Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Bài tiểu luận Paramyxovirus

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.16 KB, 36 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Môn :virus học
VIRUS PARAMYXO
Nhóm sinh viên:
Trần Đức Tài
Đào Duy Sơn
Cấn Văn Hùng
I. Đặt vấn đề
Hơn hai thế kỷ trước, khoa học đã đạt được thành tựu to lớn trong
việc chiến đấu lại bệnh dịch lây lan nhưng những “cuộc chiến” lớn nhất có
thể vẫn đang tiếp diễn. Bởi, ngày nay, với sự phát triển của giao thông
đường không, những căn bệnh dễ lây lan càng ngày càng lan rộng nhanh hơn
bao giờ hết. Bên cạnh đó, một số loại vi khuẩn đã có khả năng kháng kháng
sinh. Những “kẻ thù truyền kiếp” như bệnh bại liệt vẫn chưa triệt tiêu hoàn
toàn. Mặt khác, một số bệnh sau chữa trị vẫn có khả năng tái phát, với mức
độ trầm trọng hơn. Những bệnh dịch mới đang xuất hiện với tỷ lệ hàng năm
cao chưa từng có.
Trong lịch sử, nhân loại đã gặp nhiều thách thức từ sự bùng nổ bệnh
dịch truyền nhiễm và con người cũng đã sử dụng nhiều phương cách để
chống lại bệnh dịch. Dưới đây là một số cách:
Cách ly người ốm với người bình thường là một cách tiếp cận để kiểm soát
bệnh dịch từ xưa, đặc biệt là bệnh phong. Thực tiễn này được biết đến rộng
1
rãi như một “luật kiểm dịch” vào cuối thế kỷ 14, khi con người đến các bến
cảng từ những vùng lây nhiễm bệnh và phải cách ly ít nhất 40 ngày. “Luật
kiểm dịch” trở nên phổ biến trong những thế kỷ tiếp sau đó, mặc dù nó đã
được chứng minh là không hoàn toàn hiệu quả.
Trong thời kỳ dịch tả ở London vào giữa thế kỷ 19, John Snow - một bác sỹ
người Anh đã phát hiện ra rằng bệnh tả có thể lây lan qua nguồn nước ô
nhiễm. Phát hiện này của ông đã dẫn tới sáng kiến vệ sinh nguồn nước ở các
nước công nghiệp, những nơi này đã giảm đáng kể nguy cơ bùng phát dịch


bệnh. Tuy nhiên, bệnh tả vẫn đang còn là một mối đe doạ lớn tới sức khoẻ
của những nước đang phát triển - nơi khan hiếm nguồn nước sạch.
Vào thế kỷ 18, một bác sĩ người Anh khác, Edward Jenner, nghiên cứu
thành công vắc xin chữa bệnh giang mai, một trong những căn bệnh lâu đời
nhất và nguy hiểm nhất trong số những bệnh dịch của con người. Vào năm
1979, một dự án phòng ngừa đã thành công trong việc chữa trị căn bệnh này.
Những mẫu virut nhỏ được giữ lại cho mục đích nghiên cứu, điều này làm
tăng nỗi lo sợ rằng virut này có thể xuất hiện trở lại cùng với vũ khí sinh học
huỷ diệt.
Sự cần thiết về việc ra đời của một hội đồng quốc tế sức khoẻ cộng đồng đã
dẫn tới việc thành lập Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vào năm 1948. Những
quy định quốc tế về sức khoẻ đã được đề ra vào năm 1969 để hạn chế sự lây
lan của bệnh dịch truyền nhiễm qua biên giới quốc gia.
Nguyên nhân bùng phát dịch bệnh từ đâu?
Rất nhiều mối đe doạ tới sức khoẻ cộng đồng do chính con người gây ra bởi
sự thiếu hiểu biết và thiếu thận trọng của mình.
Trong những năm 1960, nhiều nơi đã triển khai việc phun thuốc trừ sâu với
quy mô lớn để ngăn chặn dịch bệnh do sâu bọ, côn trùng gây ra phá hoại
mùa màng. Tuy nhiên, do thiếu nghiên cứu kỹ lưỡng, người ta đã không tính
đến tác hại của TTS đối với sức khỏe con người, đồng thời cũng không
lường trước được rằng những dịch bệnh đó vẫn có thể bùng phát trở lại khi
các dự án phun thuốc này chấm dứt.
Chiến tranh cũng là một mối đe doạ tới sức khoẻ cộng đồng, không chỉ có
rất nhiều người chết trong cuộc chiến. Xung đột quân sự có thể phá huỷ
những hệ thống y tế, làm cho con người trở nên mẫn cảm hơn với những
bệnh dịch lây lan, đặc biệt là khi dân số đông đúc. 14 năm trước đây, khoảng
2
50.000 người Rwanda đã thiệt mạng trong vòng 1 tháng, do bệnh tả, khi họ
di cư đến một trại tị nạn đông đúc và chật hẹp.
Lạm dụng thuốc kháng sinh đã làm xuất hiện những vi khuẩn có thể kháng

thuốc đối với các phương pháp chữa trị thông thường. Điều này đe doạ khả
năng chữa trị một số bệnh nguy hiểm, như bệnh lao.
Chăn nuôi gia súc không hợp lý có thể gây ra nhiều nguy cơ về sự bùng nổ
bệnh dịch lây làn từ động vật sang người. Trên thực tế, rất nhiều bệnh dịch
mới đã xuất hiện, như bệnh bò điên, SARS hay cúm gia cầm, bắt nguồn từ
động vật.
Sự thay đổi điều kiện khí hậu có thể làm thay đổi phạm vi lây lan của những
bệnh dịch truyền nhiễm. Ví dụ, lượng mưa tăng có thể gây ra nguy cơ mắc
một số bệnh truyền nhiễm qua côn trùng.
Việc phụ thuộc vào hoá chất và phóng xạ trong điều trị bệnh tật cũng có
những rủi ro, như vấn đề dược phẩm quá hạn không được xử lý tốt, sự rò rỉ
phóng xạ,…
Tình hình dịch bệnh trên thế giới
Trong những năm đầu thế kỷ 21 mà chúng ta vừa đi qua, có 2 mối đe dọa
lớn đến sức khỏe cộng đồng: những bức thư mang vi khuẩn bệnh than ở Mỹ
và sự bùng nổ dịch SARS ở châu Á.
Năm 2001, những bức thư mang mầm mống bệnh than đã được gửi đến hai
thượng nghị sĩ và một vài văn phòng truyền thông ở Mỹ, gây tử vong 5
người và lây lan cho 17 người khác. Những vụ tấn công này gây cảnh báo
lớn và lập tức nhận được sự phản ứng của cộng đồng.
Chúng thể hiện nguy cơ tiềm tàng của việc những kẻ chống đối xã hội có thể
lợi dụng vũ khí sinh học để tàn phá nền kinh tế, xã hội. Một thông điệp lớn
kêu gọi tinh thần cảnh giác cao độ đã được truyền đến mọi quốc gia.
Bệnh SARS (hội chứng hô hấp cấp thể nặng) đã gây thiệt mạng cho hàng
trăm người và làm hàng ngàn người nhiễm bệnh trong suốt năm 2003. Bệnh
SARS được cho là có nguồn gốc từ động vật (loài cầy), xuất hiện đầu tiên ở
Trung Quốc sau đó lây lan nhanh chóng ra các nước khác, chủ yếu bởi du
khách đi máy bay. Bệnh dịch này đã làm du lịch đình trệ và làm tổn thất
hàng tỉ USD cho nền kinh tế châu Á.
3

Bên cạnh đó, các dịch bệnh từ xa xưa như cúm, lao, bại liệt vẫn trở đi, trở
lại, thậm chí tái bùng phát hay biến đổi gây ra những mối lo về sức khỏe cho
con người.
Cúm được gây ra bởi loại vi rút biến đổi thường xuyên, dễ lây lan thành dịch
bệnh. Trong thế kỷ trước, thế giới đã phải chịu đựng một vài dịch cúm lịch
sử như đợt dịch cúm Tây Ban Nha vào những năm 1918-1919, giết chết
hàng triệu người.
Hàng năm, dịch cúm ở người lan rộng nhanh chóng trên khắp thế giới vào
những mùa dịch, gây ra khoảng 3 - 5 triệu ca bệnh nghiêm trọng và 500.000
cái chết, chủ yếu ở người già. 50 năm trước, một mạng lưới giám sát toàn
cầu đã được thiết lập để theo dõi sự thay đổi định kỳ của virut cúm và phát
động những đợt tiêm vắc xin vào mùa dịch.
Cúm gia cầm, được biết tới với cái tên H5N1, đã gây ra cái chết hàng loạt ở
các loài chim hoang dã tại nhiều nơi trên thế giới và buộc con người phải
tiêu hủy hàng triệu đàn gia cầm chăn nuôi. Vi rút H5N1 đã lây nhiễm cho
một số lượng lớn những người tiếp xúc với gia cầm bệnh, nhưng may mắn
đến nay nó vẫn chưa biến đổi thành dịch bênh lây lan giữa người với người.
Mặc dù vậy, chính quyền nhiều quốc gia trên thế giới đã chuẩn bị để ứng
phó với tình hình xấu nhât. Một vài dự báo cho thấy H5N1 có thể gây ra một
dịch bệnh làm lây nhiễm khoảng 1,5 tỷ người (tức gần ¼ dân số thế giới
hiện nay) và gây ra những thiệt hại to lớn cho xã hội và nền kinh tế tòan cầu.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xây dựng chương trình hành động chiến
lược để giúp các nước đối phó với dịch cúm, đồng thời trợ giúp những nước
có dịch bệnh. Để giảm thiểu và quản lý tốt dịch bệnh cúm, Tổ chức Phòng
chống Bệnh dịch cúm Liên hợp quốc (UNSIC) đã được thiết lập vào năm
2005 để đáp ứng những yêu cầu của chính phủ các nước trong việc hợp tác
và duy trì sự ủng hộ để thực hiện những dự án phòng chống cúm ở gia cầm
và cả ở người.
Bệnh lao gây ra bới vi khuẩn lây truyền trong không khí. Đây là một trong
những bệnh truyền nhiễm gây tỉ lệ tử vong cao nhất. Vi khuẩn lao có khả

năng kháng thuốc rất cao, điều đó đã gây nhiều cản trở trong việc điều trị
bệnh. Thế giới đã phát hiện những ca bệnh lao nhờn thuốc tại ít nhất 37 quốc
gia.
Vi khuẩn lao không những nhờn thuốc với kháng sinh thông thường, mà còn
4
nhờn thuốc với một vài loại kháng sinh liều mạnh mới, điều này càng gia
tăng khi bệnh nhân không tuân thủ đúng chỉ dẫn điều trị và điều trị không
dứt điểm.
Với hậu thuẫn là sự bành trướng của căn bệnh thế kỷ AIDS (làm suy yếu hệ
miễn dịch), bệnh lao ngày càng lan rộng và trở thành một mối đe doạ lớn đối
với cộng đồng. Những người bị nhiễm HIV nếu đồng thời nhiễm lao và
không thể chữa trị dứt, có thể tử vong trong vòng vài tuần.
Bệnh bại liệt được gây ra bởi một loại virut tấn công vào hệ thống thần kinh
và gây ra chứng liệt.
Vào cuối thế kỷ 20, căn bệnh này gần như đã được triệt bỏ tận gốc nhờ vắc
xin và sự quản lý tốt. Tuy nhiên, vào năm 2003, một số nơi ở Nigeria đã
ngừng cho trẻ em uống vắc xin bởi một vài tuyên bố không có căn cứ rằng
uống vắc xin qua miệng là không an toàn.
Điều này đã dẫn tới sự tái bùng phát mạnh mẽ của dịch bệnh, làm cho hàng
nghìn trẻ em ở Nigeria bị liệt và lây lan tới những nước khác ở châu Phi,
châu Á và Trung Đông. Dưới áp lực quốc tế, Nigeria đã khôi phục lại việc
uống vắc xin cho trẻ, nhưng dịch bại liệt vấn tiếp tục kéo dài tới tận năm
2006.
Ngày nay, bệnh bại liệt đã bị đẩy lui nhưng bài học về câu chuyện xảy ra ở
Nigeria vẫn luôn nhắc nhở các quốc gia về việc duy trì cảnh giác và sẵn sàng
đối phó lại bất cứ sự bùng nổ bệnh dịch hay đột biến, từ bất kỳ vi rút nào.
Những nỗ lực vẫn phải được tiếp tục ngay cả khi dịch bệnh đã được triệt tiêu
bởi“mọi thứ đều có thể đến bất ngờ mà không ai dự báo được, chẳng hạn
trong người hợp những mẫu vi rút được cất giữ cho mục đích nghiên cứu
được “phóng” ra vô tình hay có chủ đích.

Nhằm đối phó với nguy cơ bệnh dịch cũ bùng phát và sự sinh sôi
nảy nở của các loại bệnh dịch mới, mỗi quốc gia, khu vực,mỗi người dân
không chỉ phải bảo vệ chính mình mà còn chung tay hợp tác với các quốc
gia khác nhằm đương đầu với "kẻ thù" chung của nhân loại - bệnh dịch. Từ
những nguy cơ hiểm họa do virus gây ra chúng ta phải có ý thức về việc
phòng chống virus để có thể tránh được một số hiểm họa khôn lường từ
virus gây bệnh. Do đó nhóm sinh viên chúng tôi thực hiện bài nghiên cứu về
virus paramyxo, ít nhiều sẽ mang lai cho các bạn một số kiến thưc bổ ích để
5
từ đó có thể bảo vệ mình và những người xung quanh chống lại những bệnh
dịch từ virus này.
II. Nội dung
1. Lược sử nghiên cứu virus
Ngay từ năm 1883 nhà khoa học người Đức Adolf Mayer khi nghiên cứu
bệnh khảm cây thuốc lá đã nhận thấy bệnh này có thể lây nếu phun dịch ép
lá cây bị bệnh sang cây lành, tuy nhiên ông không phát hiện được tác nhân
gây bệnh.
Năm 1884 Charles Chamberland đã sáng chế ra
màng lọc bằng sứ để tách các vi khuẩn nhỏ nhất và
vào năm 1892 nhà thực vật học người Nga Dimitri
Ivanovski đã dùng màng lọc này để nghiên cứu bệnh
khảm thuốc lá. Ông nhận thấy dịch ép lá cây bị bệnh
đã cho qua màng lọc vẫn có khả năng nhiễm bệnh
cho cây lành và cho rằng tác nhân gây bệnh có lẽ là
vi khuẩn có kích thước nhỏ bé đến mức có thể đi qua
màng lọc, hoặc có thể là độc tố do vi khuẩn tiết ra.
Giả thuyết về độc tố qua màng lọc đã bị bác bỏ
vào năm 1898 khi nhà khoa học người Hà Lan Martinus Beijerinck chứng
minh được rằng tác nhân lây nhiễm là chất độc sống (Contagium vivum
fluidum) và có thể nhân lên được. Ông tiến hành phun dịch ép lá cây bệnh

cho qua lọc rồi phun lên cây và khi cây bị bệnh lại lấy dịch ép cho qua lọc để
phun vào các cây khác. Qua nhiều lần phun đều gây được bệnh cho cây.
Điều đó chứng tỏ tác nhân gây bệnh phải nhân lên được vì nếu là độc tố thì
năng lực gây bệnh sẽ phải dần mất đi.
Năm 1901 Walter Reed và cộng sự ở Cuba đã phát hiện tác nhân gây bệnh
sốt vàng, cũng qua lọc. Tiếp sau đó các nhà khoa học khác phát hiện ra tác
nhân gây bệnh dại và đậu mùa. Tác nhân gây bênh đậu mùa có kích thước
lớn, không dễ qua màng lọc, do đó các tác nhân gây bệnh chỉ đơn giản gọi là
virus.
6
Dimitri Ivanovski Martinus Beijerinck Walter Reed
Felix d'Hérelle Frederick Twort Wendell Stanley
Năm 1915 nhà vi khuẩn học người Anh Frederick Twort và năm 1917 nhà
khoa học người Pháp Felix d'Hérelle đã phát hiện ra virus của vi khuẩn và
đặt tên là Bacteriophage gọi tắt là phage.
Năm 1935 nhà khoa học người Mỹ Wendell Stanley đã kết tinh được các hạt
virus gây bệnh đốm thuốc lá (TMV). Rồi sau đó TMV và nhiều loại virus
khác đều có thể quan sát được dưới kính hiển vi điện tử.
Như vậy nhờ có kỹ thuật màng lọc đã đem lại khái niệm ban đầu về virus và
sau đó nhờ có kính hiển vi điện tử đã có thể quan sát được hình dạng của
virus, tìm hiểu được bản chất và chức năng của chúng.
Ngày nay virus được coi là thực thể chưa có cấu tạo tế bào, có kích thước
siêu nhỏ và có cấu tạo rất đơn giản, chỉ gồm một loại acid nucleic, được bao
bởi vỏ protein. Muốn nhân lên virus phải nhờ bộ máy tổng hợp của tế bào, vì
7
thế chúng là ký sinh nội bào bắt buộc.
Virus có khả năng gây bệnh ở mọi cơ thể sống từ vi khuẩn đến con người, là
thủ phạm gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi, gây thất bát mùa màng
và cản trở đối với ngành công nghiệp vi sinh vật.
Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX trở lại đây ngày càng xuất hiện các

dạng virus mới lạ ở người, động vật mà trước đó y học chưa hề biết tới, đe
doạ mạng sống của con người. Sau HIV, SARS, Ebola, cúm A H5N1 sẽ còn
bao nhiêu loại nữa sẽ xuất hiện để gây tai hoạ cho con người.
Mặt khác, do có cấu tạo đơn giản và có genom nhiều kiểu với cơ chế sao
chép khác hẳn ở các cơ thể khác nên virus được chọn là mô hình lý tưởng để
nghiên cứu nhiều cơ chế sinh học ở mức phân tử dẫn đến cuộc cách mạng
sinh học cận đại: Sinh học phân tử, di truyền học phân tử. Vì những lý do
trên việc nghiên cứu virus đã được đẩy mạnh và trở thành một ngành khoa
học độc lập rất phát triển.
2.giới thiệu về họ paramyxoviridae
2.1 cấu tạo chung
Paramyxoviridae là họ virus có RNA ( - ),không phân đoạn. Họ này
gồm các virus quan trọng gây bệnh cho người và động vật như sởi, quai bị, á
cúm, toi gà Newcastle, sốt chó, sốt trâu bò, và một số bệnh đường hô hấp
khác.
Virion thuộc loại đa hình thái, thường có hình cầu với đường kính 50-200
nm.chứa 5-7 polypeptit và một phân tử RNA đơn âm dài. Bao quanh
nucleocapside đối xứng xoắn là màng M có cấu tạo từ protein M không
được glycoxil hóa. Phía ngoài màng M là vỏ ngoài với các gai glycoprotein
bề mặt dài khoảng 8nm. Genom dạng thẳng 16-20 Kb, khối lượng phân tử
5-7x10
6
dalton với hai đầu lặp lại trái chiều. Xâm nhập dung hợp giữa vỏ
ngoài với màng tế chất, cởi vỏ trong tế bào chất. Biểu hiện genom: Các
mARN đơn gen (monocistron) được phiên mã từ genom nhờ ARN
8
polymeraza do virus mang theo, ARN editing. Sao chép genom : ARN
polymeraza của virus tổnghợp
antigenom dùng làm khuôn để tổng hợp genom mới.
Lắp ráp trong tế bào chất. Nảy chồi qua màng sinh

chất.

9
Genome:
2.2 Một số bệnh do Paramyxovirus gây ra
2.2.1 Bệnh sởi
2.2.1.1 Bệnh sởi: là một bệnh lây nhiễm cao, cấp tính, đặc trưng bởi những
nốt ban sần, sốt và các triệu chứng hô hấp khác. Biến chứng thường xảy ra
và có thể rất nghiêm trọng. Việc sử dụng vaccin sống có hiệu quả đã làm
giảm rõ rệt tần suất mắc bệnh này tại Mỹ, nhưng bệnh sởi vẫn là một trong
những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho trẻ em ở những nước đang
phát triển. Có khái niệm cho rằng một tỷ lệ đáng kể trẻ em ở gần đến trường
tại Mỹ là nhạy với bệnh sởi bởi vì chúng không được phòng ngừa
2.2.1.2 virus sởi
Virus sởi là thành viên của chi Morbilivirus thuộc họ Paramyxoviridae.
Virus sởi chỉ có một typ không có typ phụ, là dạng đa hình thái. Dạng hình
cầu , đường kính 120-250nm, trung bình là 150nm
10

11
Cấu trúc paramyxovirus gây bệnh sởi
Genome là một chuỗi RNA âm với khối lượng 5000000. chứa 16000
nucleotit , và có hằng số lắng là 52s. Nucleocapsit được bao bọc bởi lớp
protein M. Đây là lớp protein nền kị nước. Phía ngoài là vỏ có cấu tạo từ lớp
lipit kép.
Trên bề mặt vỏ ngoài nhô ra các gai H (haemagglutinin) và F (fusion). Gai H
giúp virus gắn vào thụ thể của tế bào mẫn cảm, gai F là peptide dung hợp,
giúp vỏ ngoài virus được dung hợp với màng sinh chất của tế bào. Điều khác
biệt cơ bản giữa các virut paramixo khác la virut sởi không co hoạt tinh
neuraminidaza. Virut sởi có 6 loại protein trong đó có 3 loại cấu tạo phức

với ARN genome(L, NP và P) và 3 loại protein tham gia vào cấu kết vỏ(H
M và S)
Protein P hay protein polymeraza(protein photphorin hóa va protein L)đều
có liên quan đến chức năng polymeraza tha gia vào sự hình thành
nucleocapsit.protein H và F la 2 loai KN chính.protein H là liên kết hồng cầu
còn protein F là KN ta máu.Hoạt tính tan máu liên quan đến khả năng gây
hủy hoại tế bào sớm đồng thời giúp virut rễ ràng xâm nhạp vào tế bào.Hoạt
tính tan máu không biểu hiện nếu không có hoạt tính liên kết hồng cầu.
Virut sởi không bền do có vỏ liên kết lipit kép nên rễ rang bị hòa tan với các
dung môi phân hủy lipit cũng không bền với hơi nóng
CÁC THÀNH PHẦN PROTEIN CỦA VIRUT SỞI
Thành phần Khối lượng phân Vị trí trong hạt Chức năng
12
tử(kDa)
L protein lớn 180 – 200 Trong
nucleocapsit liên
kế voi ARN
genome
Có hoạt tính
polymeraza
Là thành phần
của phức hợp
phiên mã
H:ngưng kết
hồng cầu
79-80 Glycoprotein
xuyên màng
Hấp phụ trên
màng tế bào và
hồng cầu

P:polymeraza 70-72 Trong lõi liên kết
với nucleoprotein
Polymeraza 1
NP:nucleoprotein 60 Protein
chính,nằm trong
capsit
Có hoạt tính
polymeraza
Có chức năng
bảo vệ RNA virut
A:actin 43 Protein chính ở
trong
nucleocapsit
Không có chức
năng,có thể là
phần actin của tế
bào vật chủ
M:protein nền 36-37 Bao quanh
nucleocapsit
F:protein dung
hợp
41 Glycoprotein vỏ
ngoài
Chức năng bám
dính,dung
hợp,phân giải
màng tế bào
Có hoạt tính tan
máu
13

×