Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tài liệu BÃO VÀ VÙNG VEN BIỂN ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 28 trang )

BÃO VÀ VÙNG
BIỂN
MỤC LỤC
I.Giới thiệu
II.NỘI DUNG
II.1. Những cơn bão xoáy được hình thành như thế nào?
II.2. Sự giải thoát năng lượng cơn bão xoáy
II.3. Mắt bão
II.4. Nguồn gốc cơn bão xoáy
II.4.1. Những cơn bão ở phía bắc Đại Tây Dương
II.4.2. Những cơn bão xoáy ở Cape Verde-type
II.5. Đường đi của cơn bão xoáy
II.6. Dự báo mùa Bão
II.7. Những tổn thất từ cơn bão xoáy
II.8. Những con sóng cồn
II.9. Những cơn mưa nặng hạt
II.9.1. Nelson County, Virginia, 1969
II.9.2. Những cơn bão xoáy và đường bờ biển ở vịnh Mexico
II.9.3. Những cơn bão xoáy và đường bờ biển Đại Tây Dương
Hugo, tháng 9/1989
II.10. Sự tăng mực nước biển toàn cầu ( Global Rise in Sea Level)
II.11. Bão và vùng duyên hải Thái Bình Dương (Pacific Coastline)
II.12. Sóng nước (Waves in Water)
II.12.1. Sóng thẳng đứng (rogue waves)
II.12.2. Sóng ở vùng bờ biển (Wave on the Coastline)
III.TỔNG KẾT (Summary)
I. Giới thiệu
Một cơn bão xoáy là một thiên tai tự nhiên mà nó được gọi bởi tên của một
người, ví dụ: Andrew, Camille, Hugo, Iniki, Pauline và một số cách đặt tên khác nữa,
nhưng mỗi cơn bão có một đặc tính riêng. Mỗi một cơn bão xoáy hoạt động đủ để
chúng ta biết được đặc trưng riêng của nó. Những cơn bão xoáy là những cơn bão xoáy


nhiệt đới lớn. Chúng là những động cơ nhiệt chuyển đổi nhiệt năng của đại dương
nhiệt đới thành những cơn gió và những con sóng. Chúng là những cơn bão lớn mà có
thể tạo ra sức gió trên 240km/h. Những cơn bão xoáy có thể đẩy những khối nước biển
to lớn về phía bờ như những con sóng cồn mà tạm thời mặt nước biển tăng hơn 6m, và
những cơn mưa nặng hạt có thể gây ra những trận lũ lụt nguy hiểm, liên tục giết chết
con người từ đường bờ biển.
Cơn bão Andrew, ngày 8/1992
Cơn bão Andrew xuất hiện ở Châu Phi. Vào ngày 13/8, nó phát triển thành
những cơn giông ở trên phía tây Châu Phi. Sau đó nó di chuyển ra ngoài qua Đại Tây
Dương với biểu hiện có nhiều mưa, áp suất thấp gây ra những cơn sóng gió. Suốt ngày
17/8, trung tâm của khối khí phát triển thành một cơn bão nhiệt đới, nhưng những cơn
gió ở cấp độ cao hỗn loạn bốc lên cao vào lõi xoáy ngưng kết lại thành những đám
mây. Cơn bão Andrew trôi dạt về phía tây dọc Đại Tây Dương. Suốt ngày thứ 6, 21/8
cơn bão Andrew đã di chuyển được 1609 km và kết thúc ở Florida khi những cơn gió ở
cấp độ cao hơn ngừng hoạt động cho phép sự phát triển đám mây cao và gió mạnh. Tại
thời điểm này, một vùng áp suất cao hình thành ở phía bắc, sức mạnh cơn bão Andrew
di chuyển về hướng tây bao trùm dòng nước ấm. Vào ngày thứ 7, tốc độ gió thổi hơn
119 km/h, cơn bão Andrew đã phát triển thành cơn bão xoáy mạnh. Vào ngày chủ nhật,
23/8 sức mạnh cho cơn bão Andrew di chuyển qua Bahamas ở phía bắc của thế giới
với tốc độ gió là 240 km/h, làm chết 4 người. Nhưng điều xấu nhất vẫn chưa đến.
Sau 3h sáng, vào ngày thứ 2, 24/8 cơn bão Andrew đi qua phía nam Florida với
mức độ lớn. Trong đường đi dài 40 km của cơn bão Andrew đã tàn phá nhà ở của hơn
350.000 người. Các nhà xe lưu động và nhiều ngôi nhà xây dựng tồi tàn không chịu
được với những cơn gió của cơn bão Andrew. Trong khoảng thời gian này, tốc độ gió
vẫn là 233 km/h với những cơn gió giật lên đến 282 km/h, và đó là vòi rồng “ những
cơn xoáy quay tròn “ với tốc độ gió xung quanh là 322 km/h. Tiêu biểu, cái chết và sự
tàn phá nhiều nhất từ những cơn bão là những con sóng biển mà nó di chuyển cùng với
cơn bão. Cơn bão Andrew có một con sóng cồn cao 5,2 m, nhưng vào thời điểm này nó
là những cơn gió mà làm tổn thất nhiều nhất. Cơn bão xoáy làm 33 người chết, 80.000
tòa nhà bị phá hủy và 55.000 tổn thất nặng khác nhưng vẫn còn dữ dội, hàng ngàn

những chiếc xe hơi bị phá hủy và nhiều cây cối bị ngã hoặc trụi hết lá. Những loài
động vật sinh sống cũng bị ảnh hưởng, thậm chí ở sở thú Dade County Metro đã phải
đối phó với sự đào thoát của nhiều loài động vật, Nhưng đáng sợ hơn là sự lan rộng bởi
sự đào thoát khác, mà những con khỉ bị nhiễm AIDS từ một nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm.
Cơn bão Andrew mất nhiều năng lượng để tàn phá phía nam Florida, di chuyển
lên đất liền thì không có vùng nước nóng để cung cấp nước ấm cho nó. Nhưng sau khi
đi qua bán đảo Florida, cơn bão Andrew di chuyển lên những vùng nước ấm của vịnh
Mexico và lấy lại đủ năng lượng để tấn công đường bờ biển Louisiana với tốc độ gió
193 km/h vào đầu ngày thứ 4, 26/8. Cơn bão Andrew lao đi qua một vùng đất đầm lầy,
những cánh đồng mía và những thị trấn nhỏ thuộc vùng nông thôn, làm chết 15 người
khác, làm bùn chuyển động và những hồ nước lớn, làm cạn kiệt nguồn oxy cung cấp
của nước và làm chết hàng trăm con cá. Cơn bão Andrew tiêu tốn nhiều năng lượng
còn lại của nó như những cơn mưa nặng hạt rơi trên Mississipi vào ngày 27/8 và sau đó
nó tiêu tan.
Cơn bão Andrew là cơn bão xoáy tàn phá nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ với
tổn thất 30 tỷ đôla, nó là cơn bão xoáy thứ 3 mạnh nhất vào thế kỷ 20. Chỉ có những
cơn bão mạnh hơn là cơn bão Labor Day vào 1935 mà nó đã đi qua Florida Keys, làm
chết 405 người và cơn bão Camille cơn bão mà lao mạnh vào Mississipi vào giữa tháng
8/1969 với một cơn sóng biển cao 7,3m, làm 256 người chết.
Giống với những cơn động đất, những cái chết liên quan đến bão nhiều nhất là
bởi vì những tòa nhà xây dựng kém chất lượng. Các nhà xe lưu động là một nơi nguy
hiểm trong suốt trong khoảng thời gian cơn bão xoáy xảy ra. Nhiều ngôi nhà ở Florida
có những mái nhà bao phủ khắp bãi đá cuội trên bờ biển mà chủ yếu là chỉ rơi xuống,
những cấu trúc mà chỉ chống đỡ yếu. Ngay khi một cánh cửa bị vỡ, những cơn gió bão
vào trong ngôi nhà, làm tan nát bên trong ngôi nhà và làm bay mái nhà. Một nghiên
cứu về những tổn thất của cơn bão Andrew đã kết luận trên 40% tổn thất có thể tránh
được nếu những tòa nhà được xây dựng đạt tiêu chuẩn để chịu được những cơn gió. Sự
xây dựng với chất lượng thấp và sự thi hành cẩu thả của những quy định xây dựng là
nguyên nhân của nhiều mất mát không đáng xảy ra.


II. NỘI DUNG
HURRICANES
II.1. Những cơn bão xoáy được hình thành như thế nào?
Một cơn bão xoáy là một cơn bão cận nhiệt đới. Nhiệt lượng tăng dần trong
vùng nhiệt đới suốt một thời gian dài, mùa hè nóng và những cơn bão xoáy là một
phương tiện để đẩy hơi nóng của vùng nhiệt đới đến vĩ độ trung bình.
Trước khi một cơn bão xoáy phát triển thì phải có một số điều kiện:
(1) Nước biển phải tối thiểu là 26 độ C ở vùng có độ sâu 61m ở đại dương.
(2) Không khí phải vừa nóng và ẩm.
(3) Gió ở cấp độ cao suy yếu và thổi cùng hướng với đường di chuyển của cơn
bão.
Sự phát triển của một cơn bão xoáy bắt đầu ở vùng áp suất thấp. Khi bề mặt
những cơn gió tăng cường và dòng xung quanh có hiệu quả hơn và vào trong trung tâm
cơn bão đang phát triển nó trở thành vùng áp thấp nhiệt đới. Cơn bão quay theo kiểu
ngược chiều kim đồng hồ xung quanh lõi trung tâm ở bắc Bán Cầu. Bề mặt những cơn
gió hội tụ giao nhau tại lõi trung tâm, cái mà hoạt động giống như một ống hút phát
nóng, dòng không khí ẩm nhanh chóng di chuyển lên tầng bình lưu. Khối không khí
mát tăng lên và ẩn nhiệt bốc hơi, như vậy sự làm nóng ở lõi và thêm năng lượng đến
cơn bão.
Sự hội tụ của gió tiếp tục đến đường xoắn ốc trên vách lõi ở vận tốc bao giờ
cũng tăng như hệ thống gió xoáy phát triển mạnh. Khi bề mặt gió duy trì với tốc độ
hơn 62 km/h nó trở thành một cơn bão nhiệt đới ( bề mặt những cơn gió từ 62 km/h
đến 118 km/h). Nó trưởng thành đến trạng thái cơn bão xoáy khi bề mặt những cơn gió
luôn vượt quá 118 km/h. Cường độ của một cơn bão xoáy tùy thuộc vào bề mặt những
cơn gió có thể di chuyển vào lõi trung tâm và di chuyển ra ngoài một cách dễ dàng và
liên tục trên khí quyển. Khi lõi trung tâm hoặc cột trở thành một ống hút có hiệu quả
hơn thì cơn bão xoáy phát triển mạnh hơn.
II.2. Sự giải thoát năng lượng cơn bão xoáy
Một cơn bão xoáy hoạt động như là một động cơ nhiệt chuyển nhiệt từ hơi

nóng, không khí ẩm bên trên biển nhiệt đới vào trong lõi của cơn bão xoáy. Khi không
khí vào trong cơn bão xoáy tăng, hơi nước được biến đổi thành nước lỏng (sự ngưng
kết) và băng (sự lắng đọng). Sự giải thoát nhiệt ẩn này trong những tỷ lệ đáng kinh
ngạc.
Một cơn bão xoáy trung bình có năng lượng lớn hơn 200 lần so với công suất
sản xuất ra điện năng của chúng ta ở trên toàn thế giới. Động năng của những cơn gió
trong một cơn bão xoáy là khoảng ½ năng lượng toàn cầu của chúng ta. Tóm lại, sự
giải phóng năng lượng trong một cơn bão xoáy bởi sự hình thành những đám mây và
mưa là lớn hơn 400 lần năng lượng của cơn bão được hình thành từ những cơn gió.
II.3. Mắt bão
Khi số lượng những cơn gió thổi nhanh vào trong trung tâm của một cơn bão
nhiệt đới làm khó khăn cho tất cả những cơn gió đến từ trung tâm. Kết quả là một
đường xoắn ốc hình trụ đi lên trong trung tâm cơn bão. Khi bề mặt gió có vận tốc đạt
đến khoảng 118 km/h thì trong trung tâm cơn bão không có gió kết quả là ở trung tâm
cơn bão không có gió và ít mây vùng đó được gọi là mắt bão. Bởi vì sự phân biệt mắt
bão hình thành tại tốc độ gió khoảng 118 km/h, tốc độ gió này xác định ngưỡng nơi mà
một cơn bão nhiệt đới đã phát triển đủ mạnh để được gọi là cơn bão xoáy.
Bên trong mắt
bão , không khí giảm.
Không khí mát ở trên cao
di chuyển xuống vào
trong trung tâm của đỉnh
lõi. Khi không khí di
chuyển xuống , nó nóng
và hút thu hơi ẩm và đám
mây tự do có dạng mắt
bão của cơn bão xoáy.
Thành mắt bão
là những cơn gió đi lên
thành một vùng xoắn ốc có dạng hình trụ mà nó xoay quanh mắt bão. Thành mắt bão

của một cơn bão xoáy có những cơn gió mạnh nhất, chúng xoay quanh mắt bão tương
đối lặng êm. Gắn vào trong thành mắt bão của cơn bão Andrew là những cơn xoáy
xoắn nhỏ tương tự như những dòng xoáy trong một con sông. Sự xoắn của những dòng
xoáy là có đường kính khoảng 152m. Khi chúng trôi dạt vào trong dòng vận động đi
lên của khí có cường độ mạnh của thành mắt bão, chúng bị kéo vuông gốc, đường kính
của chúng giảm và vận tốc của chúng tăng lên 128 km/h. Xét đến những ảnh hưởng
xung quanh. Bên cạnh một cơn xoáy quay tròn di chuyển cùng hướng với sự xoay của
cơn bão mạnh, hai vận tốc là có thể cộng được, ví dụ: 208 km/h + 112 km/h = 320
km/h. Mặt khác một cơn xoáy quay tròn, những cơn gió ngược hướng lẫn nhau, ví dụ:
208 km/h – 112 km/h = 96 km/h. Hiện tượng này giúp giải thích tại sao những ngôi nhà
nằm bên một phía con đường ở Florida bị phá hủy trong khi đó những ngôi nhà ở phía
khác chỉ chịu những tổn thất nhỏ.
Tốc độ của những cơn bão luôn thay đổi dọc theo đường bờ biển. Nếu bạn ở
phía bên phải của cơn bão xoáy nhiệt đới thì bạn sẽ trải qua tốc độ của cơn bão với số
lượng lớn cùng với tốc độ gió. Nếu bạn ở phía bên trái thì bạn sẽ cảm thấy tốc độ gió
không có khi cơn bão di chuyển.
II.4. Nguồn gốc cơn bão xoáy
Những cơn bão xoáy là những cơn bão đến từ nơi có vĩ độ thấp, từ vùng nhiệt
đới. Nhiều cơn bão hình thành ở nơi vĩ đô cao hơn thì không mạnh. Những cơn bão
xoáy có những đặc trưng:
(1) Nhiệt được giải phóng bởi sự ngưng tụ hơi nước ở bên trong một cơn bão xoáy
là nguồn năng lượng chính của cơn bão.
(2) Những cơn bão mà di chuyển vào đất liền thì nó suy yếu nhanh chóng.
(3) Ranh giới giữa không khí lạnh và nóng không được kết hợp với những cơn bão
xoáy.
(4) Những cơn gió ở độ cao thì yếu hơn, một cơn bão có thể mạnh hơn.
(5) Ở trung tâm cơn bão xoáy nóng hơn so với xung quanh cơn bão.
(6) Những cơn gió bão xoáy yếu đi do độ cao.
(7) Khối không khí nóng ở trung tâm của mắt bão thì giảm xuống.
Ở Mỹ chúng ta biết chúng như là những cơn bão xoáy (Hurricanes), nhưng

chúng di chuyển với những cái tên khác nhau ở những nơi khác nhau của thế giới. Ở
Ấn Độ Dương, chúng là những cơn gió lốc (Cyclones), ở phía tây Thái Bình Dương thì
chúng là xoáy thuận nhiêt đới (Typhoon). Tất cả chúng đều xoay, những hệ thống thời
tiết áp suất thấp với những lõi nóng mà chủ yếu hình thành trên biển nóng ở vành đai vĩ
độ giữa 5 và 20 và sau đó di chuyển ra để nhiệt của cơn bão thoát ra đến vùng vĩ độ
cao hơn.
Mỗi năm có khoảng 84 cơn bão xoáy nhiệt đới (hurricanes, typhoon, cyclones)
hình thành trên trái đất. Những người cư ngụ ở nước Mỹ đã nghĩ ở vùng phía bắc Đại
Tây Dương vịnh biển Caribbean của Mexico là nơi hoạt động của những cơn bão,
nhưng trên quy mô toàn cầu cho biết chỉ có 10 cơn bão trong số 84 cơn. Những cơn
xoáy thuận nhiệt đới ở tây bắc Thái Bình Dương tấn công vào Nhật Bản , Trung Quốc,
Philippin khoảng 3 lần như mọi lần và những cơn bão có thể lớn hơn.
Cường độ của những cơn bão xoáy nhiệt đới và những tổn thất mà chúng gây ra
được đánh giá bởi sự phân loại Saffin-Simpson (Bảng 1).
• Cấp 1: Những cơn gió làm thiệt hại nhiều cây cối và những nhà xe lưu động.
• Cấp 2: Những cơn gió thổi làm ngã một số cây cối và làm thiệt hại nặng những
ngôi nhà và một số mái nhà.
• Cấp 3: Những cơn gió thổi ngã những cây lớn và làm trơ trụi lá, phá hủy những
ngôi nhà và là nguyên nhân làm thiệt hại cấu trúc của những tòa nhà nhỏ.
• Cấp 4: Tất cả những biểu hiện thổi ngã, những tổn thất rất lớn đến những cánh
cửa sổ, cửa chính, và mái nhà, lũ lụt lan rộng hàng dặm ở trong một lãnh thổ
và những ngôi nhà dọc bờ biển sẽ chịu thiệt hại nặng.
• Cấp 5: Những tổn thất lớn đến những cửa sổ, cửa chính, mái nhà, những tòa
nhà nhỏ bị sập và gió thổi liên tục và những thiệt hại nặng nề đến tất cả
những tòa nhà thấp hơn 5m so với mặt nước biển và bên trong 500m của
đường bờ biển.
Bảng 1. Hệ thống phân loại tổn thất do cơn bão gây ra của Saffir-Simpson
Cấp bão
Áp suất
(mb)

Tốc độ gió
(km/h)
Sóng bão
(m)
Tổn thất
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Cấp 4
Cấp 5
>= 980
965-979
945-964
920-944
<920
118-152
153-176
177-208
209-248
>148
1.2-1.5
1.8-2.4
2.7-3.6
4-5.5
<5.5
Nhỏ
Vừa phải
Lớn
Khốc liệt
Thảm khốc

II.4.1. Những cơn bão ở phía bắc Đại Tây Dương
Những cơn bão ở phía bắc Đại Tây Dương thường lớn, dễ di chuyển và dai
dẳng (Bảng 2). Mổi năm có khoảng 4-21 cơn bão nhiệt đới và những cơn bão xoáy ở
phía bắc Đại Tây Dương vịnh biển Caribbean của Mexico và đường bờ biển của nước
Mỹ đã bị đi qua thường xuyên bởi những cơn bão xoáy nhiệt đới (Bảng 3).

Bảng 2. Một vài đặc trưng cơ bản của những cơn bão ở Bắc
Đại Tây Dương
Đường kính cơn bão 200-1,300 km
Đường kính mắt bão 16-70 km
Tốc độ bề mặt gió >=120 km/h
Hướng di chuyển hướng tây sau đó hướng bắc
Thời gian kéo dài 1-30 ngày
Bảng 3. .Những cơn bão nhiệt đới và những cơn bão xoáy ở Bắc Đại Tây Dương
Cấp bão
Tần suất (Năm)
Lớn nhất Nhỏ nhất
Những cơn bão nhiệt đới và những cơn bão
xoáy
21 (1933) 4 (1983)
Những cơn bão xoáy 12 (1969) 2 (1982)
Những cơn bão xoáy lớn (Tốc độ gió >176
km/h)
7 (1950) 0 Many times
(e.g.1994)
Những cơn bão nhiệt đới và những cơn bão
xoáy di chuyển lên đất liền ở Mỹ
8 (1960) 1 Many times
(e.g.1997)
Những cơn bão xoáy di chuyển lên đất liền

ở Mỹ
6 (1916,1985) 0 Many times
(e.g.1994)
Những cơn bão xoáy lớn di chuyển lên đất
liền ở Mỹ
3 (1909,1933,1954) 0 Many times
(e.g.1998)
Sự đến của những hệ thống thời tiết xoáy nhiệt đới là một biến cố xảy ra hàng
năm ở Mỹ. Trong 93 năm từ năm 1900- 1992 vịnh Mỹ và đường bờ biển Đại Tây
Dương bị tấn công bởi 153 cơn bão xoáy nhiệt đới, trung bình là 1,7 cho mỗi năm.
Trong số 153 cơn bão này, chỉ có hai cơn ở cấp 5 và 15 cơm ở cấp 4. Trừ những con số
này ra thì thêm vào con số lớn của những cơn bão xoáy mà tấn công vào đảo
Carubbean và trung tâm nước Mỹ.
II.4.2. Những cơn bão xoáy ở Cape Verde-type
Những cơn bão xoáy chẳng hạn như cơn bão Andrew bắt đầu bởi những cơn
bão ở phía tây vùng Sahel của Châu Phi mà nó nằm ở phía dưới xa mạc Shahara.
Những cơn bão này là những hệ thống áp suất thấp mà di chuyển về hướng tây như
những con sóng nhiệt đới bên trong vành đai gió. Khi mà những cơn bão đến vùng
nước nóng ở vùng cận nhiệt đới của Đại Tây Dương, một vài trong số đó là những cơn
bão trở nên mạnh nhanh chóng và thậm chí có thể mỗi cơn bão nhiệt đới ở trạng thái
gần đảo Cape Verde. Những cơn bão xoáy nhiệt đới ở Cape Verde-type này bị thổi qua
Đại Tây Dương bởi những cơn gió mậu dịch ở vĩ độ giữa 5 và 20 N sự hoạt động lại
của hơi nóng từ vùng đại dương ấm. Đường đi của chúng ở Tây Bán Cầu thường di
chuyển về phía bắc trên đường đi uốn cong theo chiều kim đồng hồ bởi tác động của
lực coriolis. Khi một cơn bão xoáy di chuyển xa hơn về hướng bắc là do tác dụng của
lực coriolis trở nên mạnh.
II.5. Đường đi của cơn bão xoáy
Các đường đi của những cơn bão xoáy thì khó khăn để mà có thể đoán trước
trong từng chi tiết bởi vì chúng hay thay đổi và do những hệ thống áp suất khí quyển
thấp nên chúng gặp khó khăn. Nhưng cảm nhận trong một vùng rộng lớn đó là một số

tác động chính trên đường đi của cơn bão xoáy nhiệt đới:
• Những cơn gió mậu dịch làm cơn bão xoáy nhiệt đới di chuyển về
hướng tây.
• Dưới tác dụng của lực coriolis tạo ra một đường cong ở bên phải tăng
dần sức mạnh lên với khoảng cách xa đường xích đạo.
• Một vùng rộng áp suất cao gọi là vùng áp cao Bermuda thông thường
đại diện trên bắc Đại Tây Dương
Các đường đi của bão xoáy thay đổi tùy thuộc vào độ lớn và vị trí của vùng áp cao
Bermuda. Khi vùng áp cao Bermuda nhỏ và ở phía bắc, những cơn bão xoáy có thể uốn
cong về hướng bắc bao quanh vùng đó và có một ít hoặc không tác động về phía đường bờ
biển. Khi vùng áp cao Bermuda mạnh và rộng nó có thể hướng cơn bão dọc theo hướng
đông về phía đường bờ biển của nước Mỹ, đó là nguyên nhân của nhiều sự chết chóc và
tàn phá như cơn bão ở New England vào năm 1938, Diane vào năm 1955, Donna vào năm
1960 và Agnes vào năm 1972. Thỉnh thoảng vùng áp cao Bermuda trôi dạt về phía Tây
Nam tiến tới Florida và giúp cơn bão xoáy di chuyển vào trong vùng biển Caribbean và
vịnh Mexico. Khi cơn bão xoáy di chuyển khá xa phía bắc, lúc đó những cơn gió ở phía tây
sẽ tấn công nó ở hướng Đông Bắc.
Vị trí và cường độ của vùng áp cao Bermuda là một phần của NAO (North Atlantic
Ossillation), cái mà miêu tả sự thay đổi vị trí của áp suất khí quyển trên đại dương. NAO
có thể trở nên mạnh và suy yếu trên thang đo thời gian của nhiều thập kỷ là nguyên nhân
làm cho một số đường bờ biển bị tấn công lặp đi lặp lại nhiều lần bởi những cơn bão xoáy
khoảng một thập niên và sau đó được bảo vệ cho các thập niên khác. Ví dụ, trong những
năm 1950 ở bờ biển phía đông nước Mỹ đã bị tấn công bởi các cơn bão xoáy lớn, nhưng
trong những năm 1960 và 1970 ở vịnh bờ biển nước Mỹ đã bị tấn công nhiều nhất.
Những cơn bão xoáy ở vùng biển Caribbean và vịnh Mexico-type
Những cơn bão xoáy có thể hình thành ở trên rất nhiều vùng nước ấm của vùng
biển Caribbean và vịnh Mexico tại vùng hội tụ giữa hai chí tuyến (Intertropical
Convergence Zone) viết tắt là ITCZ. Vùng hội tụ này xảy ra những cơn gió mậu dịch thổi
theo hướng tây hội tụ hoặc đối lập với khối không khí thổi ở hướng bắc từ khu vực đường
xích đạo. Nơi mà khối không khí thổi hội tụ, một vùng áp suất thấp hoặc vùng áp thấp

nhiệt đới có thể hình thành những cơn giông, một lõi lớn hoặc tâm và sự tăng khối không
khí ẩm liên kết với nhau tạo ra một cơn lốc xoáy nhiệt đới mà có thể mạnh lên thành một
cơn bão xoáy, chẳng hạn như cơn bão xoáy Mitch vào năm 1998.
Cơn bão Mitch tháng 10/1998
Trong khoảng thời gian độ một tiếng đồng hồ vào sáng sớm ngày 22/10/1998, cơn
áp thấp nhiệt đới hình thành tại vùng hội tụ giữa hai chí tuyến trên phía bắc biển Caribbean
ở biên giới Panama- Colompia. Vùng nước nóng Caribbean cung cấp nguồn năng lượng
mà trong vòng không vượt quá 18 giờ nó là một cơn bão nhiệt đới Mitch và trong 36 giờ
khác nó là cơn bão xoáy Mitch. Vào ngày 26/10, cơn bão Mitch đã phát triển thành một
trong số những cơn bão xoáy cấp 5 mạnh nhất được ghi chép chính thức được duy trì liên
tục với những cơn gió 290 km/h và những cơn gió giật lớn hơn 322 km/h. Vận tốc gió tiếp
tục 249 km/h khoảng 33 giờ liên tục, nó là cơn bão thứ hai dài nhất trong vùng phía nam
Đại Tây Dương.
Cơn bão Mitch đang
đi về phía CuBa, nhưng sau đó
xoay đột ngột về hướng trung tâm
nước Mỹ. Cơn bão Mitch ngừng
hoạt động ở bờ biển Honduras vào
cuối ngày 27/10 và trở lại vào tối
ngày 29/10 trong khi những cơn gió
di chuyển xuống cơn bão nhiệt đới
mạnh.. Đường bờ biển không bị tấn
công, cơn bão xoáy mạnh tấn công
ở ngoài khơi trong khi những cơn
gió mạnh của cơn bão yếu đi trước
khi di chuyển chậm về phía bờ vào ngày 30/10. Nhưng trong thực tế, diễn tiến xấu hơn
nhiều. Khi những cơn bão dịu bớt và ở trung tâm áp suất tăng, nhiều không khí ẩm đang
lan truyền rộng trên đất liền và đỗ tràn xuống như là mưa. Thực tế, cơn bão Mitch hoạt
động giống như một ống truyền nước khổng lồ hút nước từ biển và đổ nó lên đất liền, đặc
biệt là ở Honduras và Nicaragua. Ba ngày mưa rơi tổng cộng là 6350 mm là bình thường

và ở trong một số vùng có nhiều núi lượng mưa rơi được ước lượng là hơn 19050 mm. Xét
đến những vấn đề mà xảy ra khi 0.0566 đến 0.1698 m
3
lượng mưa rơi phải chảy ra mặt đất.
Ở Honduras, khoảng 6.500 người bị chết, 20% dân số là không có nhà, khoảng
60% những con đường và những cây cầu là không sử dụng được và 70% những vụ mùa bị
tàn phá. Tổng Thống của Honduras, Carlas Flones Facusse phát biểu cơn bão Mitch đã phá
hủy quá trình phát triển trong 50 năm.
Ở Nicaragua, khoảng 3.800 người bị chết. Sự cố tồi tệ xảy ra cách 362 km về phía
trong một lãnh thổ từ biển Caribbean khi cái hố miệng núi lửa ở trên đỉnh Casitas Volcano
chứa đầy nước mưa và thành miệng núi lửa yếu dần làm cho những dòng bùn (lũ bùn) chảy
23 km dốc xuống đến Thái Bình Dương. Bốn ngôi làng bị chìm ngập và khoảng 2000
người bị chôn vùi ở bên dưới lớp bùn dày 2-6m.
Trong khi nhiều người dân cư ngụ ở trung tâm nước Mỹ thì vẫn cố gắng cho cuộc
sống của họ, cơn bão Mitch di chuyển ra ngoài lên vùng nước nóng ở phía nam vịnh
Mexico, phát triển thành cơn bão nhiệt đới, đi qua phía nam Florida và mang hơi nóng và
năng lượng của cơn bão đi qua nam Thái Bình Dương của British Isles vào ngày 9/11.
Suốt 15 ngày tấn công một cách hung tợn, cơn bão Mitch làm chết hơn 11.000
người được xem là cơn bão thứ hai làm chết nhiều nhất ở nước Mỹ chỉ đứng sau Great
Hurricane vào tháng 10/1780 đã làm chết tổng cộng 22.000 người trên một số hòn đảo ở
vùng Caribbean. Khi những người sống xót làm việc để khôi phục lại nền kinh tế
Nicaragua ở vùng Casitas Volcano vào cuối năm 1998 và 1999.
II.6. Dự báo mùa Bão
Chúng ta có thể bao nhiêu cơn bão xoáy ở Cape Verde và Caribbean/Gulf of
Mexico-type được tạo thành mỗi năm ? Quá trình đã được chuẩn bị. Villiam M.Gray ở
trường đại học Colorado State đã thành công trong việc dự đoán con số của những cơn bão
nhiệt đới được đặt tên ở vùng bắc Đại Tây Dương căn cứ vào một số thay đổi:
1/ Khi ở phía tây vùng Sahel của Châu Phi có mưa lúc đó có số lượng lớn những
cơn giông cung cấp hạt nhân nhiều hơn cho cơn bão xoáy.

×