Tải bản đầy đủ (.ppt) (33 trang)

22 thuyết trình về tài trợ xuất nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.2 KB, 33 trang )

GVHD: .................
SVTT :
................................
LỚP :
TC11

HỒ CHÍ MINH , Ngày …………. Tháng
…………… Naêm 2012


Mục lục:
 CHƯƠNG I : Một số vấn đề cơ bản về

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuật
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
• Một số khái niệm cơ bản.
• Đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ.
Vai trò của xuất nhập khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ.
• Đối với nền kinh tế quốc dân.
• Đối với các doanh nghiệp.


Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ
Tổng quan về thị trường Nhật Bản.
• Xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
ở Nhật Bản.
 CHƯƠNG II : Phân tích về thực trạng thủ công


mỹ nghệ ở Việt Nam và công ty ARTEXPORT
trong thời gian qua.
Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu thủ
công mỹ nghệ ở Việt Nam .
• Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
ở Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu của
công ty ARTEXPORT.
• Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ của công ty trong 1 số năm
vừa qua.


 CHƯƠNG III: Một số phương pháp thúc đẩy xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường

Nhật Bản.
Xu hướng phát triển nghành thủ công mỹ
nghệ.
• Xu hướng phát triển nghành thủ công mỹ
nghệ trong những năm tới.
Phương hướng kinh doanh của công ty ARTEXPORT.
• Mục tiêu của công ty.
• Nhiệm vụ của công ty.
Các giải pháp:
• Giải pháp về thị trường.
• Giải pháp phát triển sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ.
 CHƯƠNG IV : KẾT LUẬN .



BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
TRẦN HOA QUỲNH.

GVHD:

ời nói đầu
Với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước hướng về xuất nhập khẩu.Tận dụng
mọi nguồn lực sẵn có đồng thời từng bước tham gia hội
nhập nền kinh tế khu vực,kinh tế thế giới vì việc tận dụng
nguồn nhiên liệu sẵn có trong nước để phát triển những
mặt hàng xuất khẩu là vấn đề hết sức cần thiết trong gia
đoạn hiện nay. Trong chiến lược hướng vào xuất khẩu và
chuyển dịch cơ cấu ngành hàng, Đảng và nhà nước đã
xác định mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng xuất
khẩu chiến lược, có khả năng tăng trưởng cao, nó không
chỉ mang lại lợi ích thiết thực mà còn có ý nghóa chính trị
xã hội rộng lớn. Với chính sách mở cửa nền kinh tế và
tích cực tham gia vào tiến trình khu vực hóa, toàn cầu hóa,
đã mở ra nhiều cơ hội cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
Trải qua những bước thăng trầm, hàng thủ công mỹ nghệ
của VN đã có mặt trên 120 nước trên thế giới. Tuy nhiên
hàng thủ công mỹ nghệ VN đang gặp khó khăn không nhỏ
trong vấn đề sản xuất và đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu


CHƯƠNG I : Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ .
 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuật khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ.
 Một số khái niệm cơ bản :


Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đề cho thấy,làng
xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng như đời sống
nhân dân ở nông thôn. Qua thử thách của những biến động thăng trầm,
những lệ làng phép nước và phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy
trì đến ngày nay.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.

Từ những tiêu thức trên có thể định nghóa về làng nghề truyền thống
như sau: “Làng nghề truyền thống là những thôn làng có một hay nhiều
nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất
kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm.
Những nghề thủ công đó được truyền từ đời náy sang đời khác, thường là
qua nhiều thê hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ
công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, với
một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã
chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu
bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng
hoá trên thị trường.”

Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã
xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của nước ta còn tồn tại
cho đến ngày nay, bao gôm cả ngành nghề mà phương pháp sản xuất được
cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất
nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống.
Như vậy từ các định nghóa trên ta có thể hiểu cụ thể về hàng thủ công mỹ



Đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ :
Khác với sản xuất công nghiệp, trong sản xuất tiểu thủ công , lao
độngchủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người
thợ, người nghệ nhân. Sản phẩm làm ra bừa có giá trị sử dụng nhưng lại vừa
mang dấu ấn bàn tay tài hoa của người thợ và phong vị độc đáo của một miền
quê nào đó.Cũng chính vì vậy mà hàm lượng văn hoá ở các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ được đánh giá cao hơn nhiều so với hang công nghiệp sản xuất
hàng loạt. Ngay từ khi phát hiện ra các sản phẩm trống đồng Đông Sơn, trống
đồng Ngọc Lũ, thế giới đã biết đến một nền văn hoá Việt Nam qua những sản
phẩm phản ánh sinh động và sâu sắc nền văn hoá, tư tưởng và xã hội thời
đại Hùng Vương. Cho đến nay, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm tính
văn hoá như gốm Bát Tràng, hay bộ chén đóa, tố sứ cao cấp có hình hoa văn
Châu Á, mang đâm nét văn hoá Việt Nam như chim lạc, thần kim quy, hoa sen…đã
được xuất khẩu rộng rãi ra khắp thế giới, người ta đã có thể tìm hiểu phần
nào văn hoá của Việt Nam .
Có thể nói đặc tính này là điềm thu hút mạnh mẽ đối với khách hàng nhất
là khách quốc tế, nó tạo nên một ưu thế tuyệt đối cho hàng thủ công mỹ
nghệ và được coi như món quà lưu niệm đặc biệt trong mỗi chuyến du lịch của du
khách nước ngoài. Khách du lịch khi đến thăm Việt Nam không thể không mang
theo về nước một món đồ thủ công mỹ nghệ , cho dù ở nước họ có thể sản
xuất ra nhưng sẽ không thể mang hồn bản sắc văn hoá của Việt Nam . Sản
phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là hàng hoá đơn thuần mà trở thành sản
phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao và được coi là biểu tượng của nghề
truyền thống của dân tộc Việt Nam .
Sản phẩm mang tính mỹ thuật cao, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ là một
tác phẩm nghệ thuật, vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ. Nhiều
loại sản phẩm vừa là phục vụ tiêu dùng , vừa là vật trang trí trong nhà, đền
chùa nơi công sở…các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ

công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Khác với các sản phẩm công
nghiệp được sản xuất hàng loạt bằng máy móc, hàng thủ công mỹ nghệ có


Vai trò của xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ :
Đối với nền kinh tế quốc dân :
Hàng thủ công mỹ nghệ có thể được xuất khẩu ra nước ngoài theo 2
phương thức sau:
- Xuất khẩu tại chỗ: khi khách du lịch đến từ nước ngoài vào Việt Nam và mua
hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất tại Việt Nam. Với xu hướng phát triển của du
lịch như hiện nay, hình thức xuất khẩu này sẽ góp phần đáng kể vào kim ngạch
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hàng năm.
-Xuất khẩu ra nước ngoài: là hình thức các doanh nghiệp bán hàng thủ công mỹ
nghệ cho các đối tác nước ngoài bằng cách mang hàng sang tận nơi băng các
phương tiện vận tải khác nhau và phải chịu sự ràng buộc của một số thủ tục
xuất khẩu nhất định.
Đối với nền kinh tế quốc dân : Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu,
phục vụ công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Việc xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ của nước ta trong mấy năm gần đây đã mang lại cho nước ta nguồn ngoại
tệ lớn, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể
trong năm 2003 Việt Nam đã xuất khẩu được gần 400 triệu USD, và tính đến tháng
4 năm nay, kim ngạch hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt trên 100 triệu USD, tăng 10%
so với năm ngoái. Đây là nguồn thu ngoại tệ to lớn thực thu về cho đất nước từ
nguồn nguyên .
Ngày nay các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với tính độc đáo và độ tinh
xảo của nó vẫn có ý nghóa rất lớn với nhu cầu đời sống của con người. Những
sản phẩm này là sự kết tinh, sự bảo tồn các giá trị văn hoá lâu đời của dân
tộc, là sự bảo lưu những văn hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang
đời khác tạo nên những thế hệ nghệ nhân tài ba với những sản phẩm độc đáo
mang bản sắc riêng. Chính vì vậy xuất khẩu thủ công mỹ nghệ không những góp

phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá của dân tộc Việt nam mà còn
có nhằm quảng bá chúng trên khắp thế giới .


 Đối với các doanh
nghiệp :
Xuất khẩu tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm do doanh
nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất
khẩu mà tên tuổi của các doanh
nghiệp không chỉ được khách hàng
trong nước biết đến mà còn có
mặt ở thị trường nước ngoài.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ
cho các doanh nghiệp , tăng dự trữ,
qua đó nâng cao khả năng nhập
khẩu ,thay thế, bổ sung, nâng cấp
máy móc, thiết bị phục vụ cho quá
trình phát triển.
Xuất khẩu phát huy cao tính năng
động sáng tạo của các cán bộ
xuất nhập khẩu cũng như các đơn
vị tham gia, tích cực tìm tòi và phát
triển các mặt hàng trong khả
năng xuất khẩu vào các thị
trường có khả năng thâm nhập.
Chính vì vậy, các doanh nghiệp
buộc phải nâng cao chất lượng
hàng hoá, tìm mọi cách để nâng

cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, từ đó tiết kiệm các yếu
tố đầu vào hay tiết kiệm nguồn
lực.


 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu nghành thủ công mỹ
nghệ :
•Chính trị và pháp luật : Luật pháp cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới
xuất khẩu. Bất kì doanh nghiệp nào muốn kinh doanh xuất khẩu muốn tồn tại và
phát triển lâu dài thì phải tuân thủpháp luật, không những pháp luật của nước
mình mà con tuân thủ luật pháp nước nhập khẩu. Nghiên cứu kỹ chế độ chính trị
và pháp luật sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
•Chính sách kinh tế : Hệ thống thuế quan cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất
lớn tới hoạt động xuất khẩu thông qua thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu
nguyên liệu sản xuất hàng hoá phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Nếu như
thuế nhập nguyên vật liệu quá cao sẽ làm chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành
hàng hoá xuất khẩu cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá, giảm lợi
nhuận cho nhà xuất khẩu, và như vậy làm giảm lượng xuất khẩu và ngược lại. Vì
những ảnh hưởng đó, để khuyến khích xuất khẩu Chính phủ thường miễm thuế
xuất khẩu và giảm thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá xuất
khẩu đối với những mặt hàng có lợi thế sản xuất . Chính phủ thường áp dụng hạn
ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá mà sản xuất không đủ đáp ứng nhu
cầu trong nước và tăng thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu dùng để sản
xuất hàng hóa xuất khẩu .
• Hệ thống ngân hàng tài chính : Hoạt động xuất nhập khẩu liên quan chặt chẽ đến
vấn đề thanh toán quốc tế, thông qua hệ thống Ngân hàng Tài chính giữa các quốc
gia. Nó tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán được thực hiện một cách
đơn giản, nhanh chóng, chắc chắn. Nhờ có hệ thống ngân hàng này dẽ đảm bảo
rằng người bán sẽ thu được tiền và người mua sẽ nhận được hàng , làm giảm bớt

việc phài dành nhiều thời gian và chi phí để các bên đối tác tìm hiểu nhau.


•Khả năng sản xuất :Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam chịu sự tác
động của nhiều nhân tố, những nhân tố này có sự biên đổi trong từng thời kỳ và
tác động theo chiều hướng khác nhau. Chúng có thể là những nhân tố thúc đẩy
nhng ngược lại cũng có thể là những nhân tố kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
ở mỗi vùng, mỗi địa phơng, mỗi làng nghề do có những đặc đIểm khác nhau về
các đIều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội , văn hóa nên sự tác động của các nhân
tố này là không giống nhau. Có thể hiểu một cách kháI quát chúng bao gồm các
nhân tố sau:
1.Nguồn nhân lực: là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sản xuất. tại
các làng nghề, nguồn nhân lực chính là các nghệ nhân, những người thợ thủ công ,
và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Những nghệ nhân là người có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đồng thời là những người
sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang đậm tính truyền thống. Có được nguồn
nhân lực có tay nghề và trình độ cao sẽ là một yếu tố thúc đẩy sản xuất và
xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.
2.nguồn vốn: đây là nguồn lực vật chất rất quan trọng trong quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu nhất của nguồn vốn là đầu tư phát triển
sản xuất , đầu tư phát triển cơ sở vật chật và kết cấu hạ tầng, đầu tư đổi mới
công nghệ. Vì vậy phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phụ thuộc rất lớn
vào các nguồn vốn huy động được.
3. Nguồn nguyên vật liệu: trong những giai đoạn trước đây, gần nguồn nguyên vật
liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình thành và phát triển của
các cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ hay các làng nghềtruyền thống. Song hiện
nay vấn đề này trở nên không quan trọng đối với sự phát triển của các làng nghề
bởi sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện giao thông và các phương tiện kỹ thuật.
Tuy nhiên vấn đề khối lượng chất lượng, chủng loại và khoảng cách của các nguồn
nguyên liệu này vẫn có những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng và giá thành

sản phẩm. Nếu có được nguồn nguyên vật liệu ổn định dẫn đến sản xuất cũng
ổn định, các nhà xuất khẩu sẽ có nguồn hàng thường xuyên, tạo uy tín cho doanh
nghiệp.
4. Trình độ kỹ thuật và công nghệ: trong điều kiện hiện nay, khi mà giao lưu thương


Tổng quan về thị
trường Nhật Bản .

•Nhật Bản là một thị trường
mở quy mô rộng lớn với dân số 127
triệu người có mức sống khá cao( GDP
theo đầu người năm 2001 là 32.585 USD)
và GDP năm 2003 là 4,143 tỷ USD. Nhật
Bản là một trong những nước có nền
công nghiệp phát triển mạnh và đứng
hàng đầu thế giới. Nhưng do đặc điểm
về địa lý, Nhật Bản là một trong
những nước rất hiếm về tài nguyên
thiên nhiên, ngoại trừ nguồn hải sản,
do đó hầu hết các sản phẩm gia
dụng,trang trí nội ngoại thất đặc biệt
là các hàng thủ công mỹ nghệ mà
chủ yếu là nguyên liệu tự nhiên, đều
phải nhập khẩu.
•Tập quán tiêu dùng :Việc
nắm rừ đặc điểm tiêu dùng và tính
cách kinh doanh của người Nhật sẽ
giúp các doanh nghiệp Việt Nam giao
tiếp và kinh doanh thành công với họ.

Thị hiếu của người tiêu dùng Nhật
Bản rất đa dạng nhưng cũng khá độc
đáo. Theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật
Bản, người tiêu dùng Nhật rất chú ý
đến chất lượng hàng hoá. Sống trong
môi trường có thu nhập cao nên người
Nhật Bản thường đũi hỏi rất khắt khe
về chất lượng hàng hóa bao gồm cả


- Dung lượng thị trường
- Đối thủ cạnh tranh
- Kênh phân phối.
- Mức giá.
- Giới hạn thời gian.
- Những diễn biến đối với người sử dụng và người tiêu dùng.
Coi trọng chất lượng và hoạt động kinh doanh: Người tiêu dùng và người sử
dụng Nhật Bản thường đòi hỏi cao về chất lượng và tiêu chuẩn.Những nhà
sản xuất nước ngoài thường phàn nàn là người Nhật thường đòi hổi quá
cao .

Xu hướng nhập khẩu nền thủ công mỹ nghệ ở Nhật Bản
trong thời gian gần đây :
Trong một số năm gần đây, xu hướng nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của Nhật Bản thể hiện như sau:
*Mặt hàng thảm :Số lượng mặt hàng thảm nhập khẩu đạt đỉnh điểm vào
năm 1995 trong đó giảm sút cả về số lượng và giá trị. Tuy nhiên, năm 2000
lượng nhập khẩu bất ngờ tăng mạnh trở lại. Năm 2001 lượng hàng nhẩp khẩu
tăng tới 65.464. tấn ( tăng 4,3% so với năm trước) và đạt con số kỷ lục trong
vòng hai năm gần đây. Nếu tính theo giá trị thì lượng hàng nhập khẩu cũng đạt

45,1 tỷ yên, tăng 6,1% so với năm trước. Tính theo số lượng thì loại thảm nhập
khẩu nhiều nhất là loại thảm lông tiêu thụ phổ biến ( 29.809 tấn, chiếm 45,5%
lượng thảm nhập khẩu ) và thảm dệt (26.843 tấn, chiếm 41% bao gồm cả một
số loại thảm tay ). Năm 2001 lượng nhập khẩu loại thảm này tăng đáng kể từ
Trung Quốc.


*Gốm sứ : Hàng gốm sứ
nhập khẩu đạt mức kỷ lục
cả về số lượng và giá trị
trong năm 2001, và xu
hướng nhập khẩu mặt
hàng này còn tiếp tục
tăng. Hàng gốm sứ nhập
khẩu đạt 16.484 tấn so với
hàng gốm là 45.800 tấn
và mặt hàng này bằng
gốm đã tăng đáng kể
nhờ tăng lượng hàng nhập
khẩu từ Trung Quốc. Trước
đây, lượng hàng nhập
khẩu đạt được tăng trưởng
như vậy chủ yếu là nhờ :
- Lối sống cá nhân theo
kiểu phương tây hoá ngày
càng tăng lên ở Nhật
Bản.
- Tăng mức thu nhập cá
nhân vốn là nhân tố
thúc đẩy nhu cầu đối với

sản phẩm này;
- Người tiêu dùng Nhật
Bản ưu thích những sản
phẩm có nhãn hiệu hơn
-Sự lên giá mạnh mẽ của
đồng Yên.
Nhưng hiện nay, nguyên
nhân dẫn đến lượng hàng
gốm sứ nhập khẩu vào


•Mặt hàng rèm : Từ năm
1990 đến năm 1996 lượng hàng
rèm nhập khẩu tăng mạnh, nhưng
do nền kinh tế đình trệ và sự
giảm sút nhu cầu bất động sản
đã làm cho lưọng hàng nhập
khẩu giảm mạnh vào giũa năm
1997 và năm 1998. Sau khi có một
vài dấu hiệu phục hồi phục vào
năm 1999 thì tổng lượng hàng
nhập khẩu trong năm 2000 tăng
từ 908.000 tá sản phẩm lên 1,55
triệu tá sản phẩm. Năm 2001 tốc
độ tăng là 40,1% và đạt con số
kỷ lục mới 2,18 triệu tá sản
phẩm. Nếu tính theo giá trị thì
năm 2001 kim ngạch nhập khẩu
đạt mức kỷ lục mới là 13,78 tỷ
yên ( tăng 44% so với năm

trước) .


CHƯƠNG II : Phân tích về thực trạng thủ công mỹ nghệ
ở Việt Nam và công ty ARTEXPORT trong thời gian qua.
Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ ở
Việt Nam .

•Tình hình lao động tại các làng nghề.
Đối với sản xuất tiểu thủ công,lao động chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo
léo và đầu óc sáng tạo của người thợ, người nghệ nhân. Những năm trước khi ban
hành chính sách đổi mới, lao động tại các làng nghề truyền thống chủ yếu làm
việc trong các hợp tác xã hoặc các tổ sản xuất tiểu thủ công.Thời kỳ này đã
tạo ra đội ngũ thợ thủ công đông đảo, phục vụ cho việc phát triển kinh tế nông
thông, tăng thu nhập, xuất khẩu. Nhưng, hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu hợp
tác xã , việc đào tạo thợ thủ công đại trà đã phá vỡ kết cấu gia đình truyền
thống, gây nên sự thất truyền bí quyết nghề nghiệp ở những nghề đòi hỏi kỹ
thuật tinh xảo.
Hiện nay nhờ các chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế của Chính
phủ,hoạt động thủ công lại trở về với hình thức sản xuất theo hộ gia đình( khoảng
90%) . Các cơ sở làm nghề này trung bình có khoảng ba đến bốn lao động thường
xuyên và hai, ba lao động thời vụ. Còn tại các doanh nghiệp thì con số tương đương là
27 lao động thường xuyên, tám đến mười lao động thời vụ. Việc sử dụng lao động
ngày càng triệt để không những trong vùng mà còn thu hút thêm lao động ở các
vùng khác. Sự phân công lao động trong các làng nghề ngày càng được chuyen môn
hoá sâu sắc. Bên cạnh những người trực tiếp lo tạo ra sản phẩm còn có người
chuyên lo khâu đầu vào và đầu ra cho sản phẩm . ở những làng nghề có công
nghệ và tổ chức phức tạp, đã có sự phân công phù hợp với giới tính, tuổi tác và
trình độ của người lao động. Phụ nữ và trẻ em được làm những công việc nhẹ
nhàng, người có tay nghề cao đảm nhận những công việc phức tạp. Tuỳ theo tính

chất của công việc cũng như tay nghề của người thợ mà có sự phân công phù hợp
làm cho sản xuất ngày càng hoàn chỉnh. Tuy vậy trình độ học vấn và chuyên môn
kỹ thuật của lao động vẫn còn thấp kém. Lao động thủ công chiếm chủ yếu nhưng


Môi trường:
Sản xuất trong làng nghề mang lại hiệu quả kinh tế song mặt trái của nó là gây
ô nhiễm môi trường nặng nề. Qua điều tra, hiện có tới 52% số hộ và các cơ sở
sản xuất làm ảnh hưởng đến môi trường. Các làng nghề sản xuất gạch vôi,
gốm sứ, đúc đồng đang gặp khó khăn vì ô nhiễm không khí nặng nề làm ảnh
hưởng tới sức khoẻ cộng đồng và làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Các lò
gốm hàng ngày phun vào khí quyển nhiều chất độc hại, chẳng hạn ở Bát Tràng,
mật độ dân số 2500-3000 người/km ². Trong làng nhà ở san sát kề với 1100 lò
hôp lớn nhỏ,hàng năm sử dụng khoảng 7 vạn tấn than và xử lý 10 vạn tấn đất
nguyên liệu, thêm vào đó là 300 lượt xe ô tô lớn nhỏ chạy qua mỗi ngày. Bên
cạnh các lò gốm còn có hàng trăm lò gạch ở bãi sông của Đa Tốn và Xuân
Quan, những lò này toả đầy khói bụi suốt ngày đêm và gây tác hại rất lớn đến
sức khoẻ của nhân dân nhất là trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi.
Nguyên nhân là do hạn chế về vốn, kỹ thuật, thiếu quy hoạch tổng thể nên hầu
hết các gia đình khi đầu tư sản xuất đã không đầu tư xử lý chất thải,các chất
độc hại từ sản xuất đều đổ thẳng ra môi trường. Bên cạnh đó, các bộ phận,các
cơ sở sản xuất được bố trí xen kẽ khu vực dân cư, thậm chí dùng làm nơi sản xuất
đã gây tác hại trực tiếp tới sức khoẻ con người.

•Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu :Theo đánh giá cơ cấu mặt hàng xuất khẩu là tỷ lệ
tương quan giữa các mặt hàng trong toàn bộ kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ . Hàng thủ công mỹ nghệ đa dạng về chủng loại , phong phú về mẫu
mã do đó mà để đi sâu nghiên cứu tất cả các loại hàng thủ công mỹ nghệ là
điều không dễ. Việt Nam xuất khẩu 1 nhóm hàng thủ công mỹ nghệ trong đó

có 5 loại chính.Mỗi mặt hàng xuất khẩu dù ít hay nhiều đều tham gia đóng góp
vào tổng kim ngạch xuất khẩu.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu : Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong
những năm qua có những giai đoạn thăng trầm, khi thuận lợi, lúc khó khăn, nhưng
nhìn chung trong những năm gần đây đã có những chiều hướng phát triển tốt, có
nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở rộng được nhiều thị trường mới theo hướng
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán với các nước


Hàng thủ công mỹ nghệ của ta đến nay đã có mặt tại 120 nước trên thế
giới,chủ yếu là thị trường các nước Âu_ Mỹ và một số thị trường Châu á như
Nhật Bản , Đài Loan, Hàn Quốc và một số nước Trung đông, nhưng ta chưa xuất
được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn. Mỹ là thị trường có
nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ, Hàng thủ công quà tặng là một trong
những mặt hàng Việt Nam có ưu thế trên thị trường Mỹ, nhưng chưa được các nhà
doanh nghiệp Việt Nam quan tâm và đầu tư. Người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng những
sản phẩm chất lượng
cao, mẫu mã đẹp, giá rẻ, không phân biệt xuất xứ ở đâu, hơn nữa mặt hàng
này ít chịu tác động của rào cản thương mại . Mới đây nhất, tại triển lãm hàng
thủ công mỹ nghệ diễn ra tại New York từ 15-18 /5, những mặt hàng thủ công mỹ
nghệ của hơn 20 công ty Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm chú ý của các
khách hàng Mỹ. Một số bản ghi nhớ và hợp đồngđã ký kết, mở ra nhiều cơ hội
hợp tác xuất khẩu mặt hàng này qua thị trường mỹ cho các HTX và công ty mỹ
nghệ của Việt Nam .
EU được coi là thị trường lý tưởng cho việc xuất khẩu các sản phẩm gỗ,
gốm,sứ, mây tre lá, hàng thêu ren. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu
của ta xuất sang EU là sản phẩm gỗ mỹ nghệ, đồ gốm sứ và các sản phẩm
mây tre đan. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng lên khá nhanh(21.18%)
nhưng chỉ chíêm tỷ trọng 2.8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường này mặc dù khả năng sản xuất của ta là khá lớn. Dù cơ hội mở

rộng thị trường tại EU là rât lớn nhưng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa thực
sự xâm nhập nhiều vào EU . thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
Việt Nam trong khối EU là Đức (26.4%),Pháp(14.7%), Hà Lan(
11.6%), Anh(11%), Bỉ(10.7%) ,Italia( 7.4%). Tây ban Nha( 6.3%), Th Điển( 5.0%)…Điều
đáng lưu ý là trong thời gian qua, nhiều thương gia EU lâu nay làm ăn vơí các chủ
hàng Trung Quốc và của các nước ASIAN khác nay đã phần nao quan tâm đên thị
trường Việt Nam hơn.Đay là một cơ hội cho xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam,cần có những giải pháp thích hợp để tận dụng lợi thế từ thị trường này, từ
đó mở rộng thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ
của ta và nếu xét thị trường theo từng nước thì Nhật Bản là thị trường xuất khẩu


•Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản.
Sản phẩm được làm từ gỗ được đánh giá là mặt hàng có lợi thế nhất của Việt
Nam trong xuất khẩu sang Nhật Bản. Người Nhật Bản có nhu cầu sử dụng gỗ rất
lớn. Đây là loại sản phẩm không phải qua kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh, các tiêu
chuẩn về môi trường cũng không khắt khe như Châu Âu và Mỹ. Trong năm 2001,
Việt Nam đã xuất khẩu 15 triệu USD gỗ mỹ nghệ, các mặt hàng gỗ được khắc
trạm khảm dùng trang trí trong nhà, sử dụng trong bếp...được đánh giá rất gần gũi
với thị hiếu người Nhật Bản, chính vì vậy mà sang năm 2002,
Kim ngạch đã lên tới 20.7 triệu USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ cả
nước ( 52 triệu USD ), xuất khẩu gỗ mỹ nghệ đều tăng qua các năm, mức tăng
trưởng là 21.28%. Tuy vậy, gỗ mỹ nghệ Việt Nam cũng chỉ chiếm thị phần nhỏ
trên thị trường Nhật Bản là 7.3%,trong khi đó, các quốc gia Châu á xuất khẩu gỗ
sang Nhật Bản như Trung Quốc chiếm 28.7%, Thái Lan 20.3%, Malaysia 13.8%, Indonesia
11.8%. Vì vậy, ngành cần có các biện pháp thúc đẩy sản xuất và xâm nhập để
mở rộng thị trường Nhật Bản hơn nữa.
Bên cạnh các sản phẩm gỗ mỹ nghệ các thị trường nội thất và sản phẩm bằng

mây tre cũng được người Nhật Bản ưa dùng, chủ yếu là đóa, chậu, ghế… với công
nghệ sử lý nguyên liệu làm cho màu sắc đẹp, bóng, không mốc mọt, cùng với sự
tăng cường phối hợp các nhiên liệu khác như kim loại màu để tăng được vẻ đẹp
và tính hiện đại của sản phẩm, sản phẩm từ mây tre được khách hàng Nhật Bản
ưa dùng. Tuy vậy, sản phẩm này đã gặp phải sự khó khăn lớn trong việc cạnh
tranh với các sản phẩm từ Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia với công nghệ và kỹ
thuật cao, sự đa dạng…Chính vì vậy kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản mới chỉ đạt
3 triệu USD vào năm 2001, kim ngạch tăng giảm không ổn định, năm 2002 xuất
khẩu được 2.5 triệu USD và sang năm 2003 là 1.4 triệu USD.
Tuy nhiên trong năm 2004 vừa qua ngành thủ công mỹ nghệ đã đưa ra nhiều mặt
hàng với kiểu dáng và mẫu mã đặc biệt như giỏ xách tay hình quả bí, bàn ghế …
thu hút sự quan tâm của các nhà nhập khẩu Nhật Bản cùng với sự hỗ trợ của
nhà nước trên nhiều mặt làm kim ngạch xuất khẩu tăng lên 4.5 trieäu USD.


Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang thị
trường Nhật Bản :
Thuận lợi :
Trong bối cảnh chung khó khăn như vậy, đồng thời với thị trường khắt khe,khó tính
như Nhật Bản thì kết quả trên là điều đáng khích lệ, sỏ dó có được thành tựu trên
là do Việt Nam đang có được những điều kiện hết sức thuận lợi cho xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ
Lợi thế về nguồn nhân lực: nguồn nhân lực cho ngành thủ công mỹ nghệ bao gồm
những nghệ nhân, những người thợ thủ công, chủ cơ sơ sản xuất kinh doanh. Những
nghệ nhân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đòng
thời là những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang tính truyền thống,
hiên nay ở các làng nghề Việt Nam , vẫn còn có rất nhiều nghệ nhân có tâm
huyết với nghề, muốn giữ gìn và phát triển nghề. Bên cạnh đó còn có một lưc
lượng lao đọng dồi dào,cơ cấu lao động trẻ, có khả năng thích ứng với nền kinh tế
thị trường. Do đặc điểm sản xuất của nghề này là sử dụng lao động thủ công là

chủ yếu , nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao động nên bản thân nó
có khả năng thu hút nhiều loại lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao
động trên hay dưới độ tuổi , trẻ em, tham gia dưới hình thức học việc hay giúp việc.
Lực lượng lao động nay chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động làm nghề . 


Khó khăn và hạn chế :
- Theo cục xúc tiến thương mại( Bộ Thương mại), khách hàng Nhật Bản đánh giá
hàng thủ công mỹ nghệ củaViệt Nam yếu nhất là khâu thiết kế. Các công ty
xuất khẩu của Việt Nam ít quan tâm đến cải tiến chất lượng sản phẩm , chỉ cạnh
tranh với nhau bằng cách hạ giá. Do đó, mẫu mã của các công ty gần như giống
nhau và chất lượng ngày càng giảm sút. Trong khi muốn bán được nhiều hàng thì tỷ
lệ chế tác thủ công và mẫu mã phải chiếm phần nhiều. Không những thế,qua
nhân xét của JETRO (Cơ quan xúc tiên thương mại của Nhật Bản ) người Nhật cho
rằng hàng Việt Nam chỉ ở mức trung bình trở xuống, không có mẫu mã riêng, chỉ
làm theo đơn đặt hàng là chính.
- Khả năng tiếp cận thị trường của Việt Nam còn yếu. Chúng ta quen với phương
châm sản xuất nhanh- nhiều- tốt- rẻ, nhưng làm thế nào bán được hàng nhanh và b
án được nhiều hàng thì đó là vấn đề mới mẻ. Hệ thống thị trường thiếu ổn định,
nhiều người chưa biết bán sản phẩm cho ai, hàng hoá bị tồn đọng, luân chuyển
chậm. ở các vùng nông thôn, nhân lực tuy nhiêu nhưng trình độ văn hoá lại chưa
cao,chưa có khả năng tiếp cận để có thể năm bắt được xu thế của sản phẩm
mới, không hiểu biết thị hiếu ngườ tiêu dùng.
- Bên cạnh đó là tình trạng các doanh nghiệp tranh mua tranh bán theo kiểu “được cá
bỏ tôm” khi hàng đang có giá. Kiểu cạnh tranh thiếu lành mạnh làm xấu hình ảnh
của doanh nghiệp Việt Nam trong năt đối tác nước ngoài, tự mình lám suy yếu sức
cạnh tranh trước các đối thủ của nước ngoài. Doanh nghiệp Việt Nam chưa gắn kết
thành một mối mãnh mẽ trong quan hệ với cá đối tác nước ngoài, mọi quan hệ
đều mới ở mức riêng rẽ, mạnh ai nấy được . Đã vậy còn xuất hiện những hàng
nhái kém phẩm chất làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích của các cơ sở sản xuất

hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống.
- Hạn chế về mặt thể chế: bên phía Nhật Bản tuy mức thuế được xem là thấp
nhất thế giới song hàng hoá nhập khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng một phạm vi
rộng lớn và phức tạp về tiêu chuẩn, thủ tục xác nhận và các hàng rào kỹ
thuật không chính thức như quy định về vệ sinh và y tế làm cho quy trình nhập khẩu
bị kéo dài và gặp nhiều khó khăn..


Thực trạng về sản xuất
và xuất khẩu của công ty
ARTEXPORT.
Tổng quan về công ty :
Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ
công mỹ nghệ, tên giao dịch đối ngoại
ARTEXPORT đựơc thành lập theo quýêt
định số 617/BNgT-TCCB ngày 23/12/1964
của Bộ Ngoại Thương.Sau khi sát nhập
2 Bộ Ngoại Thương và Bộ Nội thương
thành lập Bộ thương mại vàDu lịch nay
đổi thành Bộ thương mại, công ty được
thành lập theo quyết định số334/TMTCCB ngày31/3/1993 của bộ Thương
mại .Là một doanh nghiệp nhà nước
hoạt động xuất nhập khẩu có tư cách
pháp nhân, có quyền và nghóa vụ
dân sự theo luật định, có con dấu
riêng, có tài sản và các quỹ tập
trung, được mở tài khoản trong và
ngoài nước, đựơc tổ chức và hoạt
động theo điều lệ của Tổng công ty
nên trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của mình công ty phải đảm bảo
không làm trái với pháp luật, thực
hiên mọi chế độ kinh doanh theo luật
thương mại Việt Nam, chịu trách nhiệm
về hành vi kinh doanh và nguồn vốn
nhà nước cấp.


Mặt hàng kinh doanh của công ty :
Hiện nay,công ty kinh doanh chủ yếu các mặt hàng sau:
- Hàng sơn mài mỹ nghệ như tranh sơn mài, hộp đựng trang sức, các vật trang
trí…
- Hàng gỗ mỹ nghệ được trạm khảm, kết hoa văn…
- Hàng cói, mây, dừa, dép,thảm với chất liệu đa dạng.
- Hàng gốm sứ
- Hàng thêu ren .
• Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Chất lượng sản phẩm là một trong những giải pháp quan trọng để tăng khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nói cách khác thì việc thâm nhập thị
trường luôn gắn liền với việc giành chữ tín hay hàng hoá phải có chất lượng.
Nếu như trước đây,giá cả được coi là công cụ cạnh tranh hàng đầu thì ngày nay nó
nhường chỗ cho chất lượng sản phẩm .Công ty thường xuyên cử người xuống để
giám sát đôn đốc nhất là kiểm soát chặt chẽ các nguyên liệu đầu vào. Chất
lượng của hàng thủ công mỹ nghệ thể hiện ở độ chắc, bền, độ tinh vi, tính mỹ
thuật…những sản phẩm này dù có sơ xuất nhỏ hoặc chất lượng không đồng đều
sẽ bị loại bỏ để tránh trường hợp khách hàng từ chối hoăc phải bán rẻ, tránh
tổn thất làm giảm uy tín của công ty.
Bên cạnh đó, tâm lý người tiêu dùng luôn đòi hỏi cải tiến không ngừng đối
với sản phẩm , mang lại sự thoả mãn nhu cầu cả về chất lượng và tính thẩm mỹ

khi sử dụng sản phẩm . Để đáp ứng nhu cầu chính đáng đó của khách hàng công
ty ARTEXPORT đã không ngừng sáng tạo những mẫu sản phẩm mới lạ độc đáo,
vừa đáp ứng chất lượng vừa đảm bảo tính thẩm mỹ của mặt hàng thủ công mỹ
nghệ mà công ty cung ứng cho thị trường.
Gần đây, công ty đã chú ý đàu tư trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm thích ứng với điều kiện tự nhiên, nhu cầu khách hàng. Đối với
sản phẩm gốm sứ, đất nung hiện nay đã đưa vào sử dụng lò nung điện, lò nung
bằng Gas đảm bảo nhiệt độ nung đều,tạo cho sản phẩm vẻ đẹp về h oa văn,
đường nét, có độ bóng, bền chắc. Đối với sản phẩm mây tre cói có nguồn gốc


* Mẫu mã và đề tài sản phẩm.
Hiện nay sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty được xuất khẩu theo 2 cách :
- Công ty thực hiện sản xuất, thu gom hàng hoá theo mẫu, chất lượng mà khách
hàng đưa ra
- Khách hàng đặt hàng theo mẫu mà công ty đưa ra và cũng có thể thay đổi một
số chi tiết hoa văn, màu sắc, vật liệu.
- Những đề tài cũ như con người, cuộc sống, chim muông…của công ty đa số đã
cũ không còn phù hợp với thị hiếu hiện nay. Hơn thế nữa, mẫu mã đề tài của
sản phẩm yêu cầu phải thường xuyên thay đổi để đáp ứng nhu cầu người tiêu
dùng. Điều này là do đặc điểm văn hoá, phong cách, lối sống khác nhau nên có
nhu cầu khác nhau. Đôi khi tính nghệ thuật của sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn
được đánh giá cao hơn tính tiện dụng. Tính nghệ thuật thể hiện ở các đường nét
hoa văn hài hoà, mềm nuột…Bởi lẽ người ta không chỉ sử dụng nó mà còn
muốn thưởng thức giá trị nghệ thuật của sản phẩm, muốn dùng nó để trang trí
cho ngôi nhà hay nơi làm việc của mình…Họ cần những sản phẩm làm bằng tay
tinh tế, tinh xảo, thanh tú hơn là những sản phẩm đã được công nghiệp hoá. Chính
vì vậy, người thợ làm ra những sản phẩm này rất cần phải học hỏi, rèn luyện tay
nghề, có sự hiểu biết về hội họa, có vốn kiến thức về cuộc sống và có nét
thẩm mỹ.

-Quảng cáo: Công ty thực hiện quảng cáo các sản phẩm của mình qua báo trong
nước và trên mạng, chưa thực hiện hoạt động quảng cáo trên báo, tạp chí, hay
truyền hình ở thị trường nước ngoài. Hiện công ty đã xây dựng trang Web của mình
trên mạng, tạo điều kiện cho công ty quảng cáo sản phẩm trên toàn thế giới. Tuy
nhiên hoạt động của trang Web chưa mang lại hiệu quả trong hoạt động xúc tiến. Hai
đến 3 năm một lần công ty đưa ra quyển Catalogue cho các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ của mình với hình ảnh mẫu mã đẹp để gửi tới khách hàng.
- Xúc tiến bán hàng: hàng năm công ty cử đoàn đi tham gia hội chợ triển lãm
trong và ngoài nước, năm 2003 công ty đã cử 7 đoàn đi tham gia hội chợ và năm
2005 dự kiến sẽ là 9-11 đoàn. Công ty thường tham gia hội chợ ở các nước Nhật,
Đức, Hồng kông, Pháp,ý…
-Quan hệ công chúng: Do là doanh nghiệp lớn trực thuộc Bộ thương mại, công ty có
lợi thế để khuyếch trương bằng hình thức này nhờ vào các mối quan hệ với các


Tình hình xuất khẩu của công ty sang Nhật Bản trong một
só năm vừa qua.
Trong những năm qua, công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT
đã vượt qua tình hình kinh doanh trong nước và quốc tế để ổn định và phát triển.
Công ty đã khẳng định được vị trí của mình là một trong 10 doanh nghiệp hàng đầu
của Bộ Thương Mại, là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ lớn của cả nước và có uy tín với các đối tác, khách hàng của mình. Đạt
được những thành quả đó là do công ty đã phát huy tính năng động , sáng tạo trong
kinh doanh , chủ động khai thác thị trường , mở rộng các mối quan hệ, trong đó phải
kể đến những kết quả công ty đã đạt được trên thị trường khó tính như Nhật Bản .

Những điểm hạn chế và một số khó khăn khi xuất
khẩu sang Nhật Bản .:
* Hạn chế :
Tuy có được nhiều thuận lợi và cũng đã có sự cố gắng nhưng trong công ty vẫn

tồn tại nhiều vấn đề hạn chế .
- Vấn đề nhân lực:
+Trên 30 năm hoạt động công ty đã có được một lớp cán bộ dày dạn kinh nghiệm,
tuy vậy, ngày nay, với sự phát triển của giao lưu buôn bán, tầng lớp các bộ cao
tuổi đã không còn phù hợp với tình hình kinh doanh mới trong việc nắm bắt thông tin
thị trường, nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng. Các cán bộ trẻ, nhanh nhạy thì chưa
có nhiều kinh nghiệm, trong thời gian qua công ty đã có một số thay đổi về nhân sự
nhưng về trình độ của các cán bộ trẻ này để đáp ứng một thị trường khó tính như
Nhật Bản thì là chưa đủ. Họ còn thiếu kiến thức về ngoại thương và đặc biệt khả
năng ngoại ngữ còn hạn chế, nhất là tiếng Nhật, vì vậy việc cử họ đi khảo sát,
tiếp cận thị trường Nhật Bản chưa đạt hiệu quả cao.
* Một số khó khăn :
- Tuy thuế nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản được đánh giá là thấp nhát trong
các thị trường xuất khẩu của công ty, nhưng tại thị trường này lại tồn tại những quy
định cũng như các rào cản kỹ thuật không chính thức rất khắt khe như quy định về y
tế, vệ sinh, sưc khoẻ…làm cản trở quy trình xuất khẩu của công ty, trong khi đó
công tác kiểm tra hàng hoá trước khi đóng gói của công ty chưa được hoàn thiện,


×