Mục lục
I. Lời nói đầu: 1
II. Cơ sở lý luận: 1
1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ 1
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
3
2.1, Hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ 3
2.2, Có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 4
2.3, Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật
của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
5
2.4, Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra.
5
3. Xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
7
III. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ.
10
IV. Một số nhận xét, kiến nghị hoàn thiện và bổ sung các quy định pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
14
IV. Kết luận 15
Tài liệu tham khảo 16
1
Đề bài: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn
Bài làm
I. Lời nói đầu:
Hiện nay, với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, số lưọng
máy móc, thiết bị hiện đại mang tính tự động hóa cao được sử dụng ngày một
nhiều, cùng với đó kéo theo tai nạn gia tăng ảnh hưởng đến an toàn về tính
mạng, sức khỏe, tài sản…của mọi người. Những sự vật mà hoạt động của chúng
luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại được gọi là nguồn nguy hiểm cao độ. Trong
xã hội, khi quyền, lợi ích bị xâm phạm đều có khuynh hướng đòi hỏi một sự bồi
thường nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại. Trong các quy
định của BLDS về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Điều 623 về
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao
độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và
những người xung quanh.
II. Cơ sở lý luận:
1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
Trong đời sống thực tế hiện nay bên cạnh những thiệt hại do hành vi của
con người gây ra, có nhiều thiệt hại do tài sản là các phương tiện giao thông,
máy móc, công trình xây dựng, súc vật gây ra. Theo mục III.1.a Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP nếu muốn xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ thì phải xác định nguồn gây ra thiệt hại có phải là
nguồn nguy hiểm cao độ hay không.
2
Theo Điều 623 khoản 1 Bộ luật dân sự: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao
gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú
dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”
Về cơ bản là phương tiên giao thông vận tải cơ giới, những phương tiện
vận tải hoạt động trên đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không
được trang bị và hoạt động bằng máy móc. Hệ thống tải điện là dây truyền dẫn
điện, máy phát, cầu dao,…và chúng đều đang hoạt động. Vũ khí bao gồm vũ khí
quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, vũ khí thô sơ...(Quy chế quản lý vũ khí, vật
liệu nổ và công cụ hỗ trợ ban hành kèm theo Nghị định 47/CP ngày 12/08/1996).
Chất cháy, chất nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn dễ xảy ra cháy nổ (Điều
3, Luật phòng cháy chữa cháy). Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc
với oxy trong không khí, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ
nhất định (ví dụ: diêm tiêu, phốt pho, thuốc đạn, xăng,...). Chất nổ là hỗn hợp
hoá chất đặc biệt mà khi có tác động lý, hoá học hoặc nhiệt năng đủ liều lượng sẽ
gây ra phản ứng hoá học làm phát nổ và phá huỷ môi trường xung quanh.
Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khoẻ, tính
mạng của con người, động vật cũng như đối với môi trường xung quanh (ví dụ:
ni-cô-tin, thạch tín, các loại muối thuỷ ngân...).
Chất phóng xạ là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ trên
70 kilo Becơren trên kilogam (70Kbo/Kg) (khoản 3, điều 3, Pháp lệnh an toàn và
kiểm soát bức xạ 1996).
Thú dữ là động vật bậc cao có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa,
lớn , rất dữ, có thể làm hại người. Ví dụ: hổ, báo, gấu, voi… Một số loại động
vật nguy hiểm khác như: cá sấu, trăn, rắn,…thì có thể áp dụng tương tự pháp luật
để giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Các nguồn nguy hiểm cao độ
khác do pháp luật quy định là hướng mở cho các nguồn nguy hiểm mới.
3
Do quy định chỉ liệt kê một số nguồn nguy hiểm cao độ nên không thể đầy
đủ và chi tiết nên để xác định nguồn nguy hiểm cao độ còn cần phải căn cứ vào
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó. Ví dụ: Trong phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ áp dụng Luật giao thông đường bộ. Theo điểm 13 Điều 3
Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe
ôtô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe
tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
2.1, Hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Trách nhiệm bồi thường do hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ phải
có các yếu tố sau:
Thứ nhất, thiệt hại phải do bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt
động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra. Là loại tài sản đặc biệt luôn tiềm ẩn
khả năng gây thiệt hại cho người xung quanh, nên người vận hành, quản lí phải
tuân thủ mọi quy định về an toàn.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nằm
ngoài sự kiểm soát, ngăn chặn của con người. Do vậy, việc xác định này ý nghĩa
quan trọng khi xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu do tác động của con
người, sẽ áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ví dụ
như lái xe phóng nhanh, thả thú dữ tấn công người…những thiệt hại phát sinh từ
những hành vi của con người chứ không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại. Với các trường hợp như: xe bị hỏng phanh, cây tự nhiên gẫy,
chập cháy hệ thống điện,…sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
4
nguy hiểm cao độ vì đó là những hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm mà con
người không thể hoặc khó có thể kiểm soát.
Thứ hai là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang trong tình trạng vận hành,
hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông
trên đường; chập hệ thống điện trong nhà máy công nghiệp đang hoạt động…
Thứ ba là hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có tính trái
pháp luật. Do vậy, các hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại mà
không trái pháp luật thì không phải bồi thường, ví dụ như dùng xe ủi phá dỡ các
công trình xây dựng trái phép,…
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt
hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân
sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy
hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2, Có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Do tính chất nguy hiểm vốn có của nguồn nguy hiểm cao độ nên trong quá
trình vận hành có thể gây ra thiệt hại. Đó là những thiệt hại về tài sản, tính mạng,
sức khỏe của người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, những người
xung quanh…Thiệt hại là tiền đề, là điều kiện bắt buộc phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng vì mục đích của trách nhiệm bồi thường là khôi
phục lại những tổn thất về tài sản, tinh thần như ban đầu.
Tuy nhiên không phải mọi chủ thể bị thiệt hại do nguồn nguy hiểm được
hưởng trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm này được đặt ra những người bị
thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm
cao độ. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tự chịu mọi thiệt hại xảy ra, còn
5
thiệt hại do quá trình lao động sẽ được bồi thường theo cách khác như bảo hiểm
tai nạn lao động.
Việc xác định thiệt hại và thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại áp dụng các
quy định chung về bồi thường thiệt ngoài hợp đồng tại Điều 608 đến 612 Bộ luật
dân sự và chi tiết tại mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP.
2.3, Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật
của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên
nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại
xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Theo quan điểm của triết học, nguyên nhân và kết quả luôn có mối liên hệ
nối tiếp nhau, nguyên nhân là cái đi trước, là cái sinh ra kết quả; nhưng một kết
quả có thể lại do nhiều nguyên nhân sinh ra hoặc ngươc lại. Nếu không xác định
được mối quan hệ nhân quả, là không xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại sẽ
dễ dẫn đến các sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự. Xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, điều quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây
ra, các nguyên nhân đó xuất phát từ đâu,…khi tìm được mối quan hệ mới có thể
xác định trách nhiệm bồi thường.
2.4, Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.
Trong thực tế, có những thiệt hại phát sinh không phải do lỗi trực tiếp từ
con người mà là do các tài sản. Trong những trường hợp đó, rất khó xác định
chính xác để áp dụng và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự. Theo
khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi
không có lỗi”.
6