Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tu tuong HCM van de dan toc & giai phong dan toc.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.2 KB, 8 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng mười Nga đã mở ra một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc là một
bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Hồ Chí Minh nói: "Lê
nin đã mở ra một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.
Lênin là người đầu tiên đã kiên quyết lên án mọi thành kiến đối với nhân
dân các nước dân tộc thuộc địa đã ăn sâu trong xương tuỷ của nhiều công
nhân Châu Âu và Châu Mỹ.
Cho nên, công cuộc giải phóng thuộc địa có thể và phải chủ động thực
hiện bằng sự nỗ lực của bản thân nhân dân thuộc địa. Cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa là "Một trong những cái cánh của cách mạng
Vô sản". Người cho rằng: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn đất rồi:
Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống cho cho công
cuộc giải phóng dân tộc nữa thôi". Người còn dự báo, khi mà cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa thành công, khi mà họ thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản, tức là chủ nghĩa đế quốc
thì, "họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong sự
nghiệp giải phóng hoàn toàn".
Một đặc điểm nổi bật ở các nước thuộc địa là kinh tế chưa phát triển.
Ở đó kinh tế nông nghiệp là chủ yếu và nông dân chiếm số đông trong dân
cư; Hồ Chí Minh đã nhìn thấy: nếu chỉ với lực lượng riêng của chính mình,
nông dân không thể tự giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc.
Trong nhiều nước thuộc địa, nông dân đã nhiều lần nổi dậy, nhưng lần nào
cũng bị dìm trong biển máu, vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo.
Người khẳng định: "Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp
độc nhất và duy nhất có có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng
lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân",.
1
Ở các nước thuộc địa, giai cấp tư tư bản bản xứ không có thế lực về
kinh tế và chính trị, không có khả năng độc lập lãnh đạo phong trào cách


mạng giải phóng dân tộc. Nếu họ khơi dậy được phong trào, thì người cộng
sản phải tham gia để thúc đẩy cuộc cách mạng đi "đến nơi", đem lại quyền
lợi thực sự cho công - nông và các tầng lớp nhân dân lao động khác, tránh
không để cho họ nửa chừng thoả hiệp với đế quốc và phong kiến.
Người cộng sản ở các nước thuộc địa cần phải chống tư tưởng cải
lương, đầy hy vọng bọn đế quốc thực dân ban cho những cải cách. Đồng
thời cũng tránh tư tưởng cầu cứu một đế quốc khác đánh đuổi đế quốc đang
thống trị mình Hồ Chí Minh còn kêu gọi những người cộng sản ở các nước
thuộc địa phải chống đồng văn, đồng chủng, cũng như tư tưởng không phân
biệt giai cấp nhưng phân biệt màu da. Tóm lại người chủ trương chống lại
mọi biểu hiện của tư tưởng dân tộc tiểu tư sản, tư sản và phong kiến.
Để giải phóng dân tộc trong khi đế quốc dùng bạo lực để đàn áp các
phong trào yêu nước, cách mạng Hồ Chí Minh đề ra phương pháp cách
mạng bạo lực của quần chúng nhân dân chống lại bạo lực phản cách mạng
của đế quốc và tay sai, giành chính quyền cách mạng. Thắng lợi của cách
mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ là sự biểu hiện tư tưởng cách mạng bạo lực Hồ Chí Minh. Để cô lập kẻ
thù và tập hợp lực lượng cách mạng, Người căn dặn những người cộng sản
phải biết kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước chân thành với tinh thần quốc tế vô
sản cao cả.
Đoàn kết quốc tế là một nội dung quan trọng trong chiến lược cách mạng giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh. Theo Người đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa đế quốc, quyền lợi của vô sản "chính quốc" và quyền lợi của nhân dân thuộc
địa là thống nhất. Người nói: "Theo Lênin, cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi
thì nó phải liên kết chặt chẽ với phong trào chống chủ nghĩa đế quốc ở các thuộc địa
và các nước bị nô dịch và vấn đề dân tộc như Lênin đã dạy chúng ta, chỉ là một bộ
phận của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản". Luận điểm
2
này đã được Hồ Chí Minh nêu lên bằng hình tượng "con đỉa hai vòi" và "hai cánh
của một con chim". Sự phối hợp và giúp đỡ nhau của các dòng thác cách mạng trên

thế giới từ thập kỷ 70 lại đây trong việc xoá bỏ đi một vết nhơ trong lịch sử loài
người. Chế độ thuộc địa nói lên ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ở các nước thuộc địa đã nảy sinh phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, giai cấp công nhân đã ra đời, thì ở đó kẻ bóc lột giai cấp, áp bức là
bọn tư bản, đế quốc đến cướp nước và tay sai của chúng. Vì vậy, giai cấp
công nhân ở các nước ấy phải là người lãnh đạo cách mạng, để giải phóng
cho mình đồng thời giải phóng toàn thể dân tộc khỏi xiềng xích của đế quốc
chủ nghĩa. Ở các nước thuộc địa, giai cấp công nhân phần lớn xuất thân từ
nông dân, có quan hệ mật thiết với nông dân. Đó là một đặc điểm mà khi
thành lập đảng của giai cấp công nhân, những người cộng sản phải chú ý lôi
cuốn nông dân và các phong trào yêu nước vào cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc của nước mình. Chỉ với điều kiện ấy, Đảng mới giương cao được
ngọn cờ lãnh đạo của mình trong cách mạng giải phóng dân tộc.
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản" đó là kết luận quan trọng mà Bác Hồ đã rút ra
từ thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Vì vậy, mục tiêu cách mạng ở
các nước thuộc địa là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: "Cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới
giành được thắng lợi hoàn toàn". Với sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, ngay từ
những năm đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã dự đoán: "Cách mạng Việt Nam
sau khi đánh đuổi đế quốc và tay sai, giành được độc lập về chính trị sẽ tiến
lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa". Trong cương lĩnh
đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh chủ trương giải phóng dân tộc để đi tới chủ
nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đã nêu "Muốn cách mạng thành công thì phải
dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng bền vững, phải bền gan, phải
hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại, phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
3
Tư tưởng về sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
của Hồ Chí Minh được thể hiện nhất quán trong suốt quá trình hoạt động
cách mạng của Người. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ

nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ".
Năm 1930, khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Người đã đề ra
chính cương, sách lược vắn tắt phản ánh được đường lối cơ bản của Đảng ta,
của cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên trên đất nước ta có một Đảng có
cương lĩnh và sách lược cách mạng đúng đắn thể hiện được những nguyện
vọng thiết tha nhất của dân tộc. Cuối năm 1939, khi chiến tranh thế giới lần
thứ II nổ ra, căn cứ vào tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta vẫn chủ
trương chiến lược cách mạng phản đế và điền địa, nhưng có sự thay đổi về
chỉ đạo chiến lược: "Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi
dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề điền
địa cũng phải nhằm mục đích mà giải quyết.
Tháng 8 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với thế giới: "nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự
do, độc lập".
Trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, người kêu gọi:
"Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ".
Là chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
Hồ Chí Minh đã đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm về vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Người cũng đã tính cực chống những khuynh hướng cơ hội
chủ nghĩa, cải lương, thoả hiệp".
Người đã định hướng từ đầu cho cách mạng Việt Nam: tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là
tiền đề của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là để củng cố độc lập dân tộc.
Có giải pháp dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng xã hội.
4
Độc lập dân tộc là tiền đề của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là để
củng cố độc lập dân tộc. có giải phóng được giai cấp, giải phóng xã hội và
có giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội mới giải phóng được dân tộc, giải

phóng được con người.
Nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới, giữa lòng yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản,
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa độc lập tự do của dân tộc và
tự do của mỗi người.
Hồ Chí Minh quan niệm độc lập dân tộc, tự do cho dân tộc mình là
điều kiện cho độc lập, tự do cho mọi dân tộc. Chỉ có làm cho tất cả các dân
tộc trê thế giới đèu được độc lập tự do, bình đẳng có quyền sống, quyền
hưởng hạnh phúc thì mới bảo đảm được tự do, bình đẳng, quyền sống,
quyền hạnh phúc cho mỗi người và mọi người. Chính vì vậy mà cách mạng
Việt Nam được cả loài người tiến bộ đồng tình ủng hộ, tạo điều kiện cho
nhân dâ ta đánh thắng được những tên đế quốc to là Pháp và Mỹ và bước
vào giai đoạn xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và sự nghiệp giải phóng dân
tộc đã mở ra một phương hướng đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng của các
dân tộc: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đúng như Hồ Chí Minh đã
nói: "Các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thấy rằng chỉ có dựa vào
phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi theo đường lối của giai cấp công
nhân, mới đánh đổ được bọn đế quốc để giành lại độc lập dân tộc hoàn toàn
và bình đẳng thực sự giữa các dân tộc". Chúng ta cần giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nêu cao ý chí tự lực tự cường, tăng
cường đoàn kết và mở rộng sự hợp tác với các nước trên thế giới, luôn luôn
ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân tất cả các nước chống đế quốc và phản
động quốc tế, vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
5

×