơ.
Dân gian còn truyền tụng, cứ mỗi dịp “bút trời vẽ mây” là một lần hóa cơng giáng điềm thiên khải, nhân thế rồi sẽ có
chuyện cát tường. Lời qua cửa miệng chẳng ai làm chứng để rõ thực hư, nhưng lại khiến trí tưởng tượng phong phú của
tao nhân mặc khách tha hồ mà dệt những vần thơ quyến rũ lòng người.
Kể cũng lạ, nằm giữa phố phường mà đỉnh Thiên Bút lại hoang vu, heo hút, gai góc phủ đầy những lối mòn. Đàn Sơn
Xuyên, Quy Sơn tự, tháp Chăm chẳng thấy đâu dấu vết. Cây mít nài cổ thụ đứng một mình trơ vơ với mây trời, gió núi
chẳng biết đã có lần nào hội ngộ với bóng quế thần mầu nhiệm đầu non?
* Núi Vọng Phu : ở Đồng Đăng và nhiều nơi khác trên đất nước ta .
* Hòn Trống Mái : ở ven biển Sầm Sơn (Thanh Hoá) và nhiều nơi khác ở nước ta
* 99 con voi ...đât Tổ Hùng Vương : Theo truyền thuyết, những đồi núi nằm bao quanh ngọn núi Hi Cương - nơi có đền
thờ các Vua Hùng - chính là đàn voi 99 con quây quần chầu phục đất Tổ (ở Phú Thọ)
* Những con rồng ...dịng sơng xanh thẳm : là truyền thuyết về sông Cửu Long với 9 cửa sông đổ ra biển trên 2 nhánh
sông Tiền và sông Hậu
* Núi Bút non Nghiên : Là núi có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi
* Con cóc, con gà...: Là tên của một trong vơ số hịn núi nổi lên trên mặt biển có hình con coc, con gà,... ở Vịnh Hạ Long
* Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm : Là tên những người có cơng với dân, với nước đãn thành những sơn danh, địa
danh ở Nam bộ :
- Bà Đen : Tên ngọn núi Bà Đen ở Tây Ninh
- Bà Điểm : Tên một đia danh ở Hóc Mơn - thành phố HCM
- Song song với quá trình hình thành của ĐN và sự sinh sôi nãy nở của các địa danh là 1 cái tên đầy nghĩa. Và đằng sau
mỗi cái tên sơng tên rừng tên đất đó là 1 cuộc đời, 1 kỳ tích, 1 huyền thoại. 1 mãnh đất chưa có tên là 1 mãnh đất hoang
chưa có lịch sử chưa có sự sống của con người, vì vậy địa danh lan tới đâu thì đất đai đc mở rộng đến đó, và lần theo
những địa danh NKD đã dựng lại diện mạo cho cả ĐN
- Nhà thơ khắc họa những địa danh tiêu biểu của ĐN ta suốt từ Băc chí Nam, từ đất tổ Vọng phu, ao hồ SS, thắng cảnh
HLong. Miền Trung với hòn T Mái ở Sầm Sơn, T Hóa, và Núi bút Nghiêng ở Quảng Ngãi. Miền Nam với dịng cửu Long
xanh.
- Đó là bức tranh ĐN tươi đẹp, gợi lên cho ta 1 tình cảm thiêng liêng, vừa đằm thắm, gần gủi, yêu thương và .. tự hào. Và
trong tâm tư mỗi người khung cảnh khơng chỉ là tình cảm đối với diện mạo mn thưở của nó,do tạo hóa sinh thành mà
nó cịn gắn với linh hồn của ĐN là bóng dáng của bao thế hệ đã đi qua góp phần máu xương, mồ hơi nươc mắt làm nên
giang sơn gấm vóc.
- Nếu như ở đâu đó lịng chung thủy là sự hiếm hoi thì ở VN lịng chung thủy là phẩm chất là sự hiển nhiên tát yếu, không
người VN nào lại không biết câu chuyện cảm động của HVP. HVP ấy khơng chỉ có riêng ở địa đầu đất Lạng mà còn ở
khắp 3 miền Bắc, T,Nam. Trong 2 cuộc kháng chiến, chúng ta đã có hàng ngàn HVP như thế trong cuộc đời, những người
vợ chờ chồng không chỉ 5 năm 10 năm mà đã từng có người chờ chồng cho đến khi nhắm mắt... đó là 1 hình tượng tuyệt
vời về lòng chung thủy của người VN
- "Cặp vợ chồng...Trống Mái" kô chỉ thể hiện cái ngộ nghĩnh đáng u của thiên nhiên kì thú mà cịn thể hiện nguyện ước
- Thiên nhiên cũng góp phần làm nên đất nước. Theo dòng thời gian đưa ta về với cội nguồn để cảm nhận sâu sắt hơn hình
dạng của đất nước, đất tổ HV là do 99 con voi góp mình tạo dựng, nhưng thiên nhiên cũng góp sức với con người để tạo
nên 1 đất nước muôn đời
- "Những con Rồng ... thăm thẵm" gợi lên 1 quá trình dài dằng dặt của nhân dân ta trong cuộc khẩn hoang để chinh phục
thiên nhiên. Bắt thiên nhiên phục vụ con người để mở rông địa bàn cư trú và đây cũng là sự hòa hợp giưa thiên nhiên và
con người
- "Gót ngựa.... để lại" Người anh hùng không chỉ tạo ra đất nc mà con để lại cho đất nc thắng cảnh, ngay từ thưở khai
thiên lập địa công cuộc dựng c phải gắn liền với giử nc, kẻ thù ln dịm ngó, biết bao con người đã mang sinh mạng của
mình để bảo vệ non sơng và khơng ai khác đó chính là nhân dân. Và như vậy những ao đầm của SS đã gắn với sự tích dấu
chân của người anh hùng làng Gióng.
- "Người học trị...: ngợi ca truyền thống hiếu học của nhân dân VN, cần cù chịu khó vượt lên mọi hồn cảnh, dùng lá để
viết, dùng đom dóm để học và trong cái thời đại mà vật giá leo thang như vậy thì các cao trào dùng sách củ để học đã lan
rông trong nhân dân, vậy mà làm nên tiến sỉ, ông nghè, ông tổng
-Những convaatj nhỏ bé: cả những con vật bình thường nhất, xấu xí nhất cũng "vượt lên chính mình" để làm nên vẻ đẹp
cho đất nc
- Ơng đốc, ơng Trang, bà Đen, bà Điểm đã trở thành tên núi tên sông chứ không phải là những ơmng trạng, ơng nghè, như
vậy t/g đã nhìn rỏ vai trị của nhân dân trong cơng cuộc làm nên đất nc. Nói đúng hơn chính nhân dân đã ý thức đươc điều
đó cho nên họ đặt tên sơng tên núi bằng tên những con người tiêu biểu cho phẫm chất và những chiến công của họ
SỰ TÍCH BÀ ÐEN:
Có hai truyền thuyết về sự tích Bà Ðen:
- Bà Đen là nàng Đênh , người Cao Miên
" Tương truyền rằng, khi xưa, thuở còn là phần đất của Cao Miên, tại vùng rừng núi Tây Ninh có một viên quan trấn thủ
người Miên sinh hạ được hai con: một trai tuấn tú và một gái hiền thục, tục gọi là nàng Ðênh.
Lúc nàng Ðênh 13 tuổi, có ơng sư người Tàu tên là Trung Văn Danh từ Bến Cát (Thủ Dầu Một) đến vùng núi Tây Ninh
tìm chùa làm nơi hoằng dương Phật pháp. Khi đến nhà quan trấn, sư ông thăm hỏi việc truyền bá đạo Phật trong vùng và
dò la kiếm nơi cất chùa hành đạo. Quan trấn thủ mời nhà sư tạm nghỉ nơi nhà mình để ơng thừa dịp học đạo.
Sư ơng vui vẻ nhận lời và từ đó bắt đầu truyền bá Phật pháp trong gia đình quan trấn và cơ vệ đội.
Tuy tuổi trẻ nhưng sớm nhuộm màu thiền, nàng Ðênh miệt mài nghe sư ông giảng đạo. Quan trấn cũng mộ đạo nên thiết
lập cho sư ơng một cảnh chùa, nay cịn di tích là chùa Ơng Tàu, nằm về phía Ðơng chân núi, phía làng Phước Hội đi lên.
Thời gian thấm thốt trơi qua, nghĩ lại đã mấy năm xa cách thiện nam tín nữ Bến Cát, sư ông bèn tạm biệt quan trấn để trở
về thăm cảnh cũ người xưa.
Từ ngày sư ơng vắng mặt, nàng Ðênh vẫn một lịng sùng kính Phật đạo, ln ln lo việc hương khói trong chùa.
Vốn con nhà trâm anh, lại tuổi tới tuần cập kê, nên nhan sắc nàng Ðênh càng thêm xinh lịch, tiếng đồn khắp nơi. Quan
trấn địa phương vùng Trảng Bàng có dinh đặt tại Sơng Ðua thuộc làng Lộc Hưng (nay cịn di tích), mới cậy mai mối hỏi
cưới nàng Ðênh cho con trai trưởng của ông. Thân sinh nàng Ðênh vui vẻ tán thành. Nhưng khi nói lại cho nàng Ðênh biết
thì nàng rất bối rối, chưa biết trả lời ra sao, nàng xin cha mẹ đình đãi để kịp suy nghĩ. Qua nhiều đêm trằn trọc, vì nàng
Ðênh đã phát nguyện xuất gia tu hành, không thể lấy chồng, nàng quyết tâm lánh mặt. Một đêm, khi cha mẹ ngủ yên,
nàng Ðênh lén ra đi tìm nơi thuận tiện để tiếp tục tu hành. Mọi việc vỡ lở ra, quan trấn cho lính đi tìm nàng Ðênh khắp
nơi, kẻ băng rừng, người lên núi, mãi đến trưa, quân lính tìm thấy trong kẹt đá một khúc chân của nàng Ðênh, có lẽ nàng
bị thú dữ bắt ăn thịt cịn sót lại một khúc chân, vội báo về cho quan trấn rõ.
Sau khi khóc than thương tiếc, quan trấn cho mai táng khúc chân nàng Ðênh trên núi và rước thầy tụng kinh giải oan cho
nàng. Dân địa phương cho rằng, nàng Ðênh chết oan như thế ắt rất linh hiển, nên từ đó, khi gặp việc gì khó khăn thì khấn
Việc nàng Ðênh hiển linh đồn xa, nhân dân rất sùng kính nên gọi nàng là Bà Ðênh để tỏ ý tơn kính.
Thời gian trơi qua... Bao nhiêu năm sau, lúc ấy Chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi theo rất gấp, từ Gia Ðịnh,
Nguyễn Ánh theo đường sứ đi Tây Ninh định trốn qua Miên.
Lúc Nguyễn Ánh chạy đến Trảng Mang Chà vùng bùng binh hiện nay thì quân Tây Sơn cũng đuổi theo gần tới, nhân dân
cho biết trên núi có Bà rất linh, ai cầu gì được nấy. Nguyễn Ánh liền sai quan Quản Cơ Lê văn Duyệt phi ngựa lên núi cầu
Bà mách giùm cách thoát nạn và cho biết tương lai.
Trong đêm, Nguyễn Ánh được Bà hiện ra trong giấc chiêm bao cho biết cứ theo đường sứ đến Tây Ninh, vịng qua núi,
lên Võ mơn Tam cấp, rồi qua Xiêm cầu viện, nghiệp cả sẽ nên, còn việc ngăn đón quân Tây Sơn để Bà lo liệu giúp cho.
Sau khi Nguyễn Ánh dẹp được nhà Tây Sơn, lên ngôi vua xưng là Gia Long, Ngài nhớ ơn cũ, cho đúc tượng Bà bằng
đồng đen để thờ và sắc phong cho Bà là Linh Sơn Thánh Mẫu." (Viết theo sách Nếp Cũ Hội Hè Ðình Ðám của Toan
Ánh)
Dân chúng truyền nhau sự tích của Bà Ðênh, và vì kiêng úy nên gọi trại ra là Bà Ðen.
<b>2.- Bà Ðen là Lý Thị Thiên Hương </b>
Tại Trảng Bàng, có cơ gái tên Lý thị Thiên Hương, con của ông Lý Thiên và Bà Ðặng Ngọc Phụng, người gốc ở Bình
Ðịnh vào Trảng Bàng lập nghiệp. Tuy Thiên Hương khơng đẹp nhưng rất có dun và có tài năng khiến nhiều người để ý.
Trong làng có chàng trai Lê Sĩ Triệt, mồ côi cha mẹ, được nhà sư Trí Tân ni dưỡng từ nhỏ, nên có được văn hay võ
giỏi.
Lúc đó, con trai của Hà Ðảnh, quan Huyện Trảng Bàng, rất bạo ngược, dùng quyền thế, tiền bạc mua chuộc Thiên Hương
đem về làm thiếp nhưng khơng được, nên sai một thuộc hạ thân tín tên Châu Thiện cầm đầu nhóm người Miên dùng võ
lực quyết bắt nàng Thiên Hương đem về cho kỳ được.
Thiên Hương bị đám côn đồ vây bắt. Giữa lúc nguy khốn thì chàng Lê Sĩ Triệt xơng ra đánh đuổi, cứu được nàng. Nàng
- Một lời đã hứa cùng nhau, thiếp nguyện thủ tiết chờ chàng trở về. Xin chàng an tâm lên đường nghĩa vụ.
Chàng ra đi, nàng ở nhà vị võ trơng chờ ngày đồn tụ.
- Ðệ tử là Thiên Hương 18 tuổi, chẳng may bị bọn gia nô của quan Huyện Trảng Bàng vây bắt nên phải nhào xuống khe
núi tử tiết. Nhờ căn tu kiếp trước nên linh hồn được siêu thốt, dù đã 3 ngày nhưng xác vẫn cịn ngun, xin sư phụ xuống
triền núi đông nam đem thi hài của đệ tử hỏa táng giùm.
Hòa Thượng làm theo lời mách bảo, tìm gặp xác của Thiên Hương, làm lễ hỏa táng chu đáo. Bọn Châu Thiện đến xem
hỏa táng bị nàng Thiên Hương báo oán, khiến cho hộc máu chết liền tại chỗ.
Sau một thời gian khá lâu, Chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi, chạy lạc đến Tây Ninh, nàng Thiên Hương đến
báo mộng, mách bảo Nguyễn Ánh phải qua Xiêm tá binh, sau nầy sẽ khôi phục cơ đồ, thống nhứt giang sơn.
Sự linh hiển của nàng Thiên Hương được đồn vang, dân chúng các nơi lên núi Tây Ninh cầu cúng rất đông. Lúc bấy giờ
Thượng Quốc Công Lê Văn Duyệt ở Gia Ðịnh đi lên núi Tây Ninh xem xét hư thực thế nào, đến nơi nói với người khuất
mặt:
- Hồn trinh nữ Thiên Hương quả có hiển linh, hãy xuất hiện cho bổn chức xem thử.
Xảy thấy một cô gái chạy đến ứng tiếng:
- Tôi là Thiên Hương đây, xin chào Thượng quan.
Thì ra Lý Thị Thiên Hương nhập vào xác của một cô gái đến nói chuyện với quan Thượng Cơng. Cơ nói tiếp:
- Tôi xin mách trước cho Thượng quan biết, Thượng quan sau nầy sẽ được phong Thần vinh hiển, nhưng xác của Thượng
Cơng bị hành hạ, mả bị xiềng xích, tên tuổi bị đục khoét, sau mới được minh oan.
Ngài Thượng Cơng Lê văn Duyệt nói:
- Bổn chức khơng cầu xin biết tương lai của mình mà muốn biết rõ căn do của nàng.
Hồn Thiên Hương qua miệng cô gái thuật rõ mọi việc:
- Thượng Ðế chứng lịng đoan chính của thiếp, nên cho thiếp hết đọa luân hồi và được xuống trần cứu nhơn độ thế. Ngài
Thượng Cơng khơng cịn nghi ngờ gì nữa, liền dâng sớ về triều tâu rõ mọi việc.
Vua Gia Long nhớ lại chuyện bôn tẩu năm xưa, khi đến Tây Ninh, có nàng Thiên Hương hiển linh báo mộng, nên ra sắc
chỉ phong Lý Thị Thiên Hương là Linh Sơn Thánh Mẫu, chủ trì Linh Sơn Tiên Thạch Ðộng, cho cất điện và đúc tượng
bằng đồng đen để thờ nơi núi Tây Ninh.
Kể từ đó, núi Tây Ninh được gọi là núi Linh Sơn, và để tránh gọi tên Thiên Hương, dân chúng gọi là Bà Ðen, vì tượng của
Bà màu đen, và gọi núi ấy là núi Bà Ðen.
Lễ Vía Linh Sơn Thánh Mẫu được tổ chức hằng năm tại Ðiện Bà vào dịp đầu Xuân, từ ngày mùng 10 đến 15 tháng Giêng
âm lịch, có hằng trăm ngàn người đến cúng vái cầu xin sự phò hộ của Bà để việc kinh doanh và việc gia đình được may
mắn tốt đẹp.
Truyền thuyết Bà Đen
Đề ra: Cảm nhận đoạn thơ sau trong đoạn trích "Đất Nước" - Nguyễn KHoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta.”
HƯỚNG DẪN
I. MỞ BÀI (giới thiệu vấn đề)
II. THÂN BÀI
1. KHái quát tác giả, tác phẩm:
2. Cảm nhận nội dung
a. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân đã
“góp” cuộc đời mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa thân thành những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh,
thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm
Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”
- Trước hết, ta có thể thấy, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê (liệt kê những địa danh), sử dụng động từ “góp” để diễn
tả hình ảnh của nhân dân hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho Đất Nước. Các danh thắng ấy được
nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân.
+ Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu thủy chung
bền vững. Hòn Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tơ Thị bồng con chờ chồng hóa đá. Hịn Trống
Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp
thủy chung, nghĩa tình đã bất tử.
+ Đó cịn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm ” hình móng chân ngựa mọc đầy quanh chân núi
Sóc Sơn (Hà Nội). Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền
thờ vua Hùng ngự trị. Đó là “con cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng
ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông.
+ Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non Nghiên” do cậu học trị
nghèo dựng nên. Đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã góp cho đất nước bao tên tuổi.
+ Ở miền Nam, danh thắng là con sơng Cửu Long hiền hịa, tươi đẹp: “Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh
thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Đó là “Ơng Đốc, Ông
Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
b. Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước. Nhân Dân chính là
người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dịng sơng, khắp mọi miền đất nước này:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi! Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
- Hai câu đầu là khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong khơng gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gị bãi”. Bóng
hình ấy của nhân dân khơng chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”.
Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà cịn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán,
là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
- Hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ: “Những cuộc đời đã hóa núi sơng
ta”. “Núi sơng ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên. Nhân Dân khơng chỉ góp tuổi, góp tên
mà cịn góp cả cuộc đời và số phận mình. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân
thuộc.
3. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài, biến
hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức gợi cảm và khái quát cao. Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ
Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng liêng. Động từ “góp” được nhắc lại nhiều lần. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất
nước.