Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Oc Eo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.22 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Vị thế của trung tâm Óc Eo trong sự phát triển của Vương quốc Phù Nam Đặt vấn đề Óc Eo – Phù Nam, từ lâu đã là một trung tâm buôn bán của cư dân phương Nam, và là một trung tâm giao lưu văn hóa của người dân phương Nam với các vùng khác trên thế giới. Nằm ở vị trí địa lý thuận lợi (ngã ba tuyến đường hàng hải từ Tây sang Đông) với một nguồn nguyên liệu dồi dào mà các nhà buôn phương Tây khi đó gọi là “Đất Vàng” (Suvanabhumi), trung tâm Óc Eo đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những thương cảng hoạt động tấp nập, nhộn nhịp nhất của vương quốc Phù Nam. Và rồi, sau những biến thiên của lịch sử, văn hóa Óc Eo (cùng với các nền văn hóa khác như Đông Sơn, Sa Huỳnh) lại được tích hợp vào dòng chảy chung, thống nhất trong lịch sử dân tộc1. Hơn 1 thế kỷ trôi qua kể từ năm phát hiện ra di tích Óc Eo của L. Malleret năm 1944, các nhà khoa học đã có những nỗ lực nhất định để nghiên cứu và tiếp tục làm sáng tỏ nhiều vấn đề với các đặc tính riêng biệt. Ở bài viết này, người viết muốn bàn về khía cạnh khác: vị thế của trung tâm Óc Eo trong sự phát triển của nước Phù Nam ở 2 vấn đề chính: kinh tế, xã hội và văn hóa; qua đó khắc họa người đọc những nét phát triển đặc thù của Óc Eo trong dòng chảy phát triển của Phù Nam khi đó. 1. Những chứng tích của một nền Văn hóa biển Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, có thể nói sự hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ là bộ phận hợp thành và không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Nếu như ban đầu, trên đất nước ta xuất hiện nhiều nên văn hóa như Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo, Đồng Nai…. Dù các nền văn hóa này khác nhau về một số đặc trưng riêng biệt, nhưng vì cùng nằm ở môi trường kinh tế biển nên ngay từ đầu, các nền văn hóa trên đã có sự giao lưu lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển. Nước ta do ở cận biển, bị chia cắt mạnh bởi điều kiện tự nhiên (núi, sông) để hình thành các khu vực biệt lập. Nhưng sự chia cắt, biệt lập đó lại đem lại thuận lợi cho cư dân. Đường vượt qua núi non cách trở, nguy hiểm nên họ không sử dụng nhiều, mà họ tận dụng các con sông và biển 1. Phan Huy Lê (1998), “Lịch sử Việt Nam – một cái nhìn tổng quan”, in trong Tìm về cội nguồn, tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội, tr. 544..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> như tuyến đường thủy để buôn bán, giao lưu với thế giới bên ngoài. Điều này minh chứng cho nghịch lý là: chính môi trường biển lại là nhân tố liên kết, cố kết các cộng đồng trong khu vực. Theo đúng quan điểm này, Biển Đông thực sự không chỉ là con đường thương mại đơn thuần, mà còn là một trung tâm văn hóa lớn – là nơi tiếp nhận, chuyển giao các giá trị văn hóa giữa “thế giới Trung Hoa” và “thế giới Ấn Độ”. Như vậy, có thể coi Biển Đông là “Địa Trung Hải thu nhỏ” của châu Á và chính không gian địa – văn hóa đó đã tạo nên một nền văn minh rực rỡ với nhiều đặc tính tiêu biểu của “Thế giới phương Đông”2. Bên cạnh đó, trung tâm Óc Eo – Phù Nam cũng sớm giữ lại cho mình những đặc tính văn hóa bản địa của mình. Điều này thể hiện rõ qua các di vật khảo cổ tìm thấy được ở nơi này (tức Óc Eo – tác giả chú). Trong nghiên cứu của mình, GS Hà Văn Tấn cho rằng gốm Óc Eo có nhiều nét tương đồng với gốm Samrong Sen, Sa Huỳnh – “có hoa văn khắc chìm, thường là đáy tròn và có chân đế”. Nhưng ông cũng khẳng định: “Nhưng những điểm gần gũi giữa gốm Óc Eo với gốm Đông Nam Á không hề xóa đi bản sắc của văn hóa Óc Eo” (…) “Óc Eo là một phức hệ riêng biệt có tính chất địa phương rõ rệt”3. Ở một số địa điểm như Gò Cây Tung, Gò Tư Trâm (An Giang), Giồng Xoài (Kiên Giang)… các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều hiện vật chứng minh tính bản địa này. Ở Gò Cây Tung, người ta tìm thấy nhiều bôn có mỏ và rìu tứ giác… Theo GS Tấn, “Tuy bôn có mỏ kiểu Mã lai khác bôn ở mỏ ở Indonesia nhưng khu vực phân bố của các kiểu bôn có mỏ được xác định là vùng phân bố của cư dân nói tiếng Mã lai – Đa đảo (Malayo – Polinesien)”4. Ngoài ra, việc tìm một số tượng Phật đứng (Buddhapad) và dấu tích của hệ thống thủy nông độc đáo của vùng đất Nam Bộ thời kỳ Phù Nam chứng tỏ một sự phát triển liên tục không đứt đoạn của Phù Nam – Óc Eo; tuy phát triển nhưng vẫn giữ những nét riêng biệt và đặt trưng của nó. Các tư liệu sử học cũng là công cụ giúp các nhà khoa học tìm thấy và khắc họa rõ nét về những bằng chứng của văn hóa Biển Phù Nam. Do tư liệu viết về Phù Nam rất hiếm, nên người ta chủ yếu dùng tư liệu gốc là chính sử Trung Quốc để khắc họa về 2. Tadao Umesao, Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học – Văn minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới, NXB Thế giới, Hà Nội, 2007, tr. 151 - 180 3 Nhiều tác giả, Văn hóa Óc Eo và các nền văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Sở Văn hóa và Thông tin An Giang xuất bản, 1984, tr. 225 4 Hà Văn Tấn, “Phù Nam và Óc Eo: Ở đâu? Khi nào? Và ai?, Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, 1996..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> quốc gia Phù Nam. Vào những thế kỷ đầu sau Công nguyên, ở Đông Nam Á thì ngoài Phù Nam ra, đã xuất hiện một số vương quốc biển khác như Srivijaya, Champa… Cơ sở kinh tế của các quốc gia này là thương nghiệp, nhưng nông nghiệp cũng là một thành tố thiết yếu trong quá trình sinh tạo5. Thời lập quốc của Phù Nam gắn liền với truyền thuyết một đạo sĩ Ấn Độ tên Kaundinya đi thuyền đến Phù Nam, thể hiện uy lực của minh rồi cưới Nagi Soma (Liễu Diệp), nữ vương bản địa. Trong truyền thuyết này, yếu tố nước xuất hiện. Và Coedes cho rằng: “Có thể vì lẽ đó, Kaundinya và Soma đã được coi là thủy tổ của các dòng vua thống trị Phù Nam”6. Khác với một số nền văn hóa sớm của Đông Nam Á (và cả sau này như Chân Lạp), văn hóa Óc Eo phát triển ở vùng đất thấp, bao gồm các giồng, gò và một số dải đất đồng bằng chạy dài tới tận ven biển. Theo Tấn thư, Phù Nam “nằm trong một cái eo biển lớn. Đất đai của họ đông, tây, nam, bắc mỗi bề rộng 3.000 dặm”7. Dấu tích vết sò điệp được phát hiện tại nhiều địa điểm đã chứng tỏ vị trí cận biển của Óc Eo. Để thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, cư dân Phù Nam đã xây dựng và sống trên các ngôi nhà sàn ở ngay mặt nước hay sống trên thuyền. Ở Óc Eo, người ta phát hiện nhiều cọc gỗ có dạng hình tròn; những cấu kiện kiến trúc hình vuông và hình chữ nhật có cạnh đến 40 cm8. Năm 1990, trong một hồ nước không sâu lắm ở ấp Nhơn Thành, xã Nhơn Nghĩa, huyện Châu Thành A (Cần Thơ), các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều cọc gỗ còn cắm sâu dưới lòng đất. Đó là những cọc gỗ tròn, phần còn lại có cọc dài 1,7 đến 1,8 m 9. Những dấu cột trên có thể là cột nhà sàn, hàng rào bảo vệ hay các dãy phố chợ, cầu chợ lập ngay ven sông. Kích cỡ của những thân cột này khiến chúng ta liên tưởng đến chức năng liên kết, chân đỡ của các công trình kiến trúc có quy mô lớn. Thích nghi cao với đời sống sông nước, cư dân Phù Nam – Óc Eo đã tiến hành đào kênh mương thông nhau mà hiện nay, người ta vẫn còn thấy dấu tích của những con kênh này. Qua không ảnh của P. Paris năm 1941, khảo sát của Malleret năm 1942 – 1944; người ta đã tìm thấy các tụ điểm của hệ thống kênh đào rộng lớn chạy tỏa khắp 5. Anthony Reid, Southeast Asia in the Early Modern Era – Trade, Power and Belief, Conell University Press, 1993, p. 70 6 George Coedes, The Making of Southeast Asia, University of California Press, 1967, p. 57 7 Tấn thư, quyển 57 (Khoa lịch sử dịch), ĐHKHXHNV, ĐHQG Hà Nội; ký hiệu LS-TL: 0035. 8 Nhiều tác giả, Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr. 392 và 400. 9 Phạm Đức Thuận, “Một số nhận xét về di tích văn hóa Óc Eo tại xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền – thành phố Cần Thơ”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 2013, tr. 83..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> vùng phía Nam Sông Hậu. Có con kênh dài tới ngót trăm km, nối từ thị xã Châu Đốc qua núi Sam – Bảy Núi – Ba Thê – Lung Lớn đến Nền Chùa (Kiên Giang). Những đường nước cổ tạo thành một mạng lưới chằng chịt, nối các di tích với nhau và tỏa ra theo hình nan hoa10. Di chỉ Đá Nổi là điểm tụ của 11 đường nước cổ. Trên các đường nước cổ này, người Phù Nam đóng những chiếc thuyền lớn để vượt sông, vượt biển để khai thác hải sản và phát triển kinh tế hải thương. Theo Nam Tề thư thì họ đã “đóng thuyền dài tám chín trượng, rộng sáu bảy thước, đầu đuôi giống như con cá” 11 – theo cách chép này thì thuyền này dài 20 – 22 m, rộng nhất từ 1,75 – 2 m. Trong Thái Bình ngự lãm (983), Vạn Chấn viết: “Người ở vùng biển Tây Nam gọi thuyền là bạc [thuyền lớn], loại lớn dài hơn 20 trượng, độ cao trên mặt nước 2-3 trượng, nhìn xa như tòa lầu, chở sáu, bảy trăm người, hàng hóa cả vạn hộc”. Cuộc khai quật ở di tích Nền Chùa đã phát lộ ra miếng đồng khắc họa hình con thuyền đáng phải lưu ý. Khảo tả về hình thuyền này, các nhà khảo cổ cho rằng là loại thuyền một cột buồm, tuy nhiên cũng có thể phỏng định đây là thuyền ba cột buồm. Tổng hợp các ghi nhận của Vạn Chấn, Khang Thái; P.Pelliot đã từng khảo chứng đoạn văn này và có lời chú về nó rằng “8 thước = 1 tầm , dài 12 tầm tức 96 thước. Đại khái, thước thời Ngô tương đương thước thời Hán, tức bằng từ 23-25cm. Như vậy người Phù Nam dùng thuyền chèo có chiều dài từ 22-24m”12. Từ các bằng chứng khảo cổ học cho thấy, cùng với hoạt động thương mại thì người Óc Eo – Phù Nam rất thành thạo trong việc sử dụng một hệ thống thủy nông tỏa rộng để phát triển nông nghiệp, bằng chứng sinh động cho thấy tài trị thủy của người Phù Nam lúc đó. Để làm được như vậy, cư dân Phù Nam đã xây dựng cho mình một thiết chế chính trị mạnh mẽ, một nền nông nghiệp vững chắc với lúa trời (oryza prosativa) và lúa nổi (oryza sativa) – lương thực chính của cư dân và một đội ngũ nhân công (nông dân) dồi dào; đội ngũ thương nhân, thợ thủ công Phù Nam có điều kiện trao đổi buôn bán, các nhà truyền giáo có điều kiện qua lại, sinh sống ở khu thương cảng. Đó chính là điều kiện hình thành một vương quốc Phù Nam với những đặc tính riêng biệt của môi trường văn hóa biển. Nền văn hóa đó có trước Chân Lạp và khác Chân Lạp13. 10. Bảo tàng lịch sử Việt Nam, “Một số thông tin về văn hóa Óc Eo”, Tạp chí Di sản văn hóa dân gian, số 2 (11), 2005, tr. 55 11 Nam Tề thư, quyển 58 (Khoa lịch sử dịch), ĐHKHXHNV, ĐHQG Hà Nội; ký hiệu LS-TL: 0035. 12 13 Lương Ninh, “Nước Phù Nam – Một thế kỷ nghiên cứu”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 3 (322), 2002, tr. 14.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 2. Vị thế của trung tâm Óc Eo trong sự phát triển của vương quốc Phù Nam Trong phần này, người viết sẽ bàn về các khía cạnh: kinh tế, văn hóa; đây chính là điều kiện quan trọng và tiên quyết để Óc Eo – một trong các hải cảng quan trọng của Phù Nam, từ vị trí ban đầu là một cảng nhỏ phát triển thành một cảng thị, một trung tâm lớn vào loại bậc nhất trong sự phát triển của vùng đất Đông Nam Á nói chung và Phù Nam nói riêng. 1. Do vị trí địa lý đặc biệt – nằm giữa hai thế giới Trung Hoa và Ấn Độ, cùng với sự trưởng thành của các yếu tố nội sinh hiện có, Đông Nam Á từ rất sớm đã trở thành nơi du nhập và nhận rất nhiều ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài. Cho đến nay, vẫn chưa thể khẳng định chính xác người Ấn Độ đến Đông Nam Á từ bao giờ, nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng vào khoảng thế kỷ II hoặc I TCN, họ đã đến đây để tìm kiếm “các đảo vàng” (Island of Gold)14. Thời vương triều Maurya, Ấn Độ đã sớm phát triển mạnh và đạt nhiều thành tựu về mọi mặt. Đạt nhiều thành tựu như vậy, nhưng nếu chỉ giới hạn trong phạm vi của quốc gia (Ấn Độ) thì khó mà phát huy sự phát triển này. Ý thức được điều này, các hoàng đế Ấn Độ đã xúc tiến các hoạt động nhằm phô trương ảnh hưởng của mình ra các khu vực khác – và họ đã nhìn thấy Đông Nam Á, một khu vực kề sát Ấn Độ, là nơi họ có thể phát huy ảnh hưởng của mình tới đó. Tương tự, đế chế Trung Hoa dưới sự khuyến khích của các vương triều phong kiến, đã tiến hành hoạt động khuếch trương ảnh hưởng vào Đông Nam Á. Với tư cách là một quốc gia đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á, Phù Nam đã sớm có mối quan hệ mật thiết với hai nước lớn là Ấn Độ và Trung Hoa. Từ mối quan hệ mật thiết đó, Phù Nam nhanh chóng phát triển và trở thành một khu vực có trình độ sản xuất, thương mại phát triển nhất Đông Nam Á15. Phù Nam phát huy ảnh hưởng của mình ra tận khu vực phía bắc Thái Lan và toàn bộ con đường giao thương giữa châu thổ sông Hồng và vùng bán đảo Mã lai. Thời bấy giờ, hoạt động của mạng lưới thương mại quốc tế luôn tuân theo các quy luật vận động của gió mùa (còn gọi với thuật ngữ địa lý là gió tín phong) và sự di chuyển của các dòng hải lưu (dòng biển). Từ tháng tư, gió tây nam bắt đầu thổi từ hướng nam Ấn Độ Dương về hướng đông bắc. Theo hướng này, các thuyền buôn chở hương liệu di chuyển theo hướng gió từ Địa Trung Hải và vịnh Ba Tư đến Ấn Độ, rồi từ 14 15. Paul Wheatley, Nagara and Commandery – Origin of the Southeast Asian Urban Tradition, Chicago, 1983 Frank Andre Gunder, Re Orient – Global Econimy in the Asian Age, Ibid, p. 93.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Ấn Độ hàng hóa tiếp tục được chuyển đến vùng hạ lưu sông Irrawaddy và eo Kra. Như vậy, mùa giao dịch căn bản kết thúc vào tháng sáu – tháng bảy. Từ tháng giêng năm sau, gió lại chuyển hướng từ đông bắc thổi về hướng tây nam. Theo đó, thuyền buôn lại từ Đông Nam Á trở về Ấn Độ. Như vậy, chuyến hải trình dài đôi khi mất vài năm mới hoàn tất. Ngoài ra, sự hiện diện của các dòng hải lưu (dòng biển) cũng giúp thuyền buôn di chuyển được thuận lợi hơn. Vì nhu cầu cần nước uống và ít lương thực để duy trì chuyến hải trình, các thuyền buôn thường lợi dụng dòng hải lưu để tự cung cấp nước uống (dòng hải lưu thực chất là dòng nước ngọt giữa biển) và cả các “sinh vật phù du” trôi nổi trong các dòng hải lưu để làm lương thực trong quá trình làm hải trình. Để duy trì chuyến hải trình, các thuyền buôn không thể di chuyển mãi mà phải có các nơi để đậu, để đỗ. Hơn nữa, nhu cầu về hàng hóa phương Đông của thế giới Địa Trung Hải cũng là điều kiện quan trọng cho sự hình thành tuyến đường hàng hải này. Từ trước năm 350, thuyền buôn Địa Trung Hải chưa bao giờ vượt được hơn 1.600 km để tới eo biển Kra rồi vào khu vực Đông Nam Á. Nhưng giờ đây, họ đã có đủ điều kiện để thực hiện việc này, và một “con đường hàng hải” trên biển đã xuất hiện. Theo đó, thuyền buôn từ khu vực Nam Âu và Trung Cận Đông tiến vào miền Nam Ấn Độ, biển Đông Bengal và dừng chân tại eo biển Kra. Từ eo Kra, họ lại tiến đến các cảng ở Phù Nam, Đông Nam Á vả Trung Quốc. Nằm ở vị trí đắc địa trên tuyến đường quốc tế, Phù Nam có điều kiện phát huy ưu thế biển của mình và thương cảng Óc Eo phát triển mạnh và trở thành một nơi buôn bán, trung chuyển hàng hóa các nước rất sầm uất. Cư dân Phù Nam đón nhận các hàng hóa từ các nước chuyển đến, sử dụng triệt để các bãi hàng, kho chứa hàng hóa ở bên sông để cất trữ hàng hóa. Hàng hóa các nước đưa đến buôn bán rất phong phú: chuỗi hạt, đồ trang sức, vàng, đồng, chì…. Ở di tích Óc Eo, người ta tìm thấy “một kho hạt thủy tinh” nhiều màu sắc và cả các loại thủy tinh rất quý gia là “bích lưu ly”. Chắc hẳn thời bấy giờ, người Óc Eo cho nhập nhiều đá quý của Ấn Độ. Các pho sách cổ bằng tiếng Tamil và tiếng La Mã cho biết, cảng Arikamedu gần kề với cảng Pondicherry đã sớm trở thành một trung tâm sản xuất các chuỗi hạt, vật phẩm trang trí bằng kim loại, đá quý. “Không nghi ngờ gì nữa, một số hiện vật tìm thấy ở Đông Nam Á là từ Arikamedu và các khu vực khác ở dải bờ biển Ấn Độ đưa tới”16. 16. Karashima Noburu, “Hoạt động thương mại của Ấn Độ ở Đông Nam Á thời cổ trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3 (280), tr. 69..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Không chỉ du nhập hàng hóa, người Phù Nam còn trực tiếp sản xuất và buôn bán ra bên ngoài. Để phục vụ cho việc này, người Phù Nam đã tận dụng các nguồn nguyên liệu tại chỗ để bán, hoặc sơ chế nguyên liệu thành sản phẩm để bán. Việc sơ chế nguyên liệu thành sản phẩm để bán ở Óc Eo – Phù Nam khiến ta hình dung nơi đây có thể đã xuất hiện một số nghề thủ công, có sự phân công lao động rõ rệt. Sự xuất hiện các loại nguyên liệu thô là bằng chứng xác thực về sự phát triển của các nghề thủ công bản địa. Nhiều loại hiện vật tìm thấy ở Óc Eo được chế tác với kỹ thuật tinh xảo từ các nguyên liệu khác nhau như vàng, bạc, thạch anh, kim cương, đá màu. Đó là những nghề thủ công thể hiện trình độ cao nhất, tinh luyện nhất trong văn hóa Óc Eo 17. Các hiện vật được chế tác thành nhiều loại khác nhau như đồ trang sức, mã não... Nghiên cứu kỹ các hiện vật tìm thấy ở Óc Eo, nhà khảo cổ Malleret chú trọng sự xuất hiện một số hiện vật có nguồn gốc Ấn Độ. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, các nghệ nhân Óc Eo đã tiếp thu, bản địa hóa kỹ nghệ Ấn đồng thời có những sáng tạo của riêng mình. Hiện nay, chưa có tài liệu nào xác định số lượng cư dân Óc Eo – Phù Nam, nhưng theo đoán định dân số Óc Eo – Phù Nam có khoảng hơn vài chục triệu người 18. Do tính chất là một trung tâm thương nghiệp năng động, lực lượng thợ thủ công và thương nhân có lẽ chiếm hơn 2/3 số dân Phù Nam. Thợ thủ công Phù Nam khá đa dạng: thợ tại bản địa (tức Phù Nam) và từ các nơi khác đến. Gần đây, các nhà khảo cổ ở Thái Lan phát hiện một tấm bia khắc chữ Tamil Brahmi. Tấm bia ghi “Perumpatan Kal” – dịch ra nghĩa là “đây là phiến đá thử vàng của thợ kim hoàn (patan)”, có niên đại thế kỷ III – IV. Theo GS Karashima Noburu, tấm bia này cho thấy rõ luồng di cư của các thợ kim hoàn Ấn Độ sang Phù Nam; tại nơi đó các nhà khảo cổ phát hiện thêm một lượng chuỗi hạt lớn, khiến người ta gọi nơi này với cái tên “Đồi của các chuỗi hạt” 19. Ngoài ra, cư dân Óc Eo cũng sử dụng triệt để các sản phẩm đặc thù tại vùng Đông Nam Á lục địa như trầm và nhựa trầm để điều chế ra nước hoa và hương để đổi lấy tơ lụa của Trung Quốc.. 17. Nhiều tác giả, Văn hóa Óc Eo và các nền văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long , Sở Văn hóa và Thông tin An Giang xuất bản, 1984, tr. 57 18 Thông tin này, người viết đoán định theo số lượng dân cư của một số nước cùng thời với Phù Nam như Giao Chỉ, Trung Quốc. Theo Hậu Hán thư, dân số của quận châu Giao là gần 1 triệu người, dân số Trung Quốc (cuối thời Đông Hán) là hơn 50 triệu người (Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê). Sở di người viết ước đoán như vậy, vì lãnh thổ của Phù Nam rất rộng lớn, nhiều dân tộc. Do kinh tế hướng biển nên có thể số dân tập trung ở các sông, biển nhiều hơn (dấu tích nhà sàn tìm thấy nhiều nơi; dấu tích một khu thành với hàng chục nghìn người sinh sống ở Óc Eo, Angkor Borei). (ghi chú của người viết) 19 Karashima Noburu, Tlđd, tr. 69.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Như vậy, sự xuất hiện của hệ thống cảng, các bến đỗ hàng và hơn nữa, lực lượng lao động tại Óc Eo …. đã khẳng định vị thế của Óc Eo với sự phát triển của nước Phù Nam. Một lực lượng không thể thiếu để duy trì hoạt động hàng hải của thương cảng Óc Eo đó là thương nhân. Tầng lớp này có thể chiếm số lượng không đông, nhưng họ chính là người khai mở quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ, phát triển kinh tế khu vực Nam Ấn và xa hơn là Châu Phi, Nam Âu. GS Kenneth R. Hall có nhận định: “chính thương nhân Phù Nam cũng đã đến Trung Quốc để trao đổi hàng hóa từ Địa Trung Hải, Ấn Độ, Trung Đông và Châu Phi”20. Họ đã đi mua hàng ở nhiều nơi: mua long não ở Padang, vàng ở Borneo và đinh hương ở Maluku… Để dễ dàng giao dịch, người Phù Nam đã lưu hành loại tiền riêng gọi là “tiền Phù Nam” tại các di chỉ khác nhau ở Đông Nam Á. Trong số đó, tiêu biểu nhất là Malleret tìm thấy 15 đồng bạc ở Nền Chùa, Gò Nổi, Kè Một; 2 đồng tiền La Mã ở Óc Eo… Về sau, người ta tìm thấy những đồng tiền dạng như thế này tại nhiều nơi. Ở tỉnh Nakhon Si Thammarat, Thái Lan; các nhà khảo cổ tìm thấy 35 đồng tiền bạc có đúc nổi hình ốc tù, hình tia mặt trời, hình lâu đài… ở hạ lưu sông Mê Nam. Các đồng tiền này có lẽ lưu hành dưới thời vua Phạm Sư Man, có độ dày khoảng 33 mm và trọng lượng trung bình mỗi đồng tiền từ 9,2 – 9,4 gam 21. Một nghiên cứu mới đây cho rằng đồng tiền Phù Nam có đơn vị là “tamlin”. Hiện chưa rõ đồng tiền Phù Nam “tamlin” quy đổi ra bao nhiêu tiền hiện nay, nhưng cũng có thể khẳng định đồng tiền này được dùng phổ biến ở các cửa tiệm hàng hóa, các chợ với lượng người buôn bán tấp nập. Theo “Lương thư”, “chợ ở đây là chốn đông – tây giao hội, mỗi ngày có hơn 10.000 người”. Bản minh văn ghi lại cảnh buôn bán ruộng đất “lấy hoa lợi là lúa gạo, rồi quy đổi ngang giá bằng đơn vị Tamlin bạc. Giá ruộng ở Ten Hvar Paren, Tem Mahanavami được tính bằng lượng thóc trị giá 10 tamlin bạc; ở Travan Devacila là 5 tamlin bạc; ở Travan Tman là 10 tamlin bạc”22. Một điểm mới lạ của Óc Eo, đó là có sự xuất hiện của các tấm niêm hàng (gọi là bùa) tìm thấy khá nhiều ở khu di tích này. Căn cứ vào chữ Phạn khắc trên di vật, G. Coedes khẳng định đây là dấu niêm phong các gói hàng được chuyên chở từ nơi này đến nơi khác. Có chữ nêu 20. Hall Kenneth R., Economic History of Early Southeast Asia, The Cambridge History of Southeast Asia, Vol 1, Cambridge University Press, 1992, p. 195. 21. Robert S. Wicks, Money, Markets, and Trade in Early Southeast Asia: The Development of Indigenous monetary system to AD 1400, Conell Southeast Asia Program, 1992 , p. 118. 22 Lê Sĩ Giáo, Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 141..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> lên một yêu cầu thận trọng như apramadam (chú ý), đánh dấu bản sao,Upamité (giống nhau), hoặc đánh dấu quyền sở hữu - dhanapaté (chủ nhân)23, tất cả những chữ này đều có ý nghĩa giao dịch, khẳng định chủ quyền. Để Óc Eo trở thành một trung tâm kinh tế, phát huy vị thế của mình trong sự phát triển của vương quốc Phù Nam thì chắc hẳn, ở nơi đây đã xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng hàng loạt cơ sở vật chất (nhà cửa, tiệm buôn hàng hóa, đường giao thông, cảng thị…) phục vụ chọ sự phát triển kinh tế đúng với vị trí đắc địa của mình. Một đặc điểm chung của nền chính trị Đông Nam Á thời sơ khai (thế kỷ I – X) đó là sự xuất hiện của tập hợp các tiểu quốc (mandalas) có cấp độ phát triển và đặc tính văn hóa, tâm thức tôn giáo tương đối rõ rệt24. Theo trật tự hướng tâm, vua của tiểu quốc mạnh nhất sẽ khẳng định quyền bá chủ với các vương quốc khác trong mandala, buộc họ phải vâng lời25. Không phủ nhận rằng, hệ thống mandala trong đế quốc Phù Nam mang tính chặt chẽ và thống nhất26; nhưng cũng phải khẳng định chính mandala Phù Nam góp phần làm khu vực này ổn định (thông qua quan hệ tôn chủ - chư hầu) để xây dựng cơ sở vật chất để phát triển cường thịnh. Hệ thống chính trị vững mạnh làm cư dân Phù Nam yên tâm ổn định cuộc sống. Nhưng do vùng Tây Nam Bộ là vùng đất sình lầy, nhiều tháng ngập nước và có cả hệ thống kênh đào dày đặc; cư dân đã suy nghĩ đến việc cư trí để thích nghi trên vùng đất này, và họ đã xây nhà ở. Theo các tài liệu hiện có, loại hình cư trú phổ biến nhất của cư dân là nhà sàn. Bằng chứng cho loại hình di tích này là, người ta phát hiện nhiều cọc gỗ ở Óc Eo, Lung Giầy Mé, Cạnh Đền 27… Việc phát hiện các cọc gỗ xây nhà ở Giồng Xoài năm 2000, một đoạn cọc gỗ dầu dài 2,45 m ở gò Óc Eo, cột nhà sàn ở Nền Chùa 28 đã chứng minh điều đó. Ngoài ra ở Gò Tháp, người ta cũng đã tìm ra nhiều lá dừa nước (dùng để lợp nhà sàn). Điều này chứng minh cho tư tưởng “sống chung với lũ” của cư Louis Malleret (1959 - 1963), L’Archéologie du delta du Mékong - 2 ème partie.Volume II La civilisation matérialle d’Oc - Eo. École Francaise d’Extrêmxe orient, Pari (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam dịch), tr. 389. 24 O. W. Wolters, History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives, Cornell University Press, 1999. 25 Wolters, Tlđd, p. 27. 26 Lương Ninh, “Văn hóa Óc Eo và văn hóa Phù Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1992, tr. 26. 27 Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ (2008), Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 211. 28 Võ Sĩ Khải (1983), Báo các khai quật khu di tích Nền Chùa (xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang), Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, tài liệu đánh máy 23.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> dân Phù Nam mà ngày nay người dân còn tiếp tục kế thừa. Các kiểu nhà bằng gạch đắp trên gò cao (có kèm theo bàu nước để sinh hoạt) và sống trên thuyền bè rất thông dụng, nhưng do chỉ dành cho những người giàu có như vua chúa, quan lại, thương nhân giàu có, địa chủ…. chiếm số nhỏ trong dân cư Phù Nam, nên ít phổ biến. Các loại hình cư trú trên được bố trí như thế nào ? Có lẽ học hỏi kinh nghiệm xây dựng đô thị qua buôn bán, giao lưu với người Ấn Độ, La Mã; cư dân xây dựng các khu cư trú theo đường thẳng, lấy các con kênh thẳng tắp làm mẫu để dựa vào đó xây dựng. Qua không ảnh của mình, P. Paris (1941) phục dựng hệ thống kênh đào nối từ Óc Eo đến Angkor Borei (Campuchia). Niên đại của các con kênh này được xác định theo phương pháp C14 là từ thế kỷ II đến thế kỷ IV 29. Những phát hiện này cho phép ta phục dựng đầy đủ hệ thống kênh đào Óc Eo mà ngày nay vẫn còn dấu tích: con kênh Kiên Giang - Minh Hải chạy qua các khu di tích Núi Sam, Bảy Núi, Óc Eo; con kênh Lung Giếng Đá từ di chỉ Tráp Đá (An Giang) đến khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang) dài khoảng 30km; kênh số 01 (tên mới) chạy từ Tri Tôn, từ đông sang tây dài khoảng 16km, ngay ở khu Óc Eo - Núi Sập - Định Mỹ”30. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, hệ thống kênh được đào thẳng tắp, theo kiểu hình nan hoa. Các con kênh đào này không chỉ phục vụ cho giao thông thủy (thuyền bè đi lại) mà còn điều hòa lượng nước cho lúa nước sinh sôi phát triển. Điều đó được chứng minh qua việc tìm thấy dấu tích các con thuyền buôn bằng gỗ ở Phong Điền, Cần Thơ, ở Kiến Lương và Giàng Dừa (Kiên Giang). Ở xã Tiên Thủy (Châu Thành, Bến Tre), người ta tìm thấy dấu tích một con thuyền độc mộc dài gần 9 m, rộng 67 cm và cao tới 30 cm và một số mảnh thuyền khác ở Đá Nổi (An Giang) và Đồng Tháp. Mặc khác, để vận chuyển hàng hóa trên địa hình cao, người ta đã làm các con đường bộ bằng đất để tiện di chuyển. Thường là các con đường này tự dân làm, hoặc làm theo lệnh của nhà vua (minh văn ở Đá Nổi) – các ngôi nhà tất nhiên sẽ mọc theo ven đường. 29. Phan Huy Lê (2011), Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Đề án Khoa học xã hội cấp Nhà nước, Hà Nội, tr. 222 - 224 30 Cao Xuân Phổ (2009), “Óc Eo, một trung tâm văn hóa - thương mại ở Nam Đông Dương trong 6 thế kỷ đầu Công nguyên”, trong Hội thảo khoa học Văn hóa Óc Eo - nhận thức và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích, thành phố Long Xuyên., tr. 25.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Việc bố trí nhà ở, xây dựng hệ thống giao thông tốt đã tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại phát triển mạnh. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, Óc Eo với “những điểm quần cư và đô thị, những trung tâm chính trị - tôn giáo và văn hóa, hải cảng cùng với những điểm sản xuất thủ công buôn bán và những vùng công nghiệp. Óc Eo được biết đến là một trung tâm quan trọng nhất của hệ thống miền Tây sông Hậu và cũng có thể nói là lớn nhất khu vực Đông Nam Á”31. F. Gunder cũng khẳng định: “Phù Nam nổi lên thành một khu vực có trình độ sản xuất và thương mại phát triển nhất Đông Nam Á”32. Sức mạnh kinh tế đã giúp thương cảng Óc Eo từng bước hội nhập và nó đã trở thành nền tảng, cốt lõi của sự phát triển của Đế chế Phù Nam. Mặc dù là một nền văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn, nhưng chúng ta không “đánh đồng” rằng văn hóa Phù Nam là sự đúc khuôn của mô hình Óc Eo ở những vùng khác nhau. Sẽ không đúng nếu cho rằng các di chỉ khác có cùng trình độ và khuôn mẫu với Óc Eo33. 2. Không chỉ giới hạn trên lĩnh vực kinh tế, vị thế của thương cảng Óc Eo còn tỏa rạng trên phương diện văn hóa và tôn giáo. Theo chân các thương nhân, các tu sĩ Balamon và nhà sư Phật giáo cũng đã đến Phù Nam và một số tiểu quốc khác ở Đông Nam Á. Trong khoảng thời gian phát triển của Phù Nam, những người này đã khám phá nét đẹp, cũng như tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống của cư dân nơi đây. Thậm chí, thương nhân và tu sĩ đem từ Ấn Độ qua nhiều giống cây trồng mới, chế biến các món ăn mới cho hợp khẩu vị nơi đây. Dần dần, họ quen với thủy thổ nơi đây, bắt đầu xây dựng nhà cửa; thậm chí là lấy vợ người bản xứ và sinh cơ lập nghiệp nơi đây. Chữ viết đã xuất hiện ở vùng Óc Eo – Phù Nam từ thế kỷ I, bao gồm những từ tiếng Phạn và tiếng Brahmi đơn lẻ. Cư dân Phù Nam dùng mũi nhọn viết chữ lên lá cây, vàng và họ viết nhiều nhất là trên các bia ký (có chỗ gọi là minh văn). Ở Óc Eo, Malleret tìm thấy 36 chữ Phạn khắc trên mặt ngọc, thiết, 3 chữ Sankrit khắc trên gốm đã mờ, mòn. Các chữ thường gặp như chữ om (tiếng hô), deva (thần), dayadanam (quà tặng nhận từ), dhannada (người cho, thí chủ), dhanapati (sở hữu). Từ thế kỷ V đến thế kỷ X, người Phù Nam khắc chữ trên bia đá mà ngày nay còn tìm thấy ở nhiều nơi như Đá Nổi, Ba Thê, Núi Sam, Bảy Núi, Gò Bường… Nội dung các minh văn này bàn về sinh hoạt cung đình, tôn giáo. Chẳng hạn, bia Đồng Tháp Mười (đầu thế kỷ V) ghi: 31. Lương Ninh, “Văn hóa Óc Eo với văn hóa Phù Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1992, tr. 24. Frank A. Gunder, Re Orient – Global Economy in the Asian Age, University of California Press, 1998, p. 93 33 Lương Ninh, Tlđd, tr. 26. 32.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Hoàng tử Gunavarman “tuy còn trẻ nhưng do hội tụ về phẩm hạnh và giá trị, được quyền cai quản một cơ sở lớn (trên đất khai khẩn) từ bùn lầy (…) Vật mà Gunavarman đã cúng cho Bhagavat, tuân theo công lí; kẻ nào đi ngược lại việc sử dụng (của cải này) sẽ bị rơi xuống địa ngục của Yama”34. Minh văn Gò Xoài (GS Hà Văn Tấn dịch) ghi: “Các pháp đều do nhân duyên sinh ra, đấng Như Lai đã thuyết về nguyên nhân cũng như sự tiêu diệt chúng, chính người, đức Đại Sa Môn đã nói như vậy”35. Sự phân bố các minh văn cho ta thấy, chữ Phạn mặc dù được du nhập nhưng không thực sự phổ biến. Đây là loại văn tự chỉ phổ biến trong giới tăng lữ và quý tộc cung đình. Về sau, loại chữ này được truyền bá và phổ biến với mọi người dân. Qua quá trình sử dụng, cư dân Óc Eo – Phù Nam hẳn là đã cải tiến thứ chữ đó thành văn tự của chính mình. Theo nghiên cứu của nhiều học giả, loại chữ Phạn – Óc Eo này giống chữ thời Pallava (Ấn Độ) và “có 33 phụ âm đơn, 14 nguyên âm, khác chữ cổ Khmer và cũng khác cả chữ Pali về số lượng nguyên âm”36. Loại chữ này có thể được truyền bá vào Champa (bằng chứng là các bia ký bằng chữ Phạn – sớm nhất là bia Võ Cạnh vào thế kỷ IV) và được cư dân ở đó cải tiến thành chữ Chăm. Không chỉ chữ viết, cư dân Phù Nam còn giao lưu với Ấn Độ với Đông Nam Á trên mặt trang phục và kiến trúc. Người Phù Nam ăn mặc đơn giản. Lúc đầu, họ không mặc gì cả (xem truyền thuyết Hồn Điền – Liễu Diệp); nhưng khi học hỏi văn hóa Ấn Độ, cư dân đã ăn mặc theo phong cách Ấn Độ. Các cuộc khai quật, phát hiện ra tượng người bình dân, quanh mông chỉ quấn một tấm vải ngắn ngang bụng, để lộ rốn (ở Óc Eo); đầu người bằng đất nung có chít khăn vải ca-rô (ở Đá Nổi), tượng người đóng khố ở Trà Vinh… cho ta một khái niệm về trang phục người dân châu thổ vào thời đại Óc Eo: phụ nữ mặc váy để dài, phần trên để trần hoặc phủ kín; đàn ông khố ngắn, phần trên để trần. Điều này trùng khớp với nhận định của “Lương thư”: “Người nước đó ở trần, phụ nữ mặc áo chui đầu”37. Ngày nay, người Khmer và có thể là người Chăm và một số dân tộc ở Tây Nguyên, miền Bắc Việt Nam có mặc trang phục kiểu này. Học hỏi và tiếp thu phong cách nghệ thuật của Ấn Độ, người Phù Nam xây dựng kiểu kiến trúc cho 34. Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, lịch sử và văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb VHTT xuất bản, Hà Nội, 2005, tr. 222 - 223 35 Nhiều tác giả, Ngôn ngữ vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long, kỷ yếu hội thảo, An Giang, 2013, tr. 147 36 Nguyễn Công Bình (và nhiều người khác), Văn hóa và dân cư Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH Tp. Hồ Chí Minh, 1990, tr. 165 37 Lương ninh (2005), Sách đã dẫn, tr. 28 – 29..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> riêng mình. Việc phát hiện các tường gạch cao từ 1 – 4 m ở Xóm Cát, Gò Cây Thị và Gò Óc Eo của L. Malleret năm 194238, cấu kiện bằng gỗ (đầu cột có chạm trổ) ở Giồng Xoài năm 2000 của Võ Sĩ Khải 39… cho ta hình dung được cư dân Óc Eo – Phù Nam thời đó xây dựng những ngôi nhà to lớn rộng hàng trăm ha bằng gạch (có thể có trộn cát và vữa) như lâu đài, dinh thự của những người giàu có. Việc chạm trổ trong nhà (ở các cột nhà) cho thấy một sự giao lưu, kế thừa tinh hoa văn hóa Ấn Độ nhưng được chắt lọc để tạo ra nét riêng của mình. 2. Tôn giáo là bằng chứng hùng hồn chứng tỏ sự giao lưu văn hóa Óc Eo với các nước khác, cụ thể là Đông Nam Á và Ấn Độ. Các đạo sĩ Balamon sang Phù Nam và lập quốc, “sửa đổi luật lệ và đi theo hệ thống cai trị của người Ấn, tự cho mình là người bênh vực thánh ngữ Vedda”40. Một số giáo sĩ Balamon được tôn lên làm vua (vua Kiều Trấn Như năm 357, vua Hỗn Điền thế kỷ I…), thay mặt nhà vua nắm vương quyền và thần quyền. Với tượng thờ, các nhà khảo cổ tìm thấy rất nhiều tượng thần Shiva, Visnu và một số vật thờ (linga) ở Giồng Cát, Giồng Xoài, Gò Gòn 41; nhưng tượng Vishnu được tìm thấy nhiều nhất42. Bằng chứng được ghi nhận trên bia Phù Nam 1, Phù Nam 2. Bia Phù Nam 2 (K.875) nói rõ: hoàng hậu Kulaprabhavati (vợ vua Jayavarman), rất được sủng ái “được coi như tín điều duy nhất”. Không rõ vì lý do gì, bà “thấy niềm vui giống như cái bóng thoảng qua (bà lập) một nơi tu ẩn có hồ nước và am mây”43 - điều đó chứng tỏ cư dân Phù Nam chịu ảnh hưởng của Visnu qua hình thức “bỏ chốn xa hoa, lui về nơi yên bình để ẩn”. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của Shiva kết hợp Vishnu (Harihara) cũng được tìm thấy trong di tích Óc Eo, nhưng không còn nguyên vẹn. Một số tượng Harihara ở An Giang bị vỡ, chỉ còn lại đầu tượng. Việc lập đền thờ và tổ chức thờ cúng cũng được cư dân xúc tiến. Dấu tích các ngôi đền tháp Balamon giáo tìm thấy rất nhiều ở Óc Eo, Gò Tháp, Nền Chùa… Trong các ngôi đền này, nhiều cột được chạm 38. Louis Malleret 1959. L’Archéologie du delta du Mékong, tome premier : L‟Exploration Archéologique et les fouilles d‟Oc-èo. École Francaise D‟Extrême Orient, Paris, (Đặng Văn Thắng dịch trích lược), tr. 100 - 105 39 Nhiều tác giả (2008), Sách đã dẫn, tr. 52 40 Lê Hương, Sử liệu Phù Nam, Nxb Nguyệt Nhiều, Sài Gòn, 1974. 41 Lương Ninh, “Vật liệu lợp mái trong kiến trúc Óc Eo”, trong Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 110. Ông ghi nhận: Ở Giồng Xoài, người ta tìm thấy một tượng Brahma và 1 linga. Thám sát Gò Gòn xuất hiện một giếng vuông có 3 bậc tam cấp, có 4 linga. 42 Tượng này được tìm thấy rất nhiều, có niên đại từ thế kỷ V đến thế kỷ VIII. Ở Gò Tháp, Bình Hòa và Gò Thành, người ta tìm thấy tượng Visnu đứng làm bằng đá sa thạch (có chỗ làm tượng bằng sa thạch mịn). Cá biệt tại Gò Thành và Gò Thạch Quỳ, người ta tìm thấy tượng Visnu mặc trang phục sampot; tượng Visnu khắc nổi trên lá vàng ở Đá Nổi…. Xem Đào Linh Côn, Văn hóa đồng bằng Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 341. 43 Lương Ninh (2005), Sách đã dẫn (bản dịch văn bia), tr. 225.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> khắc rất công phu với nhiều kiểu hình hoa văn khác nhau. Đặc biệt vào năm 2013, đoàn khai quật khảo cổ học của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh tiến hành khảo sát Gò Minh Sư. Tại đây, họ phát hiện một Ao Thần làm bằng gạch xếp so le với nhau. Trong ao, họ phát hiện tiếp các hiện vật như mảnh vỡ của bình, nồi, cà ràng, chân đèn, vòi bình được tạo hình ngỗng thần Hamsa, 4 hạt chuỗi, 1 mảnh thủy tinh trong suốt, thỏi kim loại nhỏ dạng tròn dài và nhiều xơ dừa44. Với phát hiện này đã phát lộ một nghi thức được thực hiện trong các nghi lễ Hindu giáo. Như vậy, những phát hiện này cho thấy Hindu giáo (hay Balamon giáo) của Ấn Độ đã xâm nhập và có ảnh hưởng lớn đến cư dân Óc Eo – Phù Nam. Hindu giáo có vai trò lớn trong việc chuyển biến các mối quan hệ xã hội của cư dân Óc Eo. Cùng với Balamon giáo, Phật giáo đã xuất hiện rất sớm, khoảng thế kỷ II. Theo thống kê chưa đầy đủ, người ta đã tìm ra được khoảng 65 tượng Phật45 ở khu vực Nam Bộ. Ở Long An, các nhà khoa học tìm thấy nhiều tượng Phật bằng đá, dạng ngồi thiền có niên đại thế kỷ II – IV46. Đến thời gian Phù Nam phát triển mạnh mẽ, tượng Phật được phát hiện nhiều hơn ở các di chỉ Gò Cây Thị, Gò Tháp, Giồng Xoài…. Các tượng này cao hơn 2 m và rất có thể được đặt ở các ngôi chùa lớn, hoặc thờ trong bàn thờ gia đình. Việc phát hiện ra 24 tượng Phật ở Gò Tháp, cho thấy nơi này (Gò Tháp) là một trung tâm chế tác tượng Phật lớn. Do có nhiều gỗ và đá, cư dân Gò Tháp đã chế tác tại chỗ và tạo ra nhiều tượng Phật lớn nhỏ khác nhau. Qua đó càng cho thấy, Phật giáo đã rất phát triển ở vùng ĐBSCL từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Tuy không được thờ cúng nhiều như Bàlamôn giáo, nhưng Phật giáo có vai trò quan trọng vào từng giai đoạn nhất định.. Đặng Văn Thắng (2013), Báo cáo khảo cổ học khai quật Gò Minh Sư (Gò Tháp, Đồng Tháp). Tài liệu đánh máy. 45 Lê Thị Liên, Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở ĐBSCL trước thế kỷ X, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006, tr. 208 46 Lê Thị Liên, Sách đã dẫn, tr. 195 44.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Bên cạnh đó, tài liệu đề cập đến mối quan hệ bang giao giữa Phù Nam và Trung Quốc đã được nhiều thư tịch cổ Trung Quốc nhắc đến, đặc biệt trong Lương thư từng nhắc đến chuyến thăm Trung Quốc của hai nhà sư Phù Nam, đánh dấu mối quan hệ giữa hai vương quốc: Năm 503, theo lời mời của triều đình nhà Lương, vua Phù Nam đã lần lượt phái hai nhà sư là Sanghapala (Tăng Già Bà La) và Mandra (Man Đà La) mang kinh Phật từ Phù Nam sang Trung Hoa dịch. Hai nhà sư này lưu trú tại Phù Nam Quán. Tăng Mandra đã dịch được tất cả 3 bộ 11 quyển, còn tăng Sanghapala dịch được tổng cộng 10 bộ 32 quyển. Vua Phù Nam còn gửi sang triều đình nhà Lương pho tượng Phật bằng san hô47. Sách “Cao Tăng truyện”, quyển 1 có ghi: khoảng năm Đại Đồng (535545) có sắc chiếu bảo Trương Phạm đến nước Phù Nam xin thỉnh các bộ kinh luận của các bậc danh tăng… Nước Phù Nam nghe tin liền cho Chân Đế (Gumrata) tuyển chọn những bộ kinh luận bổ ích để đưa sang Trung Quốc. Đoàn người đến kinh đô Trung Quốc bấy giờ vào tháng 8 nhuận năm Thái Thanh 2 (548) 48. Như vậy, đến thế kỷ VI, nhiều khả năng Óc Eo – Phù Nam đã trở thành một trung tâm tôn giáo quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Rõ ràng, vào những thế kỷ đầu Công nguyên, trong khi văn minh Trung Hoa còn chưa thực sự phát triển mạnh mẽ thì văn minh Ấn Độ, với những giá trị và cả sự gần gũi về địa lý, đã có nhiều tác động đối với khu vực. Với ý nghĩa đó, G. Coedes và một số học giả phương Tây từng gọi các quốc gia Đông Nam Á cổ đại là các “quốc gia Ấn hóa”, dùng sức mạnh chính trị, văn hóa để thiết lập “vùng đất thực dân của Ấn Độ” 49. Tuy nhiên, việc nhận thức đúng về yếu tố nội sinh của các nhà nghiên cứu Đông Nam Á đã phản bác lại quan điểm trên. Alastair Lamb (Ấn Độ) viết: “Không có bất cứ một quá trình Ấn Độ hóa nào mang tính đồng phục ở khắp Đông Nam Á”50. Đồng tình với ý kiến đó, Kenneth R. Hall cho rằng: “Trên thực tế, những cứ liệu lịch sử không cho thấy bất cứ một bằng chứng nào về cái gọi là thuộc địa Ấn Độ, sự xâm lược của Ấn Độ hay sự thống trị trực tiếp của Ấn Độ. Việc tiếp nhận văn hóa Ấn Độ diễn ra một cách tự nguyện ở Đông Nam Á mặc dù giới quý tộc bản địa, cũng chịu nhiều ảnh hưởng của. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội, tr. 162 164. 48 49 G.Coedes. Les Etats Hindouisés d’ Indonésie, E. De Boccard Editeur, Paris 1964. 50 A.L.Basham (edited) 1998: A cultural history of India. Oxford University Press. Delhi, Calcutta, Mumbai. p.443 47.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> văn hóa Ấn”51. Điều này cho thấy, quá trình Ấn Độ hóa mặc dù đã được cư dân Đông Nam Á (trong đó có Óc Eo) tiếp nhận, nhưng họ lại gạn lọc và biến nó thành của riêng mình. Kết luận Văn hóa Óc Eo, với những điều kiện và ưu thế sẵn có của mình, đã nhanh chóng phát triển và phát huy được vị thế của mình trong sự phát triển của vương quốc Phù Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. Mặc dù vị thế của Óc Eo nhanh chóng bị tàn lụi từ thế kỷ VII trở về sau bởi các điều kiện tự nhiên (biển tiến), sự nổi lên của các cường quốc thương mại kế tục như Champa, Sri Vijaya và sự xâm lăng của Chân Lạp; nhưng chính vị trí địa lý tốt (hướng biển) của Óc Eo khi xưa, đã tạo nền tảng tốt cho sự phát triển của đô thị cảng Sài Gòn thế kỷ XVII và hiện nay là thành phố Hồ Chí Minh đang phát triển mạnh mẽ. Trong xu thế hội nhập hiện nay, khi có nhiều văn hóa khác xâm nhập thì bài học về gạn lọc, giữ lại những gì mà người ta cho là riêng biệt, đặc biệt (yếu tố nội sinh, cơ tầng bản địa) là cần thiết. Người Óc Eo – Phù Nam đi đầu trong việc tiếp thu tự nguyện, nhưng họ biết gạn lọc và biến cái của người ta thành cái của mình, phù hợp với bản sắc dân tộc, điều kiện cư dân mình. Trong khi cần phải có cái nhìn khoa học về vị thế của Óc Eo – Phù Nam trong lịch sử thì cần phải thấy rõ ràng, với tư cách là một khu vực phát triển sớm, có ảnh hưởng rộng lớn đến khu vực; Óc Eo – Phù Nam tạo dựng một tiềm lực kinh tế, môi trường văn hóa rất có ý nghĩa cho việc thành lập một số quốc gia lớn ở Đông Nam Á phát triển mạnh mẽ trong các giai đoạn tiếp sau.. 51. Kenneth R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, 1985, p. 44..

<span class='text_page_counter'>(17)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×