Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Chi phí SX TBCN và lợi nhuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.49 KB, 4 trang )

6. CHI PHÍ SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA VÀ LỢI NHUẬN
Vị trí
- tr 32-49, Chương I, phần thứ nhất tập thứ 3 – quyển III (toàn bộ quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa), phần I ( Các chương I-XXVIII), BTB
Đối tượng nghiên cứu
Thoạt nhìn thì chúng ta tưởng có hai đối tượng nghiên cứu là chi phí sx và lợi
nhuận nhưng thực chất chi phí sản xuất và lợi nhuận là một vấn đề, là một đối
tượng nghiên cứu.
Giá trị của những hàng hóa sản xuất theo lối tư bản chủ nghĩa gồm bộ phận tư
bản bất biên, bộ phận tư bản khả biến và giá trị thặng dư. Nhưng ở bề ngoài xã
hội, giá trị biểu hiện thành tổng ố của chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận. Và
đối tượng nghiên cứu của chương này là gia trị dưới những hình thái chuyển hóa
của nó. Ở đây không nghiên cứu bản thân chi phí sản xuất và bản thân lợi nhuận
mà chỉ nghiên cứu chúng như những hình thái mà hộp chung lại thì xuyên tác
bản chất của giá trị. Tư bản và sự tăng thêm của nó thay thế lao động quá khứ và
lao động mới, nhưng điều đó ko chỉ xuyên tạc bản chất của giá trị mà còn xuyên
tạc cả bản chất của tư bản và của giá trị thặng dư.
Phương pháp nghiên cứu:
Mác sử dụng phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể và kết hợp logic với lịch
sử.
Nội dung
I. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
1.khái niệm: chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của
những tư liệu sản xuất và giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng
hóa cho nhà tư bản.
Giá trị hàng hóa bằng c + v + m. Nhưng đối với nhà tư bản để sản xuất hàng
hóa, họ chỉ cần chi phí ra một lượng tư bản nhất định để mua tư liệu sản xuất (c)
và mua sức lao động (v) . Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và
ký hiệu bằng chữ k
k = c + v
Giá trị của bất cứ hàng hóa nào được sản xuất theo kiểu tư bản chủ nghĩa (w)


cũng đều biểu thị bằng công thức W = c + v+ m nếu trong giá trị sản phẩm ấy,
chúng ta đem trừ giá trị thặng dư m di, thì sẽ còn lại cái ngang giá, hay cái giá trị
nằm trong hàng hóa bù lại tư bản c + v được chi ra dưới hình thái các yếu tố sản
xuất.
Cái mà nhà tư bản tốn phí để sản xuất ra một hàng hóa và cái mà bản thân việc
sản xuất ra hàng hóa đó phải tổn phí, là hai đại lượng hoàn toàn khác nhau. Phần
giá trị của hàng hóa do giá trị thặng dư cấu thành thì không tốn phí gì cho nhà tư
bản cả, chính là vì nó làm cho làm cho công nhân tốn phí lao động không được
trả công và như vậy chi phí sản xuất ra là giá trị thực tế của bản thân hàng hóa:
Như vậy công thức : w= c+v+m sẽ chuyển hóa thành w = k +m hay là giá trị
hàng hóa = chi phí sản xuất + giá trị thặng dư
Như vậy, chi phí mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa được đo bằng chi phí
về tư bản; còn chi phí thực tế của nó thì được đo bằng chi phí về lao động.
1
Vì vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa của hàng hóa, về mặt lượng, khác với
giá trị của nó hay là khác với chi phí sản xuất thực tế của nó; chi phí sản xuất ấy
thấp hơn giá trị hàng hóa, vì rằng nếu W = k + m thì k = W – m . Phạm trù chi
phí sản xuất không có quan hệ gì tới sự hình thành giá trị hàng hóa hay tới giá trị
của tư bản.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , chi phí sản xuất mang cái vẻ bề ngoài giả
tạo của một phạm trù thuộc về bản thân việc sản xuất ra giá trị.
Như vậy, giá trị sản xuất cũ ( tư bản bất biến) tái hiện với tư cách là một bộ phận
cấu thành của giá trị sản phẩm, nhưng nó không nảy sinh trong quá trinh sản
xuất hàng hóa này. Nó chỉ tồn tại với tư cách là một bộ phận cấu thành của giá
trị sản phẩm , vì trước đây nó là một bộ phận cấu thành tư bản ứng trước. yếu tố
chi phí sản xuất có 2 ý nghĩa: một mặt, nó nhập vào chi phí sản xuất của hàng
hóa, vì nó là một bộ phận cấu thành giá trị hàng hóa bù lại tư bản đã chi phí; mặt
khác, nó là một bộ phận cấu thành của giá trị hàng hóa, chỉ vì nó là giá trị tư bản
đã chi phí, hay cũng có thể nói: vì chi phí sản xuất về tư liệu sản xuất là chừng
ấy.

Đối với bộ phận cấu thành khác của chi phí sản xuất hay là tư bản khả biến là
sức lao động được được coi là giá trị, trong quá trình sản xuất nó được coi là cái
sáng tạo ra giá trị.
Như vậy, bộ phận khả biến của giá trị tư bản ứng trước biểu hiện ra dưới hình
thái một tư bản được chi làm tiền công, dưới hình thái một tư bản dùng để trả
giá trị hay giá cả, của toàn bộ lao động đã tiêu phí trong sản xuất.
Kết luận: chi phí sản xuất một mặt, biểu thị tính chất đặc thù của sản xuất tư bản
chủ nghĩa, vì chỉ trong chủ nghĩa tư bản, thực thể của chủ nghĩa tư bản mới bị
che lấp bởi chi phí tư bản.
Mặt khác, chi phí sản xuất chỉ hoàn toàn không phải là một khoản chi phí chỉ có
trong khoản kết toán tư bản chủ nghĩa mà thôi.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Ý nghía lý luận: Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn
hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà tư bản. Sự xuất hiện khái niệm này đã xoá
đi danh giới giữa tư bản bất biến c và tư bản khả biến v, che dấu đi nguồn gốc
của giá trị thặng dư (đó là tư bản khả biến v).
Ý nghĩa thực tiễn: Bất cứ nền sản xuất , sau khi thực hiện giá trị hàng hóa, cũng
đều phải mua lại những yếu tố sản xuất đã tiêu dùng trong việc sản xuất hàng
hóa. Với ý nghĩa này, người ta thường gọi là giá thành sản phẩm. giá thành sản
phẩm nhất định vừa phụ thuộc vào năng xuất lao động của quá trình sản xuất ra
sản phẩm, vừa phụ thuộc “đầu vào” của các yếu tố sản xuất có vai trò quyết định
đến hiệu quả sản xuất – kinh doanh của đơn vị kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, việc tiết kiệm chi phí lao động sống và lao động
quá khứ để giảm giá thành sản phẩm bằng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tổ
chức quản lý là yêu cầu thiết thân mà mọi chủ thể sản xuất – kinh doanh đều
phải quan tâm thường xuyên.
II. Lợi nhuận:
2
Sự hình thành giá trị thì bộ phận tư bản khả biến chi cho sức lao động, trong tư
bản lao động, đã được đồng nhất với tư bản bất biến (bộ phận tư bản tồn tại

dưới hình thái tư liệu sản xuất, giá trị thặng dư đã được hình thành. Giá trị thặng
dư là số dư thừa của giá trị hàng hóa ngoài giá trị sản xuất của nó. Nhưng vì chi
phí sản xuất là bằng giá trị của tư bản đã chi phí, chi phí sản xuất này không
ngừng chuyển hóa trở lại thành những yếu tố vật chất của tư bản đó – nên số dư
thừa ấy của giá trị là phần tăng thêm của giá trị tư bản đã được chi phí cho việc
sản xuất hàng hóa, và lưu thông của hàng hóa đó quay trở về.
Giá trị thặng dư là phần tăng thêm không những của những bộ phận tư bản ứng
trước dựa vào quá trình hình thành giá trị, mà còn cả bộ phận tư bản ứng trước
không dựa vào quá trình đó; như vậy giá trị thặng dư là phần giá trị tăng thêm
không những của tư bản đã chi ra và được bù lại bằng giá cả sản xuất của hàng
hóa mà còn của toàn bộ tư bản nói chung đã được bỏ vào sản xuất.
Như vậy: giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái chuyển hóa của lợi nhuận. Do đó, một số giá trị nào đó sẽ
là tư bản, vì nó chỉ được chi ra để sản sinh ra lợi nhuận hoặc lợi nhuận sinh ra vì
một số giá trị nào đó dùng làm tư bản.
Nếu chúng ta gọi lợi nhuận là p thì công thức W = c + v + m = k + m sẽ
chuyển thành W = k + p, hay là giá trị hàng hóa = chi phí sản xuất + lợi nhuận.
Vậy, lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng là một: lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình
thái thần bí hóa của giá trị thặng dư, hình thái mà phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đương nhiên phải đẻ ra

ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận
Ý nghĩa lý luận: Nếu cung bằng cầu và do đó giá cả hàng hóa bán ra
theo đúng giá trị của nó thì số lượng lợi nhuận thu được bằng số lượng giá trị
thặng dư. Nếu cung nhỏ hoặc lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa có thể sẽ cao hơn
lượng hay thấp hơn giá trị của nó, thì từng tư bản cá biệt sẽ thu được mức lợi
nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị thặng dư. Nhưng trong toàn xã hội, tổng số
giá cả ngang bằng với tổng số giá trị hàng hóa thì tổng số lợi nhuận ngang bằng
với tổng số giá trị thặng dư.
Khái niệm lợi nhuận thực chất cũng chỉ là biến tướng của giá trị thặng dư.

Nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Theo khái niệm này
thì phần dôi ra đó không phải là do giá trị sức lao động (v) của công nhân làm
thuê tạo ra mà là do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa của nhà tư bản tạo ra.
Ý nghĩa thực tiễn: lợi nhuận là động lực của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ
nghĩa mà còn là động lực kinh tế của nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường nói
chung.
Lợi nhuận kích thích các chủ thể sản xuất – kinh doanh hàng hóa cạnh tranh,
ra sức đổi mới kỹ thuật và công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý kỹ thuật, sử dụng
tiết kiệm lao động, vật tư máy móc, nhằm tăng năng suất lao động để sản xuất ra
nhiều hàng hóa chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hạ, có lợi cho họ và
người tiêu dùng.
Quá trình theo đuổi mù quáng có thể làm cho kinh tế hàng hóa phát triển
không lành mạnh, gây nên sự mất cân đối nhiều mặt trong nền kinh tế những
3
hin tng u co nh buụn lu, trn thu, sn xut v lu thụng hng gi, hng
cm tht nghip. hay l nhng khuyt tt ca th trng.
Trong kinh tế hàng hoá, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Yêu cầu của cạnh tranh
đòi hỏi những đơn vị sản xuất hàng hoá phải thờng xuyên quan tâm tới năng suất
lao động, nâng cao chất lợng sản phẩm... để thu lợi nhuận ngày càng cao hơn.
Trong kinh tế hàng hoá, do sản xuất xã hội ngày càng phát triển, quan hệ
hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng cho nên sản phẩm hàng hoá ngày càng phong
phú và đa dạng, giao lu kinh tế và văn hoá giữa các vùng, các địa phơng, các quốc
gia ngày càng phát triển. Đời sống vật chất, tinh thần văn hoá của dân c ngày càng
đợc nâng cao.
Trong kinh tế hàng hoá do có sự phát triển của phân công lao động xã hội
cho nên sản xuất đợc chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trờng ngày càng mở
rộng. Điều đó tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản
xuất, thúc đẩy việc cải tiến công cụ lao động nâng cao trình độ kỹ thuật mở rộng
phạm vi sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
. Lợi nhuận đa các doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất đạt hiệu

quả nhất, sử dụng nguồn vốn hiệu quả nhất, và sử dụng tối đa các nguồn lực đã
cho. Lợi nhuận là mục tiêu để các nhà sản xuất kinh doanh mở rộng sản xuất và
nh vậy doanh nghiệp sản xuất trên cơ sở, trên mục tiêu là lợi nhuận. lợi nhuận là
tiếng gọi thiết tha của các nhà sản xuất kinh doanh và chỉ có lợi nhuận với là động
lực để cho họ làm bất cứ cái gì, bất cứ nơi nào
4

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×