www.bka.vn
Lịch sử chiến tranh trải qua ba giai đoạn phát triển:
Vũ khí lạnh
Vũ khí nóng
Vũ khí nhiệt hạch
Cả ba giai đoạn này gắn liền với những phát minh khoa học và kỹ thuật.
Giai đoạn vũ khí lạnh chiếm dài nhất trong lịch sử chiến tranh (khoảng
trên 5000 năm). Vũ khí chủ yếu là giáo mác, kiếm cung.
Giai đoạn vũ khí nóng bắt nguồn từ thế kỷ thứ X sau công nguyên, khi
Trung Quốc phát minh ra thuốc súng. Kỹ thuật này được người ả Rập
truyền vào Châu âu. Kết hợp với kỹ thuật do các cuộc cách mạng Công
nghiệp mang lại, uy lực của vũ khí có sự tiến triển nhảy vọt. Vũ khí nóng ra
đời thay cho vũ khí lạnh.
Vũ khí nhiệt hạch ra đời sau đại chiến lần thứ II, khi những phát minh
trong lĩnh vực vật lý hạt nhân được dùng vào chiến tranh hạt nhân, chiến
lược hạt nhân v.v.
Ngày nay các nước trên thế giới đều nhận thấy những tác động của khoa
học kỹ thuật công nghệ trong công cuộc hiện đại hoá Quốc phòng đối với
việc nâng cao sức mạnh tổng hợp Quốc gia và tăng cường thực hiện cạnh
tranh cục diện chiến lược Thế Giới. Nhưng những tác động và ảnh hưởng
sâu sắc nhất của khoa học kỹ thuật công nghệ đối với việc phát triển vũ khí ,
khí tài nói chung , đặc biệt là các phương tiện tiến công đường không (như
tên lửa , máy bay...). Các phương tiện tiến công đường không là các vũ khí ,
trang thiết bị dùng để tiến công từ trên không vào các mục tiêu mặt đất, mặt
nước... của đối phương, gồm: các phương tiện mang, phá huỷ, dẫn đường,
tác chiến điện tử... phục vụ cho tiến công đường không.
Các phương tiện tấn công đường không hiện đại như máy bay ,tên lửa,
bom đạn đã có ảnh hưởng rất lớn tới diễn biến và kết cục của chiến tranh
đem lại cho chiến tranh một bộ mặt mới, không còn phân biệt đâu là biên
giới , đâu là tiền tuyến (Mĩ đã đưa B52 từ đảo Wam đến đánh Việt Nam).
Theo quan điểm của Mỹ và một số nước phương Tây thì các phương tiện
tấn công đường không giữ vai trò quyết định để đạt được các mục tiêu của
chiến tranh. Vì vậy việc áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại để
phát triển các phương tiện tiến công đường không là tối cần thiết.
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam , Vùng Vịnh và Nam Tư cho thấy rằng
trong chiến tranh kỹ thuật cao, vũ khí trang bị không chiến là lực lượng chủ
đạo, có ảnh hưởng đến quá trình và kết thúc chiến tranh. Vũ khí trang bị
không chiến được các nước quan tâm nghiên cứu và không ngừng cải tiến,
dựa trên những tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ.
Máy bay, một phương tiện chiến đấu quyết định sự tồn tại và thể hiện sức
mạnh của không quân. Máy bay là một thành phần chủ yếu của các phương
tiện tiến công đường không.
Máy bay là khí cụ bay có hoặc không có người lái, nặng hơn không khí,
có thiết bị động lực để tạo lực kéo hoặc đẩy và thiết bị tạo lực nâng khi
chuyển động trong khí quyển.
Sự ra đời và phát triển của máy bay quân sự gắn liền với sự phát triển của
kỹ thuật hàng không. Máy bay quân sự được ứng dụng những thành tựu
khoa học kỹ thuật mới nhất (trong các lĩnh vực vật liệu, điều khiển, dẫn
đường vô tuyến, vi xử lý, lade...), có ưu thế về tính cơ động cao, tốc độ lớn
(thường vượt âm và siêu vượt âm), tầm hoạt động rộng và trong mọi thời
tiết, có khả năng tiếp nhiên liệu trên không, có hệ thống cấp cứu hiện
đạiv.v...
*Máy bay chiến đấu
Máy bay chiến đấulà nòng cốt của hệ vũ khí không quân, trình độ của
máy bay chiến đấu thường phản ánh thực lực không chiến và trình độ công
nghiệp của một Quốc gia. Những loại này được các nước nghiên cứu chế tạo
gồm: F22 của Mỹ, I.42 của Nga, EF 2000 của 4 nước Anh, Đức, ý, Tây Ban
Nha. Đáng chú ý nhất là những loại máy bay chiến đấu của Mỹ và của Nga
tính năng và khả năng chiến đấu của chúng rất ưu việt, có tính cơ động cao,
khả năng tàng hình và tác chiến tầm xa trong mọi thời tiết ngày và đêm, có
hoả lực mạnh, độ chính xác cao. Ví dụ: F22 của Mỹ có độ cao phản ứng tác
chiến nhanh bán kính hoạt động 1450 km, có khả năng tàng hình ở mọi tần
phổ.
*Máy bay ném bom:
Hiện nay một số nước đã nghiên cứu chế tạo máy bay chiến lược tàng
hình có thiết bị gây nhiễu hiện đại, có thể đột kích qua lưới lửa phòng không
của đối phương với tốc độ lớn ở độ cao từ 15 tới 18 km với bán kính tác
chiến 1900 km, được trang bị nhiều tên lửa và bom (4 đến 6 tấn bom, 4 đến
6 quả tên lửa). Có thể tấn công đối phương từ cự ly 200 đến 400 km.
* Máy bay vận tải quân sự:
Máy bay vận tải quân sự có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao khả
năng cơ động, phản ứng nhanh và bảo đảm hậu cần Quân đội. Nhiều nước
tích cực phát triển máy bay tầm trung kiểu mới có tốc độ nhanh có trọng tải
lớn và khả năng bay thấp.
Ví dụ : TU 330 của Nga trọng tải 35 tấn, tốc độ 800 đến 850 km/h, độ
cao hành trình là 11 km, có thể bay xa 3000 km
*Vũ khí trang bị trên máy bay:
Hiện nay vũ khí trang bị trên máy bay rất hiện đại, tính năng kỹ thuật rất
thuận lợi cho việc tấn công đối phương: Tăng tầm bắn để máy bay có thể
công kích từ xa, ngoài tầm hoả lực của đối phương, sử dụng kỹ thuật cao
như vi điện tử, quang điện tử, hệ thống định vị toàn cầu, hệ thống điều khiển
chính xác.
Ví dụ: Tên lửa R77 của Nga có tầm bắn 90 Km(nhỏ nhất 1 Km) sử dụng
cơ chế tự tìm mục tiêu bằng RaDa chủ động ở giai đoạn cuối, có thể tác
chiến trong mọi thời tiết độ chính xác cao.
Một thành phần quan trọng nữa của các phương tiện tiến công đường không
là tên lửa.
Tên lửa là khí cụ bay không người lái, có hoặc không có điều khiển,
thường chỉ sử dụng một lần, chuyển động dưới tác dụng của lực đẩy do động
cơ phản lực tạo ra.
Quá trình điều khiển tên lửa diễn ra trên toàn bộ hoặc một phần quỹ đạo
bay nhờ hệ điều khiển cánh lái, luồng phụt hay kết hợp cả hai loại.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, những mục tiêu quan trọng
thường được bảo vệ bởi một hệ thống phòng không rất mạnh, do đó dùng
máy bay chiến đấu khó có hiệu quả. Vì vậy, đột kích bằng tên lửa dần trở
thành thủ đoạn mở đầu cuộc chiến.
* Tên lửa chiến thuật “đất đối đất”:
Là loại tên lửa tăng khả năng tấn công, biện pháp cơ bản là giảm trọng
lượng, tăng lượng thuốc nổ cho động cơ, tăng tầm bắn từ 150 đến 300 Km.
Tên lửa được lắp đặt máy thu tín hiệu của hệ thống định vị toàn cầu, có thể
tự tìm mục tiêu, xác suất chúng đích của loại này rất cao.
*Tên lửa hành trình
Tên lửa có những phát triển mới, đơn giản hoá thao tác, giảm thời gian
chuẩn bị, xác suât trúng đích cao. Tên lửa được lắp đặt các thiết bị kỹ thuật
tiếp hệ thống định vị toàn cầu, các xensơ điều khiển tên lửa có thể nhận dạng
mục tiêu trong đêm tối, sương mù, tầm bắn 400 Km.
Tăng khả năng sống còn của các phương tiện tiến công đường không
Trong tác chiến bảo vệ được vũ khí phương tiện chủ lực của mình vào
thời cơ và địa điểm quan trọng nhiều khi có giá trị quyết định hơn việc tiêu
diệt các mục tiêu của đối phương. Vì vậy khoa học kỹ thuật, công nghệ cao
không chỉ hướng tới tăng khả năng sống còn hoả lực, sức cơ động mà còn
được ứng dụng rộng rãi mà còn tăng khả năng sống còn của vũ khí trang bị.
Nhiều loại máy bay tàng hình đã được đưa vào sử dụng, ví dụ như: F-
22(Mỹ) có khả năng tàng hình ở mọi tần phổ, mặt cắt phản xạ RaDa chỉ
bằng 1% của F-15 (khoảng 0,065-0,08). Ngoài ra còn có các biện pháp tàng
hình hồng ngoại, âm thanh và ánh sáng I-42 của Nga cũng là loại máy bay
tàng hình vừa có khả năng tiêm kích và cường kích. Sự sống còn được nâng
lên nhờ khả năng tăng giảm tốc độ trong thời gian ngắn (như F12 ở độ cao
9140m có thể tăng tốc độ trong từ M0,8 lên M1,8 trong khoảng từ 45 đến 55
s, góc công kích lớn từ 45-50-60 độ cho phép nhanh chóng tiếp cận và cách
xa đối phương khi cần thiết, có RaDa ở phía sau và điều khiển tên lửa tiêu
diệt máy bay của đối phương phía sau (Su-55 của Nga)). Các loại tên lửa
nhử mồi có thể bay cự ly thấp qua các địa hình phức tạp, trong mọi điều kiện
thời tiết, ngày đêm để tránh lưới lửa phòng không đối phương với tốc độ
siêu âm và dẫn máy bay tới khu vực chỉ định với độ sai số 1m. Có thể tấn
công mục tiêu mặt đất từ cự ly 250 km.
Trong đà phát triển khoa học kỹ thuật ngày nay và những thành tựu của
nó có rất nhiều tác động đến kỹ thuật quân sự đặc biệt là loại vũ khí có ứng
dụng công nghệ cao. Vì rằng vũ khí công nghệ cao, loại vũ khí được nghiên
cứu chế tạo dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, có sự nhảy vọt về chất lượng và tính năng kỹ thuật. Từ những
năm 50 của thập kỷ này đã xuất cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên các
lĩnh vực như: khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo, rôbốt, điện tử và Xensơ,
quang học, quang tử học, năng lượng định hướng, công nghệ sinh học, vật
liệu mới, sức đẩy và động cơ, nguồn năng lượng, khoa học về môi trường và
khí quyển... Đặc biệt trong 4 lĩnh vực khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo,
rôbốt, điện tử, vật liệu mới và nguồn năng lượng đã phát triển mạnh và đạt
những được những bước tiến mang tính chất cách mạng vào thập kỷ 80.
Bước đột biến này có ý nghĩa to lớn đến mức kể từ thập kỷ 80 loài người đã
nhìn nhận cuộc cách mạng này trong sắc thái công nghệ và gọi nó với cái tên
“cuộc cách mạng công nghệ”. Một số tài liệu còn gọi là “cuộc cách mạng
công nghệ cao” gọi tắt là “công nghệ cao”.
Công nghệ cao đã có tác động trực tiếp vào nhiều lĩnh vực đời sống, nâng
cao về chất lượng đời sống sản xuất, năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm. Giới quân sự các nước phát triển đã chớp thời cơ và nhanh chóng ứng
dụng của thành tựu khoa học và công nghệ cao vào nghiên cứu chế tạo, sản
xuất hàng loạt vũ khí, khí tài quân sự
ảnh hưởng của công nghệ vật liệu đối với các phương tiện tiến công đường
không:
Khởi điểm của mọi cuộc đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong các thập
kỷ gần đây là việc triển khai những vật liệu có tính năng đặc biệt như Silíc
cho công nghiệp chế tạo vi mạch, máy tính sợi quang dẫn cho ngành quang
điện tử và viễn thông, các vật liệu gốm cho kỹ thuật nhiệt độ cao, các vật
liệu, các tinh thể áp điện, các hợp kim nhỏ cho ngành hàng không,vũ trụ...
Những vật liệu mới này mang tính chất chiến lược đối với sự phát triển
của nền kinh tế và của xã hội sẽ được ưu tiên phát triển nhất:
Các vật liệu kết cấu ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các ngành
xây dựng hoá chất, giao thông vận tải kỹ thuật trên biển và ngoài khơi, thể
thao và giải trí, môi trường, công nghệ sinh học.v.v.
Các vật liệu gốm trong 20 năm tới với tính chất như có độ cứng cao,
chống ăn mòn có khả năng thay thép dùng trong y, sinh học các loại gốm
đặc biệt sẽ được sử dụng trong lĩnh vực nhiệt độ cao (trong các động cơ và
tuốc bin của các ngành công nghiệp ô tô, xe tăng và hàng không vũ trụ và kỹ
thuật công trình ). Cũng như lĩnh vực nhiệt độ thấp và các lĩnh vực y sinh.
Các vật liệu điện tử , trong tương lai gần, vật liệu silíc hiện bá chủ trong
công nghiệp điện tử có thể sẽ được thay thế bằng các vật liệu nằm trong
khoảng từ nhóm II đến nhóm V của bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học
của Mendeleep.
Các vật liệu siêu dẫn. Là những vật liệu ở một nhiệt độ tới hạn nào đó sẽ
trở thành dẫn điện một cách “siêu việt” do bị mất hoàn toàn điện trở.
Tóm lại trong công nghiệp vật liệu mới không những tạo ra những ứng
dụng kỹ thuật mới, nét nổi bật của nó trong những năm gần đây là công nghệ
vật liệu hấp thụ. Nhờ công nghệ này kỹ thuật tàng hình ra đời. Ngày nay
trong lĩnh vực hàng không và đặc biệt trong lĩnh vực quân sự các máy bay
tàng hình xuất hiện và đã được dùng trong chiến tranh vùng Vịnh 1991. Kĩ
thuật tàng hình cũng được áp dụng trong tên lửa tàng hình, tên lửa đạn đạo.
Trước sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển của kỹ
thuật máy tính, kỹ thuật thông tin, và việc ứng dụng những thành tựu đó
ngày càng rộng rãi trong lĩnh vực quân sự, nhất là đối với các phương tiện
tiến công đường không. Các nước phát triển, tiêu biểu là Mỹ đã dấy lên cuộc
cách mạng quân sự mới. Nền tảng của cuộc cách mạng này là cách mạng kỹ
thuật quân sự mà cốt lõi là cách mạng thông tin.
Sau chiến tranh vùng Vịnh xuất hiện một khái niệm mới “chiến tranh
thông tin”. Nhiều nước đã khẳng định thời đại chiến tranh thông tin đã đến,
chiến tranh thông tin sẽ làm chủ chiến trường.
Sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật điện tử-viễn thông-tin học và công
nghệ vật liệu đã làm biến đổi sâu sắc chất lượng thông tin trong quân sự làm
xuất hiện ngày càng nhiều các loại vũ khí “tinh khôn” “vũ khí đa năng”.
Sự phát triển mạnh mẽ này đã tác động sâu sắc tới các phương tiện tiến
công đường không, là phương tiện chủ yếu trong chiến tranh ngày nay, nó
làm cho khả năng sát thương lớn, thời gian chiến tranh rút ngắn đáng kể :
như Mỹ gây chiến tranh với Việt nam trong 20 năm, nhưng Mỹ gây chiến
tranh với irăc và Nam Tư chỉ trong vài tuần là kết thúc triến tranh.
Sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện tiến công đường không ảnh
hưởng tới tổ chức cơ cấu lực lượng vũ trang, với mối quan hệ giữa nhân lực
và kỹ thuật.
Cơ cấu lực lượng vũ trang trong chiến tranh kỹ thuật cao cũng tự thay
đổi mạnh mẽ, với các phương tiện tiến công đường không xuất hiện những
binh chủng mới như bộ đội tên lửa, bộ đội tác chiến điện tử , bộ đội phòng
thủ vũ trụ v.v.
ảnh hưởng của các phương tiện tiến công đường không tới nghệ thuật
quân sự:
Nghệ thuật quân sự là tổng hợp lý luận và thực tiễn về chuẩn bị tiến hành
chiến tranh, gồm chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.
Lý luận nghệ thuật quân sự là bộ phận chủ yếu của khoa học quân sự, nghiên
cứu các quy luật và tính chất, đặc điểm chiến tranh, xác định những nguyên
tắc và phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang.
Những ảnh hưởng của các phương tiện tiến công đường không đến nghệ
thuật quân sự ccó thể nói có tính chất cách mạng, nó ảnh hưởng sâu sắc đến
một hệ thống các quan niệm, tư tưởng Quân sự, phương thức tiến hành chiến
tranh, chiến thuật chỉ huy...
Quan niệm về chiến trường: với sự phát triển của các phương tiện tiến công
đường không hiện đại quan niêm về chiến trường thay đổi. Không gian
chiến trường rộng lớn, không phân biệt rõ tiền tuyến, hậu phương, chiến
trường không giới hạn ở biên giới mà lan ra cả lãnh thổ. Trung tâm sẽ trở
thành vùng chiến quan trọng, các mục tiêu trên suốt chiều sâu chiến dịch
(100-6000 Km) cũng sẽ đứng trước sự uy hiếp to lớn của cuộc tấn công từ
đất liền hoặc trên biển bằng các vũ khí tầm xa như tên lửa có độ chính xác
cao, sức công phá mạnh. Mật độ phương tiện bay(máy bay, trực thăng, tên
lửa) sẽ rất lớn, chiến tranh điện tử và tác chiến C3I kết hợp chặt chẽ với vũ
khí sát thương “cứng” làm cho không gian chiến trường mở rộng ra nhiều-
chiến trường tập thể.
Phương thức tiến hành chiến tranh: đánh nhanh, giải quyết nhanh với các
phương tiện tiến công đường không được đảm bảo bằng một hệ thống chỉ
huy tác chiến phản ứng nhanh.
Khả năng cơ động nhanh: ngày nay, trực thăng là phương tiện cơ động lực
lượng chủ yếu, quy mô cấp chiến dịch, chiến thuật ở chiều sâu lớn. Trong
vài năm tới, khi người ta có thể chế tạo những trực thăng có tốc độ 300 km/h
trọng tải 2000 kg, có khả năng bay liên tục trong nhiều giờ thì việc thực hiện
cơ động càng nhanh chóng hơn.