LỜI MỞ ĐẦU
Với tư cách là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,
quy luật phủ định của phủ định ln là nền tảng lí luận, kim chỉ nam cho hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Việc thiết kế, xây dựng được một
xã hội mới về chất trên nền tảng vốn có của xã hội cũ, về thực chất, đó là quá trình
vận dụng và thực hiện quan điểm phủ định biện chứng trong thực tế.
Phủ định biện chứng là quá trình phủ định bao hàm trong nó những nhân tố
tích cực của cái bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng mang tính kế thừa những
yếu tố tích cực và gạt bỏ những yếu tố không phù hợp với sự phát triển của cái
mới. Song, khi vận dụng quan điểm phủ định của phủ định vào đời sống thực tiễn
để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng đã có những quan điểm xem xét sự vật và
hiện tượng một cách cứng nhắc, siêu hình hoặc là xóa bỏ tất cả hoặc là kế thừa
một cách nguyên si. Trong lĩnh vực văn hóa ở nước ta trước đổi mới đã có những
quan điểm chỉ đạo và cách làm chưa đúng. Và hệ quả là nhiều di sản văn hóa của
dân tộc bị xâm hại và phá hỏng, nền văn hóa đân tộc bị tổn thất lớn.
Hiện nay, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải xây
dựng một nền văn hóa mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại, phù hợp với thực
tiễn của đất nước. Ngày nay trước xu thế tồn cầu hóa, hợp tác hóa trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội giúp cho chúng ta có cơ hội để tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc mình. Hơn nữa,
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
thì vấn đề giữ gìn nền văn hóa mang đậm tính dân tộc ngày càng trở nên đặc biệt
quan trọng. Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của kinh tế thị trường đã và
đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người nói
riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng
trong hệ thống giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ
bị mai một và tha hóa. Đồng thời, ở nước ta vẫn tồn tại những tàn dư của xã hội cũ
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
1
để lại, đó là những hủ tục lạc hậu, bảo thủ, mê tín dị đoan,... Chính vì vậy, việc
xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở quán triệt
quy luật phủ định của phủ định của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Trong các Văn kiện, Nghị quyết
của các kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng ta đã nhận thức rõ điều này và đã đưa ra
quan điểm chỉ đạo cho việc xây dựng nền văn hóa mới: Coi văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là động lực, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong
Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã
khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Và điều này còn được tiếp tục khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX:
“Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”.
Với lí do trên tơi chọn đề tài: “Quy luật phủ định của phủ định với việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” cho Tiểu luận hết
mơn của mình.
I. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH.
1. Một số khái niệm cơ bản.
Trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường được thể hiện
bằng từ “khơng”; phủ định có nghĩa là nói “khơng”, là bác bỏ một cái gì đó. Trong
triết học có hai quan điểm: Quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng về sự
phủ định. Quan điểm siêu hình cho rằng phủ định là sự can thiệp của những lực
lượng bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó.
Quan điểm biện chứng cho rằng, phủ định là một khâu tất yếu của bất kì sự
phát triển nào. Đó là sự thay thế sự vật này bằng một sự vật khác trên cơ sở mất đi
của cái cũ, xuất hiện cái mới tiến bộ hơn và có sự kế thừa những yếu tố phù hợp
của cái cũ, là quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ
định. Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
2
dẫn tới ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định (là kết quả của quá
trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật ấy quyết định).
Tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm của Phủ định như sau: Phủ định
với nghĩa chung nhất là sự không thừa nhận, sự loại bỏ hay sự thay thế sự vật, hiện
tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác. Phủ định nào tạo ra điều kiện, tiền đề cho
sự xuất hiện của cái mới, cho sự phát triển tiếp theo gọi là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là sự phủ định bắt nguồn từ bên trong dự vật, là vòng
khâu của mối liên hệ, là vòng khâu của sự phát triển. Phủ định biện chứng có hai
đặc trưng cơ bản: Mang tính khách quan và mang tính kế thừa, phát triển.
2. Quy luật phủ định của phủ định.
Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của phép
biện hứng duy vật. Quy luật này khái qt khuynh hướng phát triển tiến lên theo
hình thức xốy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong q trình phát triển. Đó là cơ sở
phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp
suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng địi hỏi phải tơn trọng
tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán. Chống kế thừa
nguyên si máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Quy luật
phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản
thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là quá trình đấu tranh và chuyển hóa giữa
các mặt đối lập trong bản thân sự vật, giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ
định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ chuyển
thành cái đối lập của mình. Lần phủ định tiếp theo dẫn tới sự ra đời một sự vật
mới mang nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian. Như vậy về hình thức, sẽ trở
lại cái xuất phát, song thực chất, không phải giống nguyên như cũ, mà dường như
lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát
triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
3
như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn, do vậy sự phát triển có tính chất
tiến lên khơng phải theo đường thẳng mà theo đường xốy ốc.
Phủ định biến chứng có hai đặc tính chất cơ bản sau đây: Thứ nhất, nó mang
tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển; Thứ hai, nó mang tính kế thừa, là
nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. Phủ định biện chứng là quá trình mang tính
khách quan do mâu thẫn trong bản thân sự vật quy định. Hơn nữa phủ định của sự
vật cũng không tùy thuộc vào ý muốn con người. Mỗi sự vật có phương thức phủ
định riêng, do đó mà có sự phát triển. Phủ định biện chứng không phải là sự thủ
tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái
mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nhân
tố tích của cái bị phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính
chất kế thừa. Với ý nghĩa như vậy phủ định đồng thời cũng là khẳng định. diễn đạt
tư tưởng đó, V.I.Lênin viết “Khơng phải sự phủ định sạch trơn, không phải phủ
định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự,
cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện
chứng... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vịng khâu của sự
phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. Giá trị của sự kế thừa biện chứng được
quy định bởi vai trị của nó trong sự ra đời cái mới. Khơng có cái mới nào ra đời
từ hư vơ, nhờ giữ lại nhân tố tích cực của cái bị phủ định mà cái mới có tiền đề
cho sự phát triển của mình.
Tóm lại: Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra rằng chu kỳ của sự phát
triển phải trải qua ít nhất hai lần phủ định: Từ nó chuyển sang mặt đối lập với nó
(cái phủ định phủ định cái khẳng định), sau đó trở về nó trên cao hơn (cái khẳng
định phủ định cái phủ định).
Như vậy, đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là phủ định có khẳng
định cứ khơng phải là phủ định sạch trơn và không bao hàm bất kỳ một sự khẳng
định nào như phủ định trong phép siêu hình. Đây là sự khác biệt căn bản của phủ
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
4
định trong phép biện chứng và phủ định trong phép siêu hình. Vì thế, phủ định
biện chứng là phủ định mang tính khoa học, định hướng cho mọi hoạt động thực
tiễn của con người.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của sự vận dụng quy luật phủ định của
phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần
lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ thay thế cái
lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những cái gì tích cực của cái cũ.
Và phủ định của phủ định là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát
triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ. Trong công tác, chúng ta cần
phải biết phát hiện ra và quý trong cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển
của cái mới, mặc dù lúc đầu nó cịn ít ỏi, yếu ớt, phải ra sức bồi dưỡng, phát huy
cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ. Và trong quá trình đấu tranh với
cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, biết giữ lấy những cái gì là tích cực, là có giá
trị của cái cũ cho phù hợp với điều kiện mới, phải chống thái độ “hư vơ chủ
nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá quá khứ. Phủ định của phủ định được
thực hiện thơng qua giải quyết mâu thuẫn. Vì nguyên nhân của phủ định của phủ
định là do những mâu thuẫn nội tại của sự vật, hiện tượng quy định. Sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập bên trong sự vật sẽ đưa đến sự chuyển hóa lẫn nhau, cái mới
ra đời thay thế cái cũ. Q trình đó diễn ra thường xuyên ngoài ý muốn của con
người và đó cũng là yếu tố tất yếu của sự phát triển. Phủ định biện chứng là sự
phủ định mang tính khách quan. Đó là sự tự phủ định của sự vật và hiện tượng
không phải do chủ quan của con người, cũng không phải do Thượng đế hay Chúa
điều khiển. Trong thực tế, sự phát triển có cả bước tiến lẫn bước thụt lùi, cả tiến bộ
lẫn thối hóa, sự phát triển đôi khi không phải là một đường thẳng tắp mà đơi khi
có bước quanh co, thụt lùi tạm thời.
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
5
Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, là sự phủ định có tính chất kế thừa,
nó khơng làm cho sự vật cũ bị diệt vong hay biến mất hồn tồn. Nó là sự phủ
định có giữ lại, có bảo tồn. Cái cũ và cái mới không tuyệt đối tách rời, đối lập
nhau mà có sự gắn liền giai đoạn sau với giai đoạn trước, bằng cách bảo tồn những
mặt tích cực của giai đoạn trước, cải biến và chuyển hóa nó trong giai đoạn sau.
Điều đó địi hỏi chúng ta khi vận dụng quan điểm biện chứng mác- xít về phủ định
biện chứng trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
phải biết phát hiện cái mới , cái hợp quy luật, nhưng đồng thời cũng phải thấy
được những cái “mới” khơng phải được áp đặt từ đâu đó vào mà nó là kết quả của
phủ định biện chứng. Đồng thời phải chống lại những thái độ phủ định sạch trơn,
hoặc kế thừa một cách nguyên si, cản trở tới sự phát triển văn hóa của đất nước
cũng như của từng dân tộc. Vấn đề là ở chỗ phải biết kế thừa có phê phán,có chọn
lọc những cái vốn là tinh hoa văn hóa nhân loại, sử dụng chúng như là tiền đề nảy
sinh cái mới, tiến bộ hơn trong sự vận động tiến lên của văn hóa dân tộc.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA
VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC.
1. Khái niệm văn hóa.
Cho đến nay đã thống kê được hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Song, các nhà văn hóa đều có chung nhận định đó là: Văn hóa bao gồm có văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần.
Từ “Văn hóa” bắt nguồn từ tiếng La tinh ở phương Tây, “Cultura” ban
đầu có nghĩa là canh tác và gieo trồng thực vật. Sau này, trong quá trình sử dụng
ngơn ngữ này mang thêm một nghĩa mới đó là: Sự mở mang kiến thức, bồi dưỡng
về thể chất và tinh thần đối với con người, là sự vun xới về mặt tinh thần hay
“trồng trọt tinh thần”. Sang thế kỷ XVII – XVIII, việc sử dụng thuật ngữ “Văn
hóa” với nghĩa là canh tác tinh thần bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nơng
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
6
nghiệp. Đến thế kỷ XIX, thuật ngữ “Văn hóa” được các nhà nhân học phương Tây
sử dụng như một danh từ chính.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: “Văn hóa được biểu hiện như
tồn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt
động thực tiễn lịch sử xã hội và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử xã hội”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa mang tính
chất hệ thống: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu của đời sống và đòi hỏi sinh tồn”. Trong định
nghĩa này, chủ tịch Hồ Chí Minh xác định văn hóa là sự phát triển tất yếu, mang
tính xã hội cao, là phương thức sống, hoạt động và không ngừng nâng cao theo đà phát
triển của xã hội. Sáng tạo ra giá trị nhân văn là nội dung cốt lõi của giá trị văn hóa.
Theo tổ chức văn hóa, giáo dục và khoa học Liên hợp quốc (UNESCO)
định nghĩa Văn hóa được hiểu như sau: “Văn hóa được đặc trưng bởi diện mạo về
tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm... Khắc họa nên bản sắc của một quốc gia,
cộng đồng, gia đình, làng xóm, xã hội... Văn hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật,
văn chương, mà cả những lối sống, những quyền cơ bản, những hệ thống giá trị,
những truyền thống tín ngưỡng”. Như vậy, trong định nghĩa này chúng ta thấy có
các di sản văn hóa “vơ hình” như phong tục, tập quán, truyền thống, ngôn ngữ, các
nghi lễ dân gian.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều các nhà văn hóa nghiên cứu về văn hóa. Theo
PGS. TS Trần Ngọc Thêm thì: Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Cịn theo
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
7
GS Đào Duy Anh: Văn hóa tức là sinh hoạt cho nên văn hóa của các dân tộc cũng
khơng giống nhau, vì cách sinh hoạt của mỗi dân tộc là khác nhau do điều kiện tự
nhiên, tính chất địa lý, kinh tế xã hội quy định mà có nền văn hóa riêng của dân
tộc…
Như vậy, chúng ta thấy rằng “ Văn hóa” là một khái niệm mở, là một phạm
trù hết sức rộng lớn, phong phú và đa dạng, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau
về văn hóa, song những định nghĩa đó khơng nhằm bài trừ lẫn nhau mà đồng thời
bổ sung cho nhau làm cho khái niệm văn hóa ngày càng trở nên đầy đủ và hồn
thiện hơn. Từ những định nghĩa khác nhau về văn hóa và từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nổi lên những đặc trưng cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, văn hóa là phản ánh những giá trị nhân văn. Văn hóa được hình
thành và phát triển trong mối quan hệ cải tạo với tự nhiên và đấu tranh xây dựng
xã hội. Do đó bản chất của văn hóa là phản ánh các giá trị nhân văn là xử lý mối
quan hệ giữa con người với con người, đề cao giá trị của con người. Thứ hai, văn
hóa mang tính dân tộc. Văn hố mang bản chất nhân văn nhưng lại mang bản sắc
riêng của từng dân tộc và dấu ấn riêng của từng giai cấp. Thứ ba, văn hóa cịn
được thể hiện trong sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc giữa các quốc gia. Thứ
tư, văn hóa là một hiện tượng mang tính lịch sử. Trải qua mỗi thời kì lịch sử sẽ có
một nền văn hóa tương ứng với mỗi thời kì lịch sử đó.
2. Tầm quan trọng của xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Trong suốt chặng đường lãnh đạo nhân dân,tiến hành thắng lợi các cuộc
kháng chiến chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta ln quan tâm tồn diện, nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị và sức
mạnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Ý thức rõ về sức
mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của đế quốc
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
8
xâm lược, “Đề cương văn hóa Việt Nam” tháng 2 năm 1943 - Cương lĩnh văn hoá
đầu tiên của Đảng đã ra đời, làm nền tảng lý luận cho sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa kháng chiến, kiến quốc những năm tiếp theo, xác định: Văn hóa là một trong
ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa vì vậy, phải hồn thành cách mạng văn hóa
mới hồn thành được công cuộc cải tạo xã hội và “Đảng tiên phong phải lãnh đạo
văn hóa tiên phong”; đồng thời Đảng ta cũng xác định nền văn hóa Việt Nam có
ba tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Tính chất “khoa học” cũng chính là nói
tới tính tiên tiến của văn hóa. Đề cương văn hóa Việt Nam là sự khẳng định tư
tưởng của Hồ Chí Minh: Văn hố “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần động
viên, tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hố cứu quốc, tạo sức
mạnh to lớn làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thắng lợi và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược, sức mạnh nội sinh
của văn hóa được phát huy mạnh mẽ, trở thành niềm cổ vũ to lớn chiến sĩ và nhân
dân ta. Trên nền tảng văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời đại, những tác
phẩm thơ, văn, ca, múa, nhạc, họa được sáng tác, phục vụ kịp thời, tiếp thêm sức
mạnh cho dân tộc, thôi thúc phong trào thi đua mạnh mẽ giữa tiền tuyến và hậu
phương, góp phần giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước. Thời kỳ
hịa bình, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV của Đảng đã tiếp tục
khẳng định: Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó tập trung “Xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa” với những giá trị đạo
đức, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống cao đẹp.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện về kinh tế,
chính trị, xã hội, đối ngoại, quốc phịng, an ninh, Đảng đã chủ trương đổi mới tư
duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 05 về văn hóa-văn nghệ trong cơ chế thị trường và những chỉ thị quan
trọng về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học - nghệ thuật, công tác
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
9
quản lý văn học - nghệ thuật và một số nhiệm vụ văn hóa – văn nghệ. Đến Hội
nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) tháng 7 năm 1998, Đảng ra Nghị quyết chuyên đề
về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định vai trị
của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội” với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống
và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng,
từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước
ta đời sống tinh thần cao đẹp”. Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) khẳng định:
“Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh
thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều
kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước;
Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và
nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, bên cạnh những cơ hội thuận lợi,
Đảng ta đã ý thức về tính chất nguy hiểm trước vấn nạn của “luồng văn hóa độc
hại” xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác nhau, kịp thời ban hành Nghị
quyết 23 –NQ/TƯ: Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong
thời kỳ mới và Chỉ thị số 46-CT/TƯ của Ban Bí Thư Trung ương Đảng, định
hướng cho tồn Đảng, tồn dân và tồn qn quyết tâm giữ gìn, bảo vệ “bản sắc
văn hoá” trong thời kỳ hội nhập quốc tế; u cầu các Cấp ủy Đảng, Chính quyền,
Mặt trận, Đồn thể và đội ngũ đảng viên, cán bộ chung tay góp sức, kiên quyết
ngăn ngừa, phịng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh
hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội.
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
10
Tiếp thu và phát triển đường lối văn hóa của Đảng, Dự thảo Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung và phát
triển trong năm 2011 đã nêu lên định hướng về văn hóa đó là: Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Những năm qua, lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Tư tưởng, đạo đức và lối sống - lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, do những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế
thị trường và hội nhập quốc tế, lĩnh vực văn hóa cũng đã bộc lộ những hạn chế
nhất định, tác động khơng nhỏ đến văn hóa truyền thống của dân tộc. Sự phát triển
của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với
nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Tệ nạn xã hội,
bạo lực gia đình, bạo lực học đường, coi thường pháp luật,… những biểu hiện
“thương mại hóa", xu hướng vọng ngoại, lai căng, xa rời bản sắc, truyền thống văn
hóa dân tộc ở một bộ phận chưa được ngăn chặn một cách hữu hiệu. Những sáng
tạo văn học nghệ thuật mới có giá trị nghệ thuật cao chưa nhiều. Thực trạng đó là
những nguy cơ tiềm ẩn làm xói mịn văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, làm
cản trở bước đường đi tới hạnh phúc và phồn vinh của dân tộc ta. Chính vì vậy,
việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời
đại mới là vấn đề quan trọng có ý nghĩa hàng đầu.
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
11
3. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được đề
cập trong nhiều văn bản quan trọng, đặc biệt từ Nghị quyết Trung ương 5, khóa
VIII. Trong đó, tính tiên tiến và bản sắc dân tộc được hịa quyện, gắn bó hữu cơ
trong các yếu tố cấu thành của nền văn hóa, đảm bảo tính kế thừa và phát triển,
vừa giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời đảm bảo tính
mở, tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại. Đồng thời, nội hàm của tính tiên tiên
và bản sắc văn hóa cũng được xác định rõ, phù hợp với mục tiêu, đặc điểm, truyền
thống của đất nước trong quá trình đi lên CNXH. Theo đó, tiên tiến trong văn hóa
trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ, nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập
dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tất
cả vì con người, vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người,
trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội; tiên tiến
không chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể hiện, trong các
phương tiện chuyển tải nội dung; bản sắc văn hóa dân tộc, là các giá trị đặc trưng,
tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, bản chất riêng của nền văn hóa, là dấu hiệu
cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, đó cũng là tổng
hịa các khuynh hướng sáng tạo văn hóa, được hình thành trong mối liên hệ
thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, thể chế chính trị…trong
q trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Bản sắc văn hóa được thể hiện rõ
trong truyền thống dân tộc, là các giá trị văn hóa tiêu biểu được trao truyền lại từ
thế hệ này sang thế hệ khác, được khai thác và phát huy, tiếp tục bồi đắp, tạo nên
dịng chảy văn hóa của dân tộc từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Mục tiêu chung hướng đến của quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa
Việt Nam là phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, hướng tới chân-thiện“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
12
mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Đây là một quá
trình lâu dài, địi hỏi phải có bước đi phù hợp, thích ứng với điều kiện, trình độ
phát triển về kinh tế, xã hội, bối cảnh trong nước và quốc tế. Trong quá trình đó,
việc từng bước xây dựng nền văn hóa tiên tiến, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống có ý nghĩa hết sức quan trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước
(bổ sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh 2011 đã chỉ rõ, để xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đòi hỏi: “Kế thừa và phát
huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người”, Nghị quyết 33-NQ/TW,
khóa XI, đưa ra 5 quan điểm: (1) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục
tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng
với kinh tế, chính trị, xã hội. (2) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. (3) Phát triển văn hóa vì
sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách,
có lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. (4) Xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa, trong
đó chú trọng vai trị của gia đình, cộng đồng. phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn
hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. (5)
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định: “Trong mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hóa, con người. Mọi hoạt
động văn hóa, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hóa; phát triển văn học,
nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số,
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
13
văn hóa tơn giáo, xây dựng các thiết chế văn hóa,… đều phải phục vụ thiết thực sự
nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người”.
Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã bàn hành nhiều văn bản
pháp lý quan trọng về các lĩnh vực phát triển văn hóa. Đến nay, cả nước có trên
40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có 3.491 di tích cấp quốc gia, 105
di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và 12 di sản văn
hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được UNESCO công nhận. Đáng chú ý là có
145/288 di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số, được đưa vào danh
mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và
ngồi nước được tổ chức, trong đó có các lễ hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống
của các dân tộc thiểu số; hệ thống bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng
đổi mới về nội dung và hình thức trình bày, thực hiện tốt cơng tác giáo dục truyền
thống, nâng cao giá trị văn hóa, khoa học cho người dân, nhất là thế hệ trẻ; các
thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng và từng bước hiện đại, phát triển rộng
khắp từ trung ương tới cấp xã, bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000
thư viện các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân,
thư viện chuyên ngành. Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa khơng chỉ được mở rộng
ở một số quốc gia, ở trong nước cũng được phát triển đến các thơn, bản; vai trị
của gia đình, nhà trường và xã hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh
phúc, mơi trường văn hóa lành mạnh ln được quan tâm.
Đầu tư cho sự nghiệp văn hóa không chỉ được coi trọng từ nguồn ngân sách
nhà nước mà còn thu hút ngày càng lớn từ nguồn xã hội hóa; Đội ngũ cán bộ làm
cơng tác văn hóa khơng ngừng lớn mạnh, trong đó có cả văn hóa quần chúng,
nghệ nhân và văn hóa đỉnh cao; phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa được mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển biến tích cực
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
14
về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống thơng tin, báo
chí, xuất bản phát triển rộng khắp từ trung ương đến địa phương với tất cả các loại
hình báo chí, đáp ứng nhu cầu về thông tin trong nước và quốc tế cho người dân,
cùng với các lĩnh vực văn hóa khác, góp phần thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ
văn hóa giữa các vùng miền. Trong điều kiện công nghệ thông tin, internet, mạng
xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn giữ văn hóa truyền
thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa, các thơng tin sai trái, thù
địch. Ngồi ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các quyền liên quan, công nghiệp
văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm 2030, với 12 ngành chính; hội nhập
quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế song phương và đa phương,
thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng.
Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Chưa phát huy
hết vai trị, tiềm năng của văn hóa đóng góp vào sự phát triển của đất nước, ở một
số nơi chưa thực sự đặt văn hóa ngang bằng với kinh tế, xã hội; công tác tổ chức
thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển văn hóa ở một số lĩnh vực, địa phương
cịn hạn chế, cơ chế chính sách còn bất cập, đầu tư chưa tương xứng với yêu cầu
phát triển, một số thiết chế văn hóa chưa sử dụng có hiệu quả; việc thu hẹp khoảng
cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền, đặc biệt những nơi khó khăn cịn
chậm. Số lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật chưa
tương xứng với yêu cầu phát triển văn hóa, đồng thời vẫn cịn khơng ít tác phẩm
chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp…Thực tế trên có nhiều nguyên
nhân, cả chủ quan và khách quan, như : Tình hình trong nước và quốc tế có nhiều
thay đổi, một số lĩnh vực chưa lường hết được tác động của tàn dư văn hóa cũ, lạc
hậu, của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; nhận thức và việc cụ thể hóa
chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về văn hóa ở một số địa phương, lĩnh
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
15
vực chưa theo kịp yêu cầu phát triển; điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam cịn
khơng ít khó khăn, do đó đầu tư cho phát triển văn hóa còn hạn chế.
4. Một số giải pháp phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong thời gian tới.
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy
đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội và người dân về vị trí, vai trị của văn hóa
đối với sự phát triển đất nước; tuyên tuyền gương người tốt, việc tốt, xây dựng gia
đình văn hóa, mơi trường văn hóa xã hội lành mạnh; coi trọng giáo dục truyền
thống, tự hào, tự tơn dân tộc; phát triển văn hóa cũng là để xây dựng con người có
nhân cách và xây dựng con người cũng là để phát triển văn hóa bền vững, tiếp tục
cụ thể hóa đặc trưng văn hóa, đặc tính con người Việt Nam trong điều kiện mới,
hồn thiện hệ giá trị chuẩn mực văn hóa, con người; phát huy tốt vai trị của văn
hóa với tư cách là hệ điều tiết phát triển xã hội.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, coi
trọng xây dựng luật pháp, hồn thiện thể chế phát triển văn hóa phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; bổ sung, hồn thiện một
số cơ chế, chính sách mang tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật, nhất là đối với
đồng bào dân tộc thiểu số; một số quy định pháp luật về những vấn đề liên quan
đến quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với luật pháp quốc tế; xử lý hài
hòa mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Hồn chỉnh
hệ tiêu chí về văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, cụ thể hóa nội dung
văn hóa trong chính trị và kinh tế, coi trọng việc đánh giá các tác động của các
chính sách kinh tế đối với văn hóa và ngược lại xây dựng tiêu chí văn hóa cho cấp
ủy đảng các cấp. Tăng cường đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa.
Ba là, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận, nâng cao khả năng dự báo, định hướng phát triển văn hóa, con người. Tiếp
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
16
tục mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu
quả; khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài,
quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu tinh thần của người
dân và giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Huy động các nguồn lực xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn
hóa; coi trọng bảo tồn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các giá trị văn hóa
của dân tộc thiểu số. Có các chính sách mới, phù hợp nhằm thu hẹp khoảng cách
phát triển, hưởng thụ văn hóa ở các vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Phát triển các thiết chế văn hóa, đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng, phù hợp với
vùng miền, tập quán dân tộc. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, minh bạch, cơng
khai và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển văn hóa, đầu tư cho văn hóa
phải tương đương với tăng trưởng kinh tế. Phát triển cơng nghiệp văn hóa.
Bốn là, quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm văn hóa phù hợp với yêu cầu
mới, đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045. Nâng cao chất lượng cơng tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác văn hóa, đội ngũ trí thức, văn nghệ
sĩ, nhất là cán bộ đầu đàn, chuyên gia đầu ngành, doanh nhân trong lĩnh vực văn
hóa, nghệ nhân. Có chính sách phù hợp thu hút cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số
trong các lĩnh vực văn hóa ở cơ sở. Quy hoạch lại hệ thống các trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, trong đó vừa đảm bảo nhu cầu đào tạo các lĩnh vực văn hóa quần
chúng, vừa chú trọng đào tạo chuyên sâu. Xây dựng một số trường đại học nghiên
cứu về văn hóa mang tầm khu vực. Tiếp tục hồn thiện chính sách tơn vinh, đãi
ngộ, trọng dụng những người tài, đặc biệt là những lĩnh vực văn hóa đặc thù.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn
hóa, con người. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đề
cao vai trò nêu gương của người đứng đầu trong thực hiện các quy định về văn
hóa, đạo đức, lối sống. Đẩy mạnh và đưa vào chiều sâu việc học tập, làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi trọng hiệu quả, chất lượng; thực
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
17
hiện phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Cụ thể hóa nội dung
xây dựng văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị, hồn thiện các tiêu chí
đánh giá cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược về các nội dung
liên quan đến đạo đức, văn hóa.
Gắn kết ngay từ đầu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển văn
hóa. Triển khai thực hiện có lộ trình đặt ngang hàng văn hóa với chính trị, kinh tế,
xã hội về nhiệm vụ, đầu tư kinh phí, trách nhiệm chính trị của các cấp ủy đảng,
chính quyền, tổ chức xã hội và người dân; phát huy vai trò các phương tiện truyền
thống đại chúng trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong
giai đoạn mới
III. KẾT LUẬN.
Với những quan điểm hết sức cơ bản và khoa học, cũng như việc đã đề ra
hàng loạt các nguyên tắc nhằm giải quyết nội dụng về quá trình phủ định biện
chứng, quy luật phủ định của phủ định đã thực sự là một trong những quy luật có
tác dụng “khai mở” khuynh hướng phát triển mới cho văn hố Việt Nam. Nó góp
phần chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối phát triển văn hoá kể từ khi nó
được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ở một khía cạnh khác, với vai trị lãnh đạo văn hố, Đảng ta cũng đã chứng
tỏ được khả năng tuyệt vời của mình nhờ biết vận dụng khoa học những nội dung
của học thuyết Mác- Lênin, trong đó có nội dung quy luật phủ định biện chứng
một cách linh hoạt và biện chứng phù hợp với từng hồn cảnh.
Thành cơng của sự vận dụng quy luật trên đã đem lại diện mạo phát triển
mới cho văn hố Việt Nam kể từ khi có Đảng. Điều đó khơng chỉ nói lên vai trị to
lớn của Đảng trong thực tiễn, mà cịn cho thấy tính chất đúng đắn của lý luận, mà
cụ thể là ý nghĩa, vai trò quy luật phủ định biện chứng trong hệ thống học thuyết
Mác – Lênin về sự vận động và phát triển nói chung, cũng như trong văn hố nói
riêng với sự nghiệp xây dựng văn hoá nước nhà.
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
18
Đến nay, dù văn hoá đã đạt được những thành tựu to lớn, xứng đáng vai trò
“soi đường cho quốc dân đi”, nhưng cũng đứng trước khơng ít những khó khăn
thách thức. Do đó, muốn tiếp tục con đường đã chọn và hồn tất mục tiêu xây
dựng nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo tiền đề cho văn hoá phát
triển lên tầm cao mới từ thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần ghi nhớ một số bài học kinh
nghiệm sau: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
sáng tạo, đề ra những nguyên tắc cơ bản, mục tiêu, quan điểm xây dựng văn hóa,
con người Việt Nam phù hợp với từng giai đoạn. Coi trọng tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, xác định hợp lý, khoa học hệ tiêu chí, đặc trưng văn hóa, đặc
tính con người Việt Nam, đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng và hoàn thiện thể
chế, chính sách, luật pháp về văn hóa; phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc, các
đồn thể chính trị - xã hội và người dân trong đó đội ngũ trí thức, những người
làm văn hóa giữ vai trị nịng cốt.
Đa dạng hóa nội dung, hình thức, phương thức xây dựng, phát triển văn
hóa, con người; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa; tiếp
biến văn hóa trong q trình hội nhập và giữ gìn bản sắc; giữ tính tiến tiến, hiện
đại với đậm đà bản sắc dân tộc; giữa thống nhất trong đa dạng với bản sắc vùng,
miền, dân tộc thiểu số..
Đặt văn hóa ngang bằng với chính trị, kinh tế, xã hội; thống nhất nhận thức
về vai trò quan trọng của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động
lực, sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước; huy động các nguồn lực trong và
ngồi nước, đầu tư cho văn hóa, con người là đầu tư cho phát triển.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống, gương người tốt, việc tốt;
tổ chức tốt các sự kiện chính trị, phong trào quần chúng, đặc biệt là việc học tập và
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
19
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phong trào tồn dân xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở..
“Quy luật phủ định của phủ định với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
20