Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Luật hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.22 KB, 16 trang )

Mục lục
A. Lời nói đầu 1
B. Nội dung 1
I. Khái niệm về tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng 1
II. Cơ sở pháp lý về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng vợ chồng. 2
1, Căn cứ vào Hiến pháp 1992 và nghị quyết số 51/2001/QH10 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Hiến pháp năm 1992
2
2, Căn cứ vào bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 2
3, Căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình. 3
a, Tài sản có trước khi kết hôn. 4
b, Tài sản thừa kế riêng, tặng cho riêng 4
c, Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng 5
d, Tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân 5
e, Một số trường hợp khác 6
III. Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng. 7
IV. Thực tiễn một số vụ việc tranh chấp về quyền có tài sản riêng của vợ chồng. 9
C. Kết luận 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên
vợ chồng.
A. Lời nói đầu
Gia đình là tế bào của xã hội trong đó quan hệ vợ chồng là quan hệ nền tảng
có vai trò quan trọng trong đời sống. Ngoài những yếu tố về nhân thân như tình
cảm, gắn bó, chăm sóc trong quan hệ này đặt ra những vấn đề về tài sản. Trong
đó, quyền có tài sản riêng là quyền cơ bản của con người đã được Nhà nước
công nhận, đảm bảo. Sự qui định này là một điều cần thiết để bảo vệ quyền lợi
của mỗi cá nhân đồng thời là cơ sở giải quyết những tranh chấp có thể xảy ra
trong thực tế, đảm bảo xây dựng mối quan hệ hôn nhân vợ chồng bình đẳng, tự
do, tự nguyện.


B. Nội dung.
I. Khái niệm về tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 có quy định tài sản của vợ chồng trong
thời ký hôn nhân gồm: tài sản chung và riêng. Căn cứ tại Điều 32 Luật Hôn nhân
và gia đình 2000 có quy định:
1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và ĐIều 30 của
Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc ko nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung"
Vấn đề quy định tài sản riêng của vợ chồng là rất đúng đắn không những
giúp giải quyết tốt hơn những vụ án chia tài sản khi ly hôn cũng như nhưng vụ
2
án chia thừa kế, hợp đồng dân sự, thương mại...
II. Cơ sở pháp lý về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng vợ chồng.
1, Căn cứ vào Hiến pháp 1992 và nghị quyết số 51/2001/QH10 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp
luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Tất cả các văn
bản luật khác ban hành đều phải tuân thủ theo Hiến pháp.
Hiến Pháp là một bộ luật gốc qui định những nguyên tắc cơ bản nhất xây
dựng một trật tự xã hội ổn định, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
một chế độ có tự do dân chủ nhưng phải tập trung, trong khuôn khổ pháp luật.
Theo đó, hiến pháp đã quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Đây là một
phạm trù thuộc quyền sở hữu công dân được ghi nhận trong Điều 58 - Hiến pháp
1992 : “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở,
tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác,…”

Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh
tế xã hội cũng như trong pháp luật. Nó là một trong những tiền đề vật chất cho
kinh tế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Quyền sở
hữu là vấn đề quan trọng nhất của pháp luật dân sự
2, Căn cứ vào bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005.
Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ
tài sản và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể.
Bộ luật dân sự ra đời khẳng định vị trí trung tâm của chế định “tài sản và quyền
sở hữu” đóng vai trò trung tâm, tạo cơ sở pháp lý cho các chế định khác trong Bộ
luật cũng như các văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Bởi lẽ, quyền sở
3
hữu là cơ sở, là mục đích của rất nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Qua đó, luật
dân sự đã quy định rất đầy đủ về quyền sở hữu, các căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt tại Điều 233, 234, 235,…; các quy định về thừa kế, di tặng tại điều
648, 671,…và các điều khoản về bảo vệ quyền sở hữu. Luật Hôn nhân và gia
đình cũng đã quy định tại Điều 5: “Các quy định của Bộ luật dân sự liên quan
đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia
đình trong trường hợp pháp luật về hôn nhân và gia đình không có quy định”.
Quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng là hợp lí, tôn trọng quyền sở hữu cá
nhân tuyệt đối của con người.
3, Căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình.
Luật hôn nhân và gia đình được Quốc Hội thông qua ngày 09/06/2000 là
cơ sở pháp lý xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến
bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia
đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình.
Để xác định đuợc một cách thức tổ chức hợp lý nhất các quan hệ tài sản ,
Luật hôn nhân và gia đình đã đề cập đến chế độ tài sản của vợ chồng; là các quy
phạm pháp luật điều chỉnh việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản
của vợ chồng và xác định những xử sự được phép liên quan đến những tài sản. Ở

Việt Nam, pháp luật công nhận chế độ tài sản riêng của vợ, chồng. Khi hôn nhân
đang tồn tại, mỗi bên hoặc cả hai bên đều có quyền xác định quyền sở hữu riêng.
Chế độ đó vừa tạo điều kiện cho họ chủ động trong hoạt động kinh doanh, vừa
tránh được những rủi ro có thể xảy đến cho cuộc sống gia đình. Đây là cơ sở
pháp lý đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và những bên có
liên quan.
4
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 32 khoản 1, “Tài sản
riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được
thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài sản được chia riêng cho
vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng,
tư trang cá nhân”.
a, Tài sản có trước khi kết hôn.
Trước khi kết hôn, vợ chồng đều là những chủ thể pháp lý độc lập với các
quyền và nghĩa vụ độc lập không có sự ràng buộc pháp lý trong mối quan hệ hôn
nhân gia đình. Như vậy, các tài sản có được do thu nhập từ lao động, kinh doanh
hợp pháp từ trước thời điểm kết hôn nếu không nhập vào tài sản chung thì sẽ
được quy định là tài sản riêng.
Tuy nhiên, các tài sản mà việc chuyển quyền sở hữu được giao kết trước
khi kết hôn, nhưng được thực hiện sau khi kết hôn, hay xác lập quyền sở hữu
hoàn tất sau khi kết hôn thì sẽ là tài sản chung chứ không thể là của riêng. Ví dụ,
hợp đồng mua bán nhà được giao kết và chứng nhận ngày 05/9, kết hôn ngày
08/9, đăng ký chuyển quyền sở hữu ngày 13/9. Vậy, nhà mua được là tài sản
chung của vợ và chồng.
b, Tài sản thừa kế riêng, tặng cho riêng
Trong trường hợp nhận tài sản do thừa kế theo pháp luật, vợ hay chồng
xuất hiện với tư cách cá nhân người thừa kế theo pháp luật. Tài sản thuộc sở hữu
riêng của cá nhân được nhận, các quy định về thừa kế theo pháp luật, hàng thừa
kế đã được quy định tại Điều 674, 676 - bộ luật dân sự.
Trong trường hợp di tặng hoặc tặng cho trong gia đình mà trên chứng thư

chỉ có tên một người: tài sản được di tặng hoặc được tặng cho trong trường hợp
5
này thuộc về người đó. Nếu trong trường hợp tặng cho hoặc di tặng mà không
ghi rõ người nhận là vợ hay chồng thì tùy vào tính chất của vật nếu người thụ
hưởng là cả vợ và chồng, thì tài sản rơi vào khối tài sản chung.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng được lập làm người thừa kế theo di chúc
của một người khác, phần di sản mà người thừa kế theo di chúc được hưởng,
ngay nếu như không được xác định bằng các tài sản cụ thể, vẫn là của riêng
người thừa kế theo di chúc.
c, Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng
Nếu vợ chồng yêu cầu chia một phần trong khối tài sản chung, hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ tài sản đó là tài sản riêng của mỗi người, vợ chồng có thể sử
dụng tài sản đó để đầu tư, kinh doanh hay thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng.
d, Tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân
Đồ dùng, tư trang cá nhân có thể hiểu là những tài sản dùng để phục vụ
nhu cầu tối thiểu của mỗi người nhưng không quá lớn so với khối tài sản chung.
Ví dụ như quần áo là vật tiêu dùng, không thể được coi là hình thức tích lũy của
cải. Quần áo được mua sắm bằng một phần thu nhập do lao động là một phần tài
sản chung. Tuy nhiên, quần áo không bao giờ được xem là tài sản chung của vợ
và chồng kể cả một bộ quần áo nào đó đòi hỏi một số tiền lớn như bộ veste, áo
dạ hội,…Thực tiễn vẫn thừa nhận rằng quần áo đó là của riêng người sử dụng,
đây như là những món nợ của khối tài sản riêng đối với khối tài sản chung.
Nếu tài sản là một món trang sức như nhẫn, dây chuyền, hoa tai,...bằng
kim loại quý hoặc đá quý dành riêng cho phụ nữ là của riêng người vợ; đồng hồ
đeo tay của riêng người chồng. Với tính chất là một món trang sức đắt tiền mà
việc mua sắm đòi hỏi huy động một khối lượng tiền lớn so với thu nhập thường
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×