MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năng lực ứng xử sư phạm là một thành tố quan trọng trong cấu thành
năng lực sư phạm của người giảng viên. Năng lực ứng xử sư phạm không chỉ
giúp người giảng viên giải quyết linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả các tình
huống sư phạm; mà đây còn là điều kiện để trao đổi suy nghĩ; xây dựng tình
cảm, hình thành mối quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò, tạo nền tảng cho việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ dạy học và giáo dục. Khi nói về vấn đề này nhà
sư phạm vĩ đại người Nga Usinxki K.D đã khẳng định: “Sự khéo léo ứng xử
về sư phạm mà nếu khơng có nó thì các nhà giáo dục học dù giỏi đến mức nào
cũng không bao giờ trở thành nhà giáo dục tốt” [45, tr.91].
Hiện nay, trước yêu cầu đổi mới về giáo dục - đào tạo ở các nhà
trường quân đội thì vấn đề phẩm chất, năng lực của đội ngũ nhà giáo luôn
được coi trọng.
Hiện nay, ở nhiều trường đại học, số lượng giảng viên trẻ chiếm tỉ lệ
cao trong biên chế. Bên cạnh những ưu điểm đạt được, giảng viên trẻ vẫn còn
bộc lộ những hạn chế, bất cập về nhiều mặt, trong đó có năng lực ứng xử sư
phạm như: chưa nắm vững những quy tắc ứng xử sư phạm; kỹ năng xử lý các
tình huống sư phạm chưa thuần thục; trước các tình huống sư phạm thường
lúng túng, chưa có phương pháp giải quyết phù hợp. Việc giải quyết các tình
huống sư phạm cịn khn mẫu, thiếu linh hoạt; không làm chủ được cảm xúc
và hành vi của bản thân,… Điều này, có ảnh hưởng khơng nhỏ tới việc nâng
cao chất lượng dạy học và giáo dục. Do vậy, yêu cầu khách quan là cần phải
bồi dưỡng nâng cao phẩm chất nhân cách toàn diện cho đội ngũ giảng viên,
trong đó chú trọng rèn luyện, nâng cao năng lực ứng xử sư phạm cho đội ngũ
giảng viên trẻ.
Vì vậy, vấn đề: “Năng lực ứng xử sư phạm của giảng viên trẻ ở các
trường Đại học hiện nay” có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các nghiên cứu có liên quan đến năng lực ứng xử sử sư phạm ở
nước ngoài
Nhiều tác giả nước ngoài từ lâu đã chú ý đến vấn đề năng lực. Vào các
năm 1961, 1967, 1970 các tác giả Kuzmina N.V đã bàn về quá trình hình thành
nhân cách người giáo viên, sự phát triển năng lực sư phạm và trình độ tay nghề,
các đặc tính sáng tạo của hoạt động sư phạm. Các nhà tâm lý học như
Rubinstein X.L, Petrovxky A.V, Covaliov A.G đã xây dựng lý luận về cấu trúc
nhân cách, sự phát triển năng lực thống nhất với sự phát triển nhân cách.
Một số cơng trình nổi bật của các tác giả như Covaliov A.G (1971),
Tâm lý học cá nhân, tập II, Nhà xuất bản Giáo dục; Petrovxky A.V (1982)
Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm, tập II, Nhà xuất bản Giáo dục; Rudich P.A
(1980), Tâm lý học thể thao, Nhà xuất bản Thể thao; ... đã đưa ra các khái
niệm về năng lực. Trong tác phẩm: “Những phẩm chất tâm lý của người giáo
viên” tác giả Gonobolin Ph.N, năm 1976 đã đề cập đến những điều kiện cần
thiết của người giáo viên để có thể thực hiện tốt hoạt động sư phạm của
mình, đó là những vấn đề thuộc về đạo đức, chí hướng, tình cảm và đặc biệt
là năng lực sư phạm của người giáo viên.
Nhà giáo dục người Nga Katerave P.Ph từng khẳng định: Nhân cách của
người giáo viên với năng lực hoạt động nghệ thuật là điều kiện không thể thay
thế được, thiếu họ, biện pháp tác động chỉ còn là cái xác bất động, thiếu họ sẽ
khơng có q trình dạy học sống động, hiệu quả. Vậy, năng lực hoạt động
nghệ thuật ở đây chính là năng lực sư phạm, trong đó điều cốt lõi nhất là năng
lực ứng xử sư phạm.
Cùng với những nghiên cứu về năng lực sư phạm, thì năng lực ứng xử sư
phạm của người giáo viên cũng được nhiều nhà tâm lý - giáo dục học quan
tâm nghiên cứu. Có thể kể đến những nghiên cứu tiêu biểu như:
4
Tác giả Usinxki K.D đã chỉ ra bản chất tâm lý học của sự khéo léo đối
xử về sư phạm: “Sự khéo léo đối xử về sư phạm, mà nếu khơng có nó thì nhà
giáo dục dù có nghiên cứu lý luận giáo dục học đến mức nào cũng không bao
giờ trở thành nhà thực hành giáo dục tốt, về bản chất khơng cái gì khác là sự
khéo léo đối xử về tâm lý” [45, tr.191]. Theo tác giả, việc hình thành năng lực
khéo léo đối xử về sư phạm phụ thuộc vào đặc điểm về nhân cách của giáo
viên: “Ở một số người thì nhanh, rộng, cân đối hơn; ở một số người khác thì
chậm chạp, nghèo nàn và rời rạc” [45, tr.192], đó là tuỳ theo trình độ hiểu biết
của giáo viên về tâm lý học. Quá trình bồi dưỡng năng lực khéo léo đối xử về
sư phạm có liên quan đến việc trau dồi các kỹ năng và kỹ xảo sư phạm như
năng lực quan sát, năng lực tự chủ, năng lực tự phân tích.
Nhà giáo dục xô viết xuất sắc Corupxcaia N.C dựa trên quan điểm mác
xít, đã xem xét sự khéo léo đối xử về sư phạm của giáo viên trong mối liên hệ
với thế giới quan, phương hướng tư tưởng của học thuyết Mác – Lê nin, với
trình độ văn hố và nghiệp vụ của những giáo viên đó. Tác giả đưa ra những
nguyên tắc của sự khéo léo đối xử của các giáo viên xơ viết là những người có
nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ đang lớn lên thành những người tích cực xây dựng
chủ nghĩa cộng sản. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa của việc nghiên
cứu trẻ em, hiểu biết hứng thú, khuynh hướng và hành động của trẻ, kỹ năng
của giáo viên biết tác động tích cực đến học sinh phù hợp với các điều trên,
năng lực quan sát của giáo viên, kỹ năng đi sâu vào thế giới bên trong của trẻ
em và biết đứng trên quan điểm của trẻ để kích thích lịng tự trọng, tính độc
lập trong suy luận, lòng tự tin của trẻ [12].
Tác giả Petrovxki A.V chỉ ra rằng: để có được trình độ tài nghệ sư
phạm cao trong giảng dạy, giáo dục học sinh phụ thuộc vào nhiều phẩm
chất nhân cách của người giáo viên và năng lực ứng xử sư phạm là một
thành phần quan trọng.
5
Macarenco A.X khi nghiên cứu về sự khéo léo đối xử sư phạm. Tác giả
cho rằng vấn đề khéo léo đối xử không thể giải quyết được trong khuôn khổ
một thầy, một trò; và đặc điểm cơ bản của kỹ thuật sư phạm là thái độ chân
thật của nhà giáo dục đối với tập thể và đối với mỗi học sinh; điều kiện quyết
định của sự đối xử khéo léo là phẩm chất đạo đức của người làm công tác
giáo dục. Ông đã chứng minh rằng sự khéo léo đối xử của giáo viên chỉ được
xây dựng trong quá trình thực tiễn sư phạm và là kết quả của nghệ thuật sư
phạm [30].
Bodarepxcaia T.N cũng có nhiều nghiên cứu về sự khéo léo đối xử sư
phạm, tác giả đã đưa ra quan niệm, bản chất của sự khéo léo đối xử sư phạm
và vai trị của nó trong việc nâng cao hiệu quả của giờ lên lớp cũng như lãnh
đạo tập thể học sinh; việc xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa giáo viên với
cha mẹ học sinh… [6].
Qua những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về năng lực sư phạm,
nhất là những nghiên cứu về năng lực ứng xử sư phạm, đã cho chúng tơi có
cái nhìn tổng quan về vấn đề năng lực sư phạm, năng lực ứng xử sư phạm như
khái niệm, bản chất, vai trị của nó trong hoạt động sư phạm, trên cơ sở đó
chúng tơi tiếp tục đi sâu nghiên cứu, luận giải làm sáng tỏ những vấn đề trong
nghiên cứu luận văn của mình.
* Các nghiên cứu có liên quan đến năng lực ứng xử sử sư phạm ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề năng lực sư phạm nói chung, năng lực ứng xử sư
phạm nói riêng được nhiều tác giả đề cập tới. Tuy nhiên, các tác giả đều
chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ, rõ ràng về năng lực ứng xử sư phạm của
người giáo viên. Trong số đó nổi lên một số tác giả tiêu biểu sau:
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng, năng lực sư phạm của người giáo
viên bao gồm nhiều năng lực thành phần như: năng lực nắm kiến thức khoa
6
học cơ bản, khoa học giáo dục; năng lực nắm những phương pháp dạy học,
phương pháp giáo dục và vận dụng vào trong thực tiễn hoạt động sư phạm có
hiệu quả; năng lực giao tiếp với học sinh; năng lực tổ chức các dạng hoạt
động của học sinh... [17].
Tác giả Lê Thị Bừng đi sâu nghiên cứu vấn đề Tâm lý học ứng xử.
Trên cơ sở một số quan niệm khác nhau về ứng xử; tác giả quan niệm: ứng
xử chính là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác
đến mình trong tình huống giao tiếp cụ thể. Tác giả cũng chỉ ra các đặc
điểm, bản chất của ứng xử: nếu coi sự khéo léo ứng xử là một thuộc tính của
cá nhân đáp ứng với yêu cầu của hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho
hoạt động ấy đạt kết quả cao, thì khéo léo ứng xử là năng lực của từng cá
nhân biểu hiện qua tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen của con người. Tác
giả cho rằng: để ứng xử đạt kết quả cao con người cần có các thuộc tính tâm
lý: năng lực quan sát đối tượng; kỹ năng biểu hiện những ý nghĩ, tình cảm,
nhận thức của mình với người khác; tôn trọng nhân cách của người giao tiếp
với mình; năng lực tự chú trọng các tình huống giao tiếp… [7].
Trong cơng trình nghiên cứu của mình tác giả Ngơ Cơng Hồn đã làm
rõ quan niệm về ứng xử: là những phản ứng, hành vi của con người nảy sinh
trong quá trình giao tiếp. Ứng xử bao gồm các chức năng: chức năng định
hướng hoạt động; chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi hoạt động; chức
năng truyền tin; chức năng liên kết; chức năng đồng nhất… Đồng thời tác giả
cũng đưa ra những nguyên tắc trong ứng xử giữa cơ giáo và trẻ em [19].
Nhóm tác giả Nguyễn Văn Hộ, Trịnh Trúc Lâm tập trung nghiên cứu về
ứng xử sư phạm, các tác giả đã đưa ra quan niệm: ứng xử sư phạm là một
dạng hoạt động giao tiếp giữa những người làm công tác giáo dục và được
giáo dục trong nhà trường nhằm giải quyết các tình huống nảy sinh trong hoạt
động giáo dục và giáo dưỡng. Những thành phần tham gia vào hoạt động ứng
xử sư phạm bao gồm: đặc điểm nhân cách của người giáo viên; hoạt động và
7
nhân cách của học sinh; khí chất của người giáo viên; tình huống sư phạm;
các quy trình ứng xử sư phạm… [22].
Gần đây cũng có một số cơng trình nghiên cứu, luận văn cao học có
liên quan đến vấn đề này:
Luận văn Cao học: “Năng lực ứng xử sư phạm của giáo viên trung
học phổ thông” của tác giả Vũ Thị Vân, năm 2011. Tác giả cho rằng: “năng
lực ứng xử sư phạm là thuộc tính tâm lý cá nhân, nó giúp giáo viên giải
quyết một cách linh hoạt, sáng tạo, tế nhị các tình huống nảy sinh trong quá
trình giao tiếp với học sinh nhằm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, đúng đắn,
tạo điều kiện để thực hiện có hệu quả mục đích giáo dục” [46, tr.21]. Tác giả
chỉ ra các biểu hiện năng lực ứng xử sư phạm của người giáo viên trên các
dấu hiệu: khả năng thiết lập mối quan hệ; khả năng lắng nghe học sinh; khả
năng tự chủ xúc cảm hành vi; khả năng diễn đạt dễ hiểu cụ thể; khả năng
linh hoạt, mềm dẻo trong ứng xử; khả năng thấu hiểu tâm lý học sinh ... [46].
Qua những nghiên cứu ở trên của các tác giả, đã có nhiều những quan
niệm khác nhau về năng lực sư phạm, năng lực ứng xử sư phạm, tựu chung
các tác giả đều cho rằng năng lực ứng xử sư phạm là một trong những thành
tố quan trọng trong cấu thành năng lực sư phạm, đảm bảo cho người giáo
viên hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục.
Tuy nhiên, các nghiên cứu ở trên chưa đi sâu, làm rõ nội hàm khái niệm,
những biểu hiện, đặc điểm, bản chất, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến
năng lực ứng xử sư phạm. Chưa chỉ ra con đường, biện pháp rèn luyện, nâng
cao loại năng lực chuyên biệt này một cách cơ bản, hệ thống. Mặt khác, các
nghiên cứu ở trên mới chỉ hướng vào đối tượng là giáo viên ở các cấp học phổ
thông mà chưa đề cập đến giảng viên đại học; đặc biệt là giảng viên trẻ ở các
nhà trường Đại học. Vì thế, việc nghiên cứu về năng lực ứng xử sư phạm của
8
giảng viên trẻ ở các trường Đại học hiện nay là cần thiết cả về lý luận và thực
tiễn.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC ỨNG XỬ SƯ PHẠM
CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Năng lực ứng xử sư phạm
* Năng lực
Năng lực là vấn đề phức tạp, cho đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác
nhau về năng lực. Ngay trong tâm lý học cũng có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu của nhiều tác giả và đã đưa ra nhiều khuynh hướng khi bàn về năng lực.
Khuynh hướng thứ nhất: xem năng lực như là một tổ hợp những thuộc
tính nói chung của cá nhân để hồn thành có kết quả một hoạt động nào đó.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các tác giả Covaliov A.G; Leytex
N.X; Rubinxtein; Petroxki A.V; Phạm Minh Hạc…
Covaliov A.G cho rằng: “Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp
những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt
động và đảm bảo cho hoạt động đạt được kết quả cao” [8, tr. 90].
Tác giả Leytex N.X cho rằng: những thuộc tính tâm lý nào của cá nhân
là điều kiện để hoàn thành những loại hoạt động nhất định gọi là năng lực.
Tác giả Rubinxtein quan niệm: Năng lực là tồn bộ những thuộc tính
tâm lý nào làm cho con người thích hợp với một hoạt động nhất định.
Theo Petroxki A.V: Năng lực là những đặc điểm tâm lý của cá nhân mà
nhờ đó có sự tích luỹ kỹ năng, kỹ xảo được dễ dàng và nhanh chóng...
Tác giả Phạm Minh Hạc khẳng định: Năng lực là những đặc điểm tâm
lý cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động nhất định nào đó và là
điều kiện để thực hiện có hiệu quả hoạt động đó.
9
Khuynh hướng thứ hai: xem năng lực là tổ hợp các phẩm chất tâm sinh lý của cá nhân đảm bảo đạt kết quả cao ở một hoạt động nào đó.
Tiêu biểu có các tác giả như: Rudik P.A; Nguyễn Quang Uẩn; Nguyễn
Kế Hào; Phan Thị Hạnh Mai; Nguyễn Ngọc Phú; Hồng Đình Châu...
Tác giả Rudik P.A cho rằng: “Năng lực là tính chất tâm - sinh lí của con
người chi phối các quá trình tiếp thu các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như
hiệu quả thực hiện một hoạt động nhất định” [34, tr. 401].
Các nhà Tâm lý học Việt Nam quan niệm: “Năng lực là tổ hợp các
thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một loại hình
hoạt động cụ thể, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt” [44].
Cùng nghiên cứu về năng lực các nhà Tâm lý học quân sự Việt Nam
đưa ra quan niệm: “Năng lực là tổng hợp những phẩm chất tâm lý và sinh lí
của cá nhân đáp ứng với những yêu cầu của hoạt động nhất định, bảo đảm cho
hoạt động ấy nhanh chóng thành thạo và đạt kết quả cao” [33, tr. 295 - 296].
Nhìn chung các quan niệm về năng lực theo hai hướng tiếp cận trên đây
đều coi năng lực là tổ hợp các phẩm chất tâm và sinh lí tạo ra tiền đề, điều
kiện bảo đảm cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, khi
luận giải các thành tố tâm lý của năng lực chưa thật đầy đủ, mối quan hệ giữa
các thành tố chưa rõ ràng. Do đó, q trình xem xét, đánh giá cũng như việc
bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao năng lực hoạt động của con người gặp nhiều
khó khăn và khó chuyên sâu theo từng lĩnh vực cụ thể.
Khuynh hướng thứ ba: xem năng lực là tổ hợp của ba thành tố tâm lý
cơ bản: kiến thức, thái độ và kỹ năng.
Cách tiếp cận này được xem là hướng tiếp cận mới về năng lực và được
sử dụng phổ biến hiện nay. Đây là một bước đột phá trong nghiên cứu và ứng
dụng năng lực vào thực tiễn hoạt động nghề nghiệp. Tiêu biểu cho khuynh
hướng này là các tác giả: Christian Battal, Barnett, Benjamin Bloom, Dave,
Kenvot, Martin và Phạm Đỗ Nhật Tiến …
10
Khi nghiên cứu về năng lực chuyên môn trong hoạt động nghề nghiệp Tác
giả Christian Battal cho rằng: năng lực chuyên môn là những năng lực nhận
thức, năng lực thực tiễn và năng lực hành vi mà một cá nhân đạt được. Năng lực
chuyên môn bao gồm “kiến thức”, “kỹ năng” và “hành vi thái độ” cần thiết
để đảm nhiệm một vị trí hoặc thực hiện một hoạt động. Năng lực có được
thơng qua đào tạo và qua kinh nghiệm nghề nghiệp của chủ thể [3, tr. 284].
Tương đồng với quan niệm trên tác giả Barnett cho rằng: Năng lực là một
tập hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp với một hoạt động thực tiễn.
Tác giả Benjamin là người đầu tiên xây dựng mơ hình năng lực đó là tổ
hợp của kiến thức, kỹ năng và đặc điểm cá nhân (thái độ bản thân) cần có để
hồn thành tốt một vai trị hoặc cơng việc.
Trong những nghiên cứu của mình về năng lực, tác giả Phạm Đỗ Nhật
Tiến cho rằng: năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức của
kiến thức, thái độ và kỹ năng. Còn năng lực trong hoạt động sư phạm của
người giáo viên tác giả quan niệm: “Năng lực nghề nghiệp được hiểu là tổng
thể của những kiến thức, kỹ năng, thái độ mà giáo viên cần có để xử lý thành
cơng trước sự đa dạng của các tình huống giảng dạy, giáo dục”. Năng lực nghề
nghiệp của người giáo viên được hình thành từ quá trình đào tạo trong trường
sư phạm và phát triển qua thực tế hoạt động sư phạm [42, tr. 45].
Trên cơ sở nghiên cứu các khuynh hướng tiếp cận khác nhau về năng lực
của các tác giả trong và ngoài nước. Chúng tôi nhận thấy rằng, hướng tiếp cận
thứ ba về năng lực là khuynh hướng hiện đại, đã nhận được sự quan tâm của
nhiều nhà tâm lý, giáo dục học; đáp ứng được yêu cầu của các lĩnh vực hoạt
động nói chung, hoạt động sư phạm nói riêng. Xuất phát từ cách tiếp cận năng
lực ứng xử là một loại năng lực chuyên biệt, gắn với hoạt động nghề nghiệp
sư phạm, chúng tôi quan niệm về năng lực theo cách tiếp cận này như sau:
Năng lực là tổ hợp của các thành tố kiến thức, thái độ và kỹ năng của
chủ thể đáp ứng với yêu cầu hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động ấy
đạt hiệu quả cao.
11
Nói đến năng lực là nói đến thuộc tính trong nhân cách mang tính ổn
định, bền vững của mỗi cá nhân. Năng lực khơng phải là một thuộc tính cá
nhân riêng lẻ, mà là sự tích hợp của các thành tố kiến thức, thái độ và kỹ năng
tạo nên khả năng hiện thực của chủ thể trong hoạt động nhất định, đảm bảo
cho hoạt động ấy nhanh chóng thành thạo và đạt được kết quả cao.
Năng lực được hình thành, phát triển trong hoạt động và biểu hiện ra
trong hoạt động. Thông qua hoạt động và bằng hoạt động, chủ thể mới có
nhận thức về đối tượng, nắm bắt những đặc điểm, thuộc tính, bản chất của đối
tượng. Trên cơ sở đó, bộc lộ thái độ phù hợp với đối tượng và có cách thức
tác động, nhằm cải tạo đối tượng theo mục đích đã định. Qua đó cũng hình
thành được hệ thống kỹ năng hoạt động tương ứng với đối tượng để mang lại
hiệu quả cao cho hoạt động ấy.
Năng lực của cá nhân phản ánh mức độ đạt được của kiến thức, thái
độ, kỹ năng và chất lượng, hiệu quả trong một hoạt động nào đó của họ.
Người có năng lực được biểu hiện ở sự nhanh chóng chiếm lĩnh tri thức, có
thái độ tích cực, tâm huyết với lĩnh vực hoạt động; từ đó có sự thuần thục các
kỹ năng của hoạt động làm cho hoạt động diễn ra đạt hiệu quả cao nhất.
* Ứng xử sư phạm
Vấn đề ứng xử trong tâm lý học vđược hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Ứng xử được hiểu là những phản ứng thể hiện thái độ
của chủ thể dưới tác động của thế giới khách quan. Theo cách hiểu này thì
ứng xử có cả ở người và vật.
Theo nghĩa hẹp: Ứng xử chỉ được dùng để chỉ những phản ứng thể hiện
thái độ của con người trước những tình huống có vấn đề nào đó diễn ra trong
q trình giao tiếp. Theo cách hiểu này thì ứng xử chỉ có ở con người.
Tác giả Ngơ Cơng Hồn quan niệm về ứng xử như sau: “Ứng xử là những
phản ứng hành vi của con người nảy sinh trong quá trình giao tiếp, do những
12
rung cảm cá nhân kích thích nhằm lĩnh hội, truyền đạt những tri thức, vốn sống
kinh nghiệm của cá nhân, xã hội trong những tình huống nhất định” [19, tr. 14].
Tác giả Lê Thị Bừng cho rằng: “Ứng xử là sự phản ứng của con người
đối với sự tác động của người khác đến mình trong tình huống giao tiếp cụ
thể. Nó thể hiện ở chỗ con người khơng chủ động trong giao tiếp mà chủ động
trong phản ứng có sự thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng Tuỳ thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết
quả trong giao tiếp” [7, tr.30].
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quan điểm của các tác giả về ứng
xử, chúng tôi đưa ra khái niệm ứng xử như sau:
Ứng xử là phản ứng của chủ thể dưới sự tác động của người khác
trong tình huống giao tiếp, được biểu hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách
nói năng nhằm đạt kết quả cao trong giao tiếp.
Ứng xử là phản ứng của chủ thể trước tác động của người khác thơng
qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng... hay nói cách khác ứng xử chính
là một hiện tượng tâm lý.
Ứng xử chỉ xuất hiện khi có tình huống tác động; khi có tình huống
xuất hiện, sẽ tạo ra một trạng thái tâm lý đặc biệt ở chủ thể, nó kích thích chủ
thể tư duy để tìm cách giải quyết, trên cơ sở vận dụng toàn bộ tri thức, kỹ xảo,
kỹ năng, kinh nghiệm sống của bản thân. Vì vậy, chủ thể ln thể hiện trình
độ văn hố, nhân cách, nhân sinh quan của mình trong mỗi cách ứng xử.
Trong ứng xử chủ thể bị động về hình thức tác động nhưng hoàn toàn
chủ động về phản ứng đáp lại. Các tình huống tác động đó buộc con người
phải bộc lộ thái độ, hành vi cử chỉ, lời nói ... để đáp lại, để giải quyết. Tuy
nhiên, do mỗi cá nhân có đặc điểm phát triển về thể chất, đặc điểm khí chất;
trình độ nhận thức, kinh nghiệm, vốn sống, phong cách hoạt động khác nhau
dẫn đến các thao tác, hành vi phản ứng của mỗi cá nhân cũng khác nhau ở tốc
độ, cường độ, nhịp điệu và tính chất. Tức là, sự phản ứng qua hành vi, cử chỉ,
13
cách nói năng ở mỗi người thể hiện nhanh hay chậm; mạnh hay yếu; đồng đều
hay thất thường trong ứng xử với mọi người.
Ứng xử bao giờ cũng được thực hiện trong các quan hệ xã hội nhất
định, chịu sự chế ước chuẩn mực, khuôn mẫu của các quan hệ đó. Trong ứng
xử giữa con người với con người được điều chỉnh bởi những chuẩn mực, giá
trị xã hội từ đó quy định cho mỗi người một vị trí xã hội nào đó mà con người
sẽ đảm nhiệm.
Vấn đề ứng xử sư phạm hiện nay có nhiều tác giả nghiên cứu; trong đó
nổi lên một số tác giả tiêu biểu sau:
Tác giả Nguyễn Văn Hộ và Trịnh Trúc Lâm đã giành nhiều thời gian và
tâm huyết để nghiên cứu về ứng xử sư phạm và đã đưa ra quan niệm: “Ứng
xử sư phạm là một dạng hoạt động, giao tiếp giữa những người làm công tác
giáo dục và được giáo dục trong nhà trường nhằm giải quyết các tình huống
nảy sinh trong hoạt động giáo dục và giáo dưỡng” [22, tr.16].
Tác giả Vũ Thị Vân trong nghiên cứu luận văn của mình đã đưa ra quan
niệm về ứng xử sư phạm như sau: “ứng xử sư phạm là loại ứng xử diễn ra
trong toàn bộ hoạt động sư phạm nhằm giải quyết các tình huống nảy sinh
trong quá trình giao tiếp giữa giáo viên và học sinh để từ đó góp phần giáo
dục hồn thiện nhân cách cho học sinh” [46, tr.20].
Trên cơ sở tiếp thu, nghiên cứu các quan niệm về ứng xử và ứng xử sư
phạm của các nhà khoa học, chúng tôi đưa ra quan niệm về ứng xử sư phạm
như sau:
Ứng xử sư phạm là loại ứng xử của nhà sư phạm để xử lý
các tình huống sư phạm nảy sinh trong quá trình giao tiếp
giữa giảng viên và học viên nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động sư phạm.
Ứng xử sư phạm là loại ứng xử diễn ra trong toàn bộ hoạt động sư
phạm, là phản ứng của nhà sư phạm trước tác động của người học thông qua
14
hệ thống thái độ, cử chỉ, cách nói năng của nhà sư phạm nhằm giải quyết các
tình huống nảy sinh trong quá trình giao tiếp giữa nhà sư phạm và người học
để từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sư phạm.
Ứng xử sư phạm luôn chịu sự quy định và điều tiết của những chuẩn
mực xã hội và quy chế, nội quy của các thể chế và cơ quan giáo dục ấn định
cho nhà sư phạm và người học có trách nhiệm thi hành.
Ứng xử sư phạm nhằm phát triển nhân cách toàn diện của người học
theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của từng nhà trường. Nhà trường là nơi chủ
động tổ chức quá trình hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho người
học và hiệu quả của hoạt động đó phụ thuộc vào sự tổ chức, chỉ đạo với
những nội dung, phương pháp, cách thức hoạt động đúng hướng, khoa học
của nhà trường và đội ngũ giáo viên hội tụ đầy đủ các phẩm chất, năng lực;
trong đó linh hoạt, hiệu quả của ứng xử sư phạm giữ vai trò quan trọng.
* Năng lực ứng xử sư phạm
Vấn đề năng lực ứng xử sư phạm từ lâu đã được nhiều các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu trong số đó có một số tác giả sau:
Các nhà tâm lý học Liên Xô cũ như Cruchetxky V.A, Petropxki A.V đã
đề cập đến năng lực ứng xử sư phạm của giáo viên, nhưng mới chỉ dừng lại ở
việc mô tả một số yếu tố của sự khéo léo đối xử sư phạm nhưng chưa khái
quát thành khái niệm.
Tác giả Gonobolin P.N cho rằng: Tài ứng xử sư phạm là kỹ năng trong
bất kỳ trường hợp nào cũng tìm ra được những giải pháp giáo dục đúng đắn
nhất [15].
Bondarepxcaia T.N. quan niệm: “Sự khéo léo về sư phạm là sự tiếp xúc
của giáo viên với thế giới bên trong của nhi đồng, thiếu niên, thanh niên; sự
gần gũi thực sự học sinh trên cơ sở hiểu biết các em và biết đi sâu vào tâm
trạng chủ quan của các em; đoán trước được những phản ứng có thể xảy ra ở
15
học sinh đối với các biện pháp giáo dục. Đồng thời biết giữ mức độ khi giải
quyết các tình huống” [6, tr.15 - 16].
Usinxki K.D lại đi sâu nghiên cứu việc hình thành năng lực khéo léo đối
xử về sư phạm. Tác giả cho rằng quá trình hình thành, phát triển năng lực
khéo léo đối xử sư phạm phụ thuộc vào đặc điểm về nhân cách của giáo viên:
“Ở một số người nhanh, rộng, cân đối hơn; ở một số người khác thì chậm
chạp, nghèo nàn và rời rạc”, đó là tuỳ theo trình độ hiểu biết của giáo viên về
tâm lý học [45, tr. 191].
Cùng nghiên cứu vấn đề này, tác giả Macarenco cho rằng: sự khéo léo đối
xử về sư phạm là sự biểu hiện chân thành của lịng nhân đạo chân chính, nhưng
khơng phải của con người nói chung mà của nhà giáo dục lành nghề [30].
Ngồi ra các tác giả khác Cuzomina N.V, Dabraliubop N.A .... cũng đều
quan tâm đến vấn đề này. Các tác giả đều thống nhất quan điểm cho rằng: Sự
khéo léo ứng xử sư phạm là năng lực, năng lực này là thuộc tính tâm lý của
người giáo viên, là nét đặc trưng có tính quyết định trong hành vi của người
giáo viên, mà thiếu nó khơng thể trở thành nhà giáo dục tốt.
Cùng nghiên cứu về năng lực ứng xử sư phạm, tác giả Vũ Thị Vân đi sâu
nghiên cứu về năng lực ứng xử sư phạm của giáo viên trung học phổ thông và
đã đưa raquan niệm: “năng lực ứng xử sư phạm là thuộc tính tâm lý cá nhân,
nó giúp giáo viên giải quyết một cách linh hoạt, sáng tạo, tế nhị các tình
huống nảy sinh trong quá trình giao tiếp với học sinh, nhằm xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp, đúng đắn, tạo điều kiện để thực hiện có hiệu quả mục đích
giáo dục” [46, tr.21].
Từ việc tiếp cận, nghiên cứu, làm rõ quan niệm về năng lực; ứng xử; ứng
xử sư phạm; năng lực ứng xử sư phạm của các tác giả trong và ngoài nước. Trên
cơ sở đó chúng tơi đã đưa ra quan niệm về năng lực ứng xử sư phạm như sau:
16
Năng lực ứng xử sư phạm là tổ hợp các thành tố kiến thức, thái độ và
kỹ năng của nhà sư phạm, đáp ứng với việc xử lý linh hoạt, tế nhị, sáng tạo
các tình huống sư phạm, đảm bảo cho hoạt động sư phạm đạt hiệu quả cao.
Năng lực ứng xử sư phạm là sự tổ hợp của các thành tố kiến thức, thái
độ, kỹ năng của nhà sư phạm đáp ứng với yêu cầu xử lý linh hoạt, tế nhị, sáng
tạo các tình huống sư phạm, đảm bảo cho hoạt động diễn ra thuận lợi và có
hiệu quả cao. Trong đó, Kiến thức là tổng thể những hiểu biết của người giảng
viên trong ứng xử sư phạm bao gồm những vấn đề hiểu biết xung quanh tình
huống sư phạm và đối tượng ứng xử. Thái độ của giảng viên trong ứng xử sư
phạm biểu hiện ở việc chủ thể có sự đồng cảm, quan tâm, lắng nghe, chia sẻ
của đối tượng ứng xử và biết làm chủ cảm xúc của bản thân trong tình huống
sư phạm. Kỹ năng ứng xử sư phạm là sự vận dụng kiến thức của giảng viên
vào phản ứng, xử lý linh hoạt, tế nhị, sáng tạo các tình huống sư phạm, nhằm
xây dựng mối quan hệ qua lại tích cực giữa giảng viên và học viên cùng
hướng tới mục đích chung của hoạt động sư phạm.
Sự tác động qua lại, biện chứng, tích hợp của các thành tố tâm lý này
giúp chủ thể nhanh chóng nhận thức, đánh giá được các tình huống sư phạm
nảy sinh cũng như đối tượng ứng xử; kịp thời đưa ra phương thức xử lý linh
hoạt, sáng tạo, có hiệu quả các tình huống sư phạm; đảm bảo cho hoạt động
sư phạm diễn ra thuận lợi và đạt được kết quả cao.
Năng lực ứng xử sư phạm là thuộc tính tâm lý của nhà sư phạm, được biểu
hiện ở việc trên cơ sở nhận biết những nguyên tắc, cách thức ứng xử sư phạm, đặc
điểm, thuộc tính tâm lý đối tượng. Nhận biết, đánh giá các huống sư phạm, bộc lộ
thái độ phù hợp trong ứng xử sư phạm, kết hợp với sự thuần thục cao ở các kỹ
năng ứng xử sư phạm. Từ đó, giúp chủ thể xử lý linh hoạt, tế nhị, sáng tạo, có
hiệu quả tình huống sư phạm trong những điều kiện, hồn cảnh khác nhau.
17
Kết quả của năng lực ứng xử sư phạm làm cho giảng viên có thái độ,
hành vi, cử chỉ, cách nói năng phù hợp với đối tượng trong những tình huống
sư phạm; đồng thời thiết lập được mối quan hệ qua lại tích cực giữa giảng
viên và học viên nhằm thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục,
đào tạo của Nhà trường.
1.1.2. Năng lực ứng xử sư phạm của giảng viên trẻ ở các trường Đại
học hiện nay
* Quan niệm về giảng viên trẻ
Hiện nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến giảng viên
trẻ. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu mà các tác giả đã đưa ra
các quan niệm khác nhau về giảng viên trẻ:
“Giảng viên trẻ có những dấu hiệu cơ bản: trình độ học vấn cử nhân là
chủ yếu, (độ tuổi trên dưới 30 tuổi), tuổi nghề dưới 5 năm làm công tác giảng
dạy và nghiên cứu khoa học; có đặc điểm về tâm lý sư phạm chưa ổn định,
kinh nghiệm sư phạm và nghiên cứu khoa học còn thiếu”
Cùng nghiên cứu về giảng viên trẻ, tác giả Hoàng Thái Sơn lại cho
rằng: “Giảng viên trẻ là giảng viên ở độ tuổi từ 22 đến 35, tốt nghiệp các
trường đại học trong nước hoặc ngoài nước, đủ điều kiện để được tuyển chọn
làm nghề giảng dạy trong các trường đại học” [37].
Tác giả Trần Thu Hương quan niệm rằng: “Giảng viên trẻ là những
người mới vào nghề, có tuổi đời từ 22 đến 35 tuổi và có số năm giảng dạy từ
05 trở xuống tại các học viện, trường đại học” [25].
Từ các cách tiếp cận ở trên về giảng viên trẻ, tựu chung lại các tác giả
đều khẳng định giảng viên trẻ là những người có tuổi đời không quá 35, tuổi
nghề không quá 5 năm; đang trực tiếp tham gia vào hoạt động sư phạm.
18
Xuất phát từ những đặc điểm này mà trong hoạt động sư phạm của
giảng viên trẻ mang những đặc trưng tiêu biểu, gắn với tuổi đời, tuổi nghề,
trình độ học vấn, kinh nghiệm và sự ổn định về mặt tâm lý...
Trên cơ sở tiếp cận, nghiên cứu, làm rõ quan niệm về giảng viên trẻ
của các tác giả, chúng tôi cho rằng: Giảng viên trẻ là những người đang trực
tiếp tham gia vào hoạt động sư phạm ở các trường đại học, có trình độ đại học
trở lên, tuổi đời từ 23 đến 35 và tuổi nghề dưới 5 năm.
Giảng viên trẻ trước tiên phải là những người có đủ tiêu chuẩn về
phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp; trình độ học vấn; năng lực và tay
nghề sư phạm như: có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; học vị tối thiểu từ cử
nhân trở lên; đã qua đào tạo chuyên ngành sư phạm hoặc có chứng chỉ bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm; năng lực công tác đáp ứng với yêu cầu của nghề
nghiệp sư phạm.
Trải qua thời gian làm trợ giảng (thơng thường là hai năm). Khi đã
tích luỹ đủ những điều kiện và tiêu chuẩn cần thiết, được Nhà trường xét
duyệt công nhận chức danh giảng viên.
hoạt động sư phạm của bản thân.
* Năng lực ứng xử sư phạm của giảng viên trẻ ở các trường đại học
Trên cơ sở lí luận về năng lực ứng xử sư phạm, vận dụng trong điều
kiện thực tiễn có thế khái niệm
Năng lực ứng xử sư phạm của giảng viên trẻ ở các
trường Đại học là tổ hợp các thành tố kiến thức, thái độ và kỹ
năng của giảng viên trẻ, đáp ứng với việc xử lý linh hoạt, tế nhị,
sáng tạo các tình huống sư phạm, đảm bảo cho hoạt động sư phạm đạt hiệu
quả cao.
Nội hàm của khái niệm năng lực ứng xử sư phạm được biểu hiện ở một
số nội dung sau:
19
Năng lực ứng xử sư phạm của giảng viên trẻ là sự kết hợp hài hoà của
các thành tố kiến thức, thái độ và kỹ năng của giảng viên trẻ đáp ứng được
yêu cầu xử lý linh hoạt, sáng tạo, các tình huống sư phạm để mang lại hiệu
suất cao cho hoạt động sư phạm của người giảng viên.
Kiến thức là tổng thể những hiểu biết của chủ thể về: Nguyên tắc ứng
xử sư phạm trong nhà trường quân đội; Hiểu biết về các kiến thức Tâm lý,
giáo dục học sĩ quan; Hiểu biết về hồn cảnh nảy sinh tình huống và các mâu
thuẫn chứa đựng trong tình huống sư phạm; Hiểu biết về đặc điểm, thuộc tính
tâm lý của học viên: nhận thức, khí chất, tính cách, năng lực; Hiểu biết về
trạng thái cảm xúc của học viên trong tình huống sư phạm....
Thái độ được biểu hiện ở: Tơn trọng hồn cảnh và đối tượng trong tình
huống sư phạm; Đồng cảm, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của học viên
trong tình huống sư phạm; Chân thành, cởi mở, gần gũi, thân thiện với học
viên; Bình tĩnh, tự tin, làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân trong tình
huống sư phạm; Sẵn sàng giải đáp và làm thoả mãn những khó khăn, vướng
mắc của học viên...
Kỹ năng ứng xử sư phạm là sự vận dụng kiến thức của giảng viên trẻ
vào thực tiễn giải quyết một cách linh hoạt, sáng tạo các tình huống sư phạm
trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả cao.
Giảng viên trẻ có năng lực ứng xử sư phạm cần có hệ thống các kỹ năng:
Nhận diện mâu thuẫn và mức độ xảy ra của tình huống sư phạm; Xây dựng
các giả thuyết và phương án giải quyết tình huống sư phạm; Quan sát và điều
khiển đối tượng trong tình huống sư phạm; Lựa chọn phương án giải quyết tối
ưu và thực hiện giải quyết tình huống sư phạm; Kiểm tra, đánh giá kết quả
giải quyết tình huống sư phạm; Làm chủ trạng thái xúc cảm và hành vi của
bản thân trong tình huống sư phạm. … Thành tố này giữ vai trò chủ đạo trong
thực tiễn, biểu hiện cụ thể của năng lực ứng xử sư phạm trong hoạt động dạy
học và giáo dục cũng như tổ chức các hoạt động tự học của học viên.
20
Tuy nhiên, khơng phải cứ có đầy đủ các thành tố tâm lý (kiến thức, thái
độ và kỹ năng) thì năng lực ứng xử sư phạm của giảng viên trẻ được hình
thành và phát triển, mà điều kiện đủ là các thành tố tâm lý này phải có sự tác
động qua lại, xâm nhập và chuyển hóa vào nhau với tư cách vừa là cơ sở, nền
tảng tạo ra những khả năng hiện thực, vừa là hoạt động tâm lý giúp cho giảng
viên trẻ nhanh chóng đưa ra phương pháp, cách thức ứng xử linh hoạt, khéo
léo, sáng tạo với các tình huống sư phạm.
Kết quả của năng lực ứng sư phạm làm cho chủ thể giải quyết có lý, có
tình; phù hợp với tính đa dạng của đối tượng ứng xử và trước sự phức tạp
của các tình huống; đồng thời, xây dựng được mối quan hệ thân thiện, cởi
mở, tin tưởng, hợp tác giữa giảng viên và học viên trong hoạt động sư phạm;
góp phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục ở nhà trường.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, năng lực ứng xử sư phạm của
giảng viên trẻ là loại năng lực chuyên biệt, bao gồm nhiều yếu tố tâm lý tham
gia. Việc hình thành và phát triển loại năng lực chuyên biệt này ở giảng viên
trẻ địi hỏi sự tự giác, tích cực trong học tập, rèn luyện; có sự trải nghiệm thực
tiễn hoạt động sư phạm dưới sự hướng dẫn tận tình của các thế hệ giảng viên
có kinh nghiệm, cũng như cơng tác bồi dưỡng, uốn nắn thường xun, có hiệu
quả của các lực lượng sư phạm ở các Nhà trường.
1.2. Đặc điểm hoạt động sư phạm của giảng viên trẻ
Hoạt động sư phạm của giảng viên trẻ ở Trường Sĩ quan Chính trị là hoạt
động nghề nghiệp của giảng viên trẻ nhằm thực hiện các chức năng dạy học,
giáo dục và tổ chức công tác học tập độc lập của học viên theo mục tiêu, yêu
cầu giáo dục – đào tạo của các trường Đại học .
Trong đó, chức năng dạy học của người giảng viên là chức năng chủ yếu
và được thực hiện thông qua hoạt động dạy học, truyền thụ tri thức, kỹ xảo,
và nghề nghiệp sư phạm của người giảng viên.
21
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động sư phạm của giảng viên trẻ nổi lên 5
đặc điểm cơ bản sau đây:
1.2.1. Hoạt động nghề nghiệp sư phạm nhằm thực
hiện nhiệm vụ đào tạo
Hoạt động nghề nghiệp sư phạm của người giảng viên nói chung hướng
vào việc hình thành, phát triển hệ thống kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng chuyên
môn theo từng ngành nghề, lĩnh vực. Điều này, đòi hỏi người học phải tích
cực học tập, rèn luyện hồn thiện bản thân theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Đồng thời, đặt ra yêu cầu với giảng viên trẻ là muốn nâng cao chất lượng dạy
học và giáo dục ngồi việc có kiến thức chun mơn sâu thì cần phải có năng
lực, tay nghề sư phạm giỏi trong đó đặc biệt chú ý đến năng lực ứng xử sư
phạm để nhanh chóng nhận biết các mâu thuẫn; giải quyết linh hoạt, tế nhị,
sáng tạo các tình huống diễn ra trong hoạt động sư phạm. Xây dựng mối quan
hệ đoàn kết thống nhất và hợp tác giữa học viên và giảng viên. Tạo điều kiện
cho các hoạt động giảng dạy, giáo dục, cũng như tổ chức các hoạt động tự học
của học viên diễn ra thuận lợi đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà
trường. Người thầy phải luôn là tấm gương mẫu mực về kiến thức, về phẩm
chất đạo đức và giao tiếp - ứng xử để học viên học tập noi theo.
1.2.2. Diễn ra trong môi trường sư phạm của nhà trường.
Mơi trường sư phạm có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động diễn ra ở
Nhà trường cũng như việc hình thành, phát triển năng lực tồn diện cho đội
ngũ giảng viên trẻ.. Người thầy tôn trọng, giúp đỡ sinh viên về mọi mặt; luôn
quan tâm chia sẻ những khó khăn cùng học viên; coi học viên vừa là học trò,
vừa là bạn bè anh em, chú cháu theo lứa tuổi xã hội. Ngược lại, sinh viên có
niềm tin ở thầy; chân thành, cởi mở khơng ngần ngại chia sẻ những khó khăn,
vướng mắc trong học tập, rèn luyện với thầy. Điều này, là cơ sở quan trọng để
thầy và trị có sự đồng cảm hiểu biết lẫn nhau. Qua đó, mọi vấn đề nảy sinh
22
trong hoạt động sư phạm sẽ nhanh chóng được giải quyết có lý, có tình; góp
phần nâng cao năng lực ứng xử sư phạm cho giảng viên trẻ.
1.2.3. Diễn ra trong điều kiện các trường Đại học đang đẩy mạnh
hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin và ngoại ngữ
Ngày nay, công nghệ thông tin đã trở thành một công cụ hỗ trợ đắc lực
cho hoạt động sư phạm của người giảng viên. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin đã góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Mọi cán
bộ giảng viên nhất là giảng viên trẻ rất tích cực đầu tư, sử dụng giáo án điện
tử cho các bài giảng trên lớp của mình. Chất lượng giáo án điện tử luôn được
quan tâm đầu tư từ màu sắc, hình ảnh, cỡ chữ đến phơng nền, âm thanh, hiệu
ứng, kỹ thuật chèn các video, flash…. Hệ thống cơ sở hạ tầng (bao gồm hệ
thống máy tính, hệ thống mạng LAN, mạng Internet, các phần mềm chuyên
ngành…) phục vụ cho sử dụng công nghệ thông tin của giảng viên cũng được
quan tâm đầu tư cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng với yêu dạy học
và giáo dục của giảng viên. Việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giảng
dạy đã có những tác động khơng nhỏ đến q trình giao tiếp - ứng xử giữa
giảng viên và học viên. Nhờ có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin mà nhiều
nội dung của bài học đã được trình chiếu trên các Slides; giảng viên và học
viên có nhiều thời gian để tương tác, trao đổi, tranh luận về những vấn đề
xung quanh nội dung bài học. Từ đây, nhiều tình huống sư phạm nảy sinh đòi
hỏi giảng viên trẻ cần giải quyết; qua đó các kỹ năng ứng xử sư phạm ngày
một hồn thiện và phát triển.
1.2.4. Diễn ra trong điều kiện đội ngũ giảng viên
trẻ còn thiếu kiến thức và thực tiễn hoạt động sư phạm
Đây là một đặc điểm nổi bật trong hoạt động sư phạm của giảng viên
trẻ trong khi nhiệm vụ giáo dục - đào tạo ngày càng cao mở rộng.
23
1.2.5. Hoạt động dạy học, giáo dục rất đa dạng về hình thức và đối
tượng đào tạo
Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường cũng như tính đa
dạng của đối tượng đào tạo mà nhiều hình thức dạy học và giáo dục đã và
đang được sử dụng hiện nay. Bên cạnh các hình thức dạy học, giáo dục truyền
thống trên lớp; trên thao trường,… Thì do đặc thù là các nhà trường đào tạo
mà nhiều hình thức dạy học, giáo dục mới được thực hiện như các hình thức
hoạt động ngoại khố tham quan; hình thức tập bài; hình thức giảng tập của
học viên; nhiều các câu lạc bộ được mở ra có sự tham gia của đội ngũ giảng
viên trẻ như câu lạc bộ Tiếng Anh, câu lạc bộ Thơ ca, câu lạc bộ văn hố, văn
nghệ, thể dục, thể thao... Mỗi hình thức diễn ra trong các điều kiện, hồn
cảnh, khơng gian, thời gian khác nhau; vì thế, cũng đặt ra những yêu cầu khác
nhau trong cách thức ứng xử của giảng viên trẻ sao cho phù hợp với từng điều
kiện, hoàn cảnh khác nhau nhằm thoả mãn với những mong muốn của người
học.
1.3. Biểu hiện và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực ứng xử sư phạm
của giảng viên trẻ ở Trường Sĩ quan Chính trị
* Nhận thức (hiểu biết) của giảng viên trẻ trong ứng xử sư phạm
Nhận thức chính là cơ sở nền tảng cho mọi hành vi, hoạt động của con
người; có nhận thức đúng trong ứng xử sư phạm, người giảng viên trẻ mới
bộc lộ thái độ phù hợp, từ đó hình thành hệ thống kỹ năng ứng xử sư phạm.
Trong năng lực ứng xử sư phạm thì thành phần nhận thức (hiểu biết) của
giảng viên trẻ trong ứng xử sư phạm được biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản sau:
1. Hiểu biết về các nguyên tắc ứng xử sư phạm trong nhà trường.
2. Hiểu biết về đặc điểm, thuộc tính tâm lý của sinh viên.
3. Hiểu biết về các kiến thức Tâm lý, giáo dục học .
4. Hiểu biết về hồn cảnh nảy sinh tình huống và các mâu thuẫn chứa
đựng trong tình huống sư phạm.
24
5. Hiểu biết về nhu cầu, mong muốn của học viên trong tình huống sư phạm.
6. Hiểu biết về trạng thái cảm xúc của học viên trong tình huống sư phạm.
* Thái độ của giảng viên trẻ trong ứng xử sư phạm
Trên cơ sở nhận thức đúng trong ứng xử sư phạm, giảng viên trẻ sẽ có
thái độ phù hợp trong ứng xử sư phạm. Yêu thương, tôn trọng và giúp đỡ học
viên; học viên sẵn sàng chia sẻ những mong muốn, khó khăn vướng mắc với
giảng viên trẻ; tạo điều kiện cho giảng viên trẻ nhanh chóng nắm bắt những
đặc điểm, thuộc tính tâm lý của học viên để đề ra cách thức ứng xử phù hợp.
Thái độ của giảng viên trẻ trong ứng xử sư phạm được biểu hiện ở các
khía cạnh sau:
1. Tơn trọng hồn cảnh và đối tượng trong tình huống sư phạm.
2. Đồng cảm, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của học viên trong tình
huống sư phạm.
3. Chân thành, cởi mở, gần gũi, thân thiện với học viên.
4. Quan tâm và chia sẻ những mong muốn của học viên.
5. Bình tĩnh, tự tin, làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân trong tình
huống sư phạm.
6. Sẵn sàng giải đáp và làm thoả mãn những khó khăn, vướng mắc của
học viên.
* Kỹ năng ứng xử sư phạm của giảng viên trẻ
Để hoạt động sư phạm đạt hiệu quả cao, đòi hỏi người giảng viên phải
có sự thuần thục cao và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kỹ năng vào giải
quyết các tình huống sư phạm trong những điều kiện, hồn cảnh khác nhau.
Năng lực ứng xử sư phạm là một thuộc tính tâm lý; nó khơng chỉ được biểu
hiện qua nhận thức, thái độ của giảng viên trẻ trong ứng xử sư phạm, mà còn
được biểu hiện cụ thể ở các kỹ năng ứng xử sư phạm như sau:
1. Nhận diện mâu thuẫn và mức độ xảy ra của tình huống sư phạm.
2. Xây dựng các giả thuyết và phương án giải quyết tình huống sư phạm.
25
3. Quan sát và điều khiển đối tượng trong tình huống sư phạm.
4. Lựa chọn phương án giải quyết tối ưu và thực hiện giải quyết tình
huống sư phạm.
5. Kiểm tra, đánh giá kết quả giải quyết tình huống sư phạm.
6. Làm chủ trạng thái xúc cảm và hành vi của bản thân trong tình huống
sư phạm.
* Kết quả giải quyết tình huống sư phạm của giảng viên trẻ
Giảng viên trẻ có năng lực ứng xử sư phạm sẽ được biểu hiện rõ nhất ở
kết quả giải quyết tình huống sư phạm của họ, đó là kết quả của quá trình
nhận thức đúng đắn trong ứng xử sư phạm, thái độ tích cực trong ứng xử sư
phạm và sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kỹ năng ứng xử vào giải quyết
các tình huống sư phạm nảy sinh trong thực tiễn hoạt động sư phạm. Kết quả
giải quyết tình huống sư phạm được biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản sau:
1. Đưa ra phương án giải quyết hiệu quả tình huống sư phạm.
2. Giải quyết tình huống sư phạm phù hợp với tính đa dạng của đối
tượng ứng xử.
3. Thiết lập mối quan hệ qua lại tích cực giữa giảng viên và học viên.
4. Xây dựng bầu không khí tâm lý lớp học sơi nổi, dân chủ, cởi mở, thoải mải.
5. Tạo hứng thú trong học tập, rèn luyện của học viên.
6. Góp phần nâng cao kết quả học tập, rèn luyện của học viên.
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực ứng xử sư phạm của giảng
viên trẻ
Các yếu tố chủ quan
* Phong cách sư phạm
Phong cách sư phạm là kiểu hoạt động điển hình, độc đáo của người
giảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục. Giảng
viên trẻ là những người mới vào nghề, phong cách sư phạm bước đầu đã được
26
định hình và phát triển. Đây là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới
năng lực ứng xử sư phạm của họ.
Giảng viên trẻ có phong cách sư phạm độc đốn: do tính độc đốn
chiếm ưu thế, nên khơng quan tâm đến những đặc điểm, thuộc tính tâm lý
riêng của đối tượng ứng xử. Trong xử lý các tình huống sư phạm thường thiếu
thiện chí, mang tính áp đặt lên người học; việc lạm dụng uy quyền, dẫn tới
những biểu hiện thiếu chuẩn mực trong ứng xử; quan hệ thầy trò thường căng
thẳng, thiếu sự hợp tác trong thực hiện nhiệm vụ, hiệu quả giải quyết tình
huống sư phạm khơng cao.
Giảng viên trẻ có phong cách sư phạm tự do: thường có tính linh hoạt
q cao trong giao tiếp; dễ thay đổi mục đích, khơng làm chủ được diễn biến
tâm lý của mình, dễ chiều theo đối tượng giao tiếp; dễ dàng thiết lập mối
quan hệ nhưng cũng dễ dàng đánh mất các mối quan hệ, cho nên cũng dễ
mất uy tín. Trong giao tiếp - ứng xử thường bồng bột, khơng sâu sắc, thiếu
lập trường vì họ khơng làm chủ được mình.
Giảng viên trẻ có phong cách dân chủ: thường nhiệt tình, thiện chí, cởi
mở, gần gũi, tôn trọng nhân cách đối tượng ứng xử. Những người này thường
có sự đồng cảm, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của học viên trong ứng xử.
Lắng nghe; quan tâm, chia sẻ những mong muốn của học viên; giúp đỡ học
viên khi cần thiết nên họ dễ dàng thiết lập mối quan hệ qua lại tích cực với
người học; xử lý linh hoạt và làm thoả mãn mong muốn của học viên trong
các tình huống sư phạm.
Phong cách sư phạm có ảnh hưởng tới q trình hình thành, phát triển
năng lực ứng xử sư phạm của người giảng viên. Do vậy, trong thực tiễn hoạt
động nghề nghiệp của mình, bên cạnh việc trau dồi trình độ chuyên môn, tay
nghề sư phạm. Yêu cầu đặt ra đối với giảng viên trẻ cần hình thành cho mình
phong cách sư phạm phù hợp. Luôn quan tâm, gần gũi giúp đỡ học viên, lắng
27