Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Sự phân hóa tư tưởng trong gia đình nguyễn du ở thế kỷ XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 87 trang )

Bộ giáo dục & Đào tạo
trờng đại học Vinh

-------@&?------

Nguyễn phong an

Quá trình phân hoá t tởng
trong gia đình nguyễn du ở thế kỷ
XVIII
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
MÃ số
: 60.22.54

đề cơng luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Ngời hớng dẫn khoa học: PGS. Hoàng Văn Lân

Vinh, 2009

Lời cảm ơn
Trớc hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS. Hoàng Văn Lân - ngời đÃ
tận tình hớng dẫn khoa học cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
văn.


1

Tôi cũng xin cảm ơn Trờng THPT Nguyễn Du, Ban quản lý khu di
tích Nguyễn Du đà tạo điều kiện về thời gian và cung cấp t liệu để tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.


Đặc biệt, tôi xin cảm ơn bố mẹ và những ngời thân yêu trong gia
đình đà động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện luận văn của
mình.
Do điều kiện và khả năng nghiên cứu của tôi còn hạn chế, nguồn t
liệu cũng có mức độ nên luận văn còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận
đợc sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để bản luận văn đợc
hoàn thiện hơn./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 9 năm 2009


2

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nớc, lịch sử dân tộc
Việt Nam đà chứng kiến nhiều biến cố có ảnh hớng lớn đến mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xà hội. Dới chế độ phong kiến Việt Nam, đặc biÖt ë thÕ kû
XVII - XVIII, x· héi ViÖt Nam có những sự kiện liên tiếp xảy ra; Trịnh đoạt
quyền Lê, chiến tranh Trịnh Nguyễn. Trong tình trạng hỗn loạn chính trị
nh thế phong trào nông dân Tây Sơn đà diễn ra làm chủ Đàng Trong, sau đó
tiến quân ra Đàng Ngoài, lật đổ chúa Trịnh, vua Lê lập lại nền thống nhất đất
nớc. Sự kiện Nguyễn Huệ lên ngôi thay thế nhà Lê, chấm dứt danh hiệu đế vơng của nhà Lê, đó là một sự kiện lớn dẫn tới sự phân hoá sĩ phu Bắc Hà.
1.2. Dòng họ Nguyễn - Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh
là một dòng họ trâm anh thế phiệt, gốc tích dòng họ Nguyễn Tiên Điền vốn
làng Canh Hoạch huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây thuộc dòng dõi vị trạng
nguyên Nguyễn Thiến thời nhà Mạc, di c về Tiên Điền cuối thế kỷ XVI khi
nhà Lê Trung Hng từ Thanh Hoá đa đại binh tiến ra phía Bắc tiêu diệt nhà
Mạc khôi phục nhà Lê mở đầu triều đại vua Lê Chúa Trịnh ở nớc ta. Dòng họ
này đời đời ăn lộc của vua Lê, đặc biệt trong dòng họ này có gia đình của Đại

thi hào Nguyễn Du một gia đình không những làm rạng danh cho quê hơng
Tiên Điền Nghi Xuân mà còn góp phần làm bừng sáng cho đất nớc. Song
với sự kiện Nguyễn Huệ lên ngôi thay thế nhà Lê, chấm dứt danh hiệu đế vơng của nhà Lê đà làm phân hoá sĩ phu Bắc Hà. Sự phân hoá này đà diễn ra
trên phạm vi quốc gia và len lỏi vào các dòng họ, các gia đình. Thời bấy giờ
gia đình Nguyễn Du đà chịu sự chi phối của tình thÕ ®ã.
1.3. Tõ xa tíi nay “ng níc nhí ngn”, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
con chim tìm tổ, con ngời vấn tông vốn là đạo lý truyền thống tốt ®Đp cđa con
ngêi ViƯt Nam, cđa d©n téc ViƯt Nam. Vẫn biết rằng viết về gia đình, dòng họ
là công việc không mới, đặc biệt là viết về gia đình Nguyễn Du và dòng họ
Nguyễn Tiên Điền, một gia đình khoa bảng, một dòng họ giàu truyền thống
văn hoá thì đà có nhiều tác giả, nhiều công trình công bố. Đi vào nghiên cứu
gia đình, dòng họ nhng tôi không phải đi tìm hiểu về quá trình hình thành, lịch
sử văn hoá của dòng họ, gia đình đó mà vấn đề ở chỗ là tôi muốn tìm hiểu,
làm sáng tỏ sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du.


3

Là một ngời con của vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử văn hoá,
trong tôi đà nhiều lần tự đặt các câu hỏi:
Tại sao Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế (1788) lại dẫn tới sự phân hoá
sĩ phu Bắc Hà? Tại sao một gia đình trâm anh thế phiệt nh Nguyễn Du đời đời
ăn lộc nhà Lê cũng phải chịu sự chi phối của sự phân hoá đó? Sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du diễn ra nh thế nào và ở mức độ ra sao? Sự phân
hoá đó đặt ra những vấn đề t tëng nµo cho sÜ phu thêi bÊy giê? ThÕ hƯ chúng
ta bây giờ, những sĩ tử có suy nghĩ gì và rút ra những bài học nào cho bản
thân? Phải chăng sự phân hoá t tởng đó trong gia đình Nguyễn Du thể hiện
một thời kỳ lịch sử dân tộc, mà ở đó mâu thuẫn xà hội không thể điều hoà đợc, ổn định trật tự của xà hội, kỷ cơng của chính trị không còn nguyên vẹn nh
xa? ...
Những câu hỏi nh thế còn có thể nối dài thêm và vấn đề sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du cha đợc lý giải, làm sáng tỏ một cách cụ thể.
Trong bối cảnh đó, không tự lợng sức mình, tôi cũng mạnh dạn bắt tay vào

công việc còn khá mới, khó khăn và phức tạp này để cố gắng giải quyết làm
sáng tỏ phần nào những vấn đề đặt ra ở trên. Bởi vậy, tôi đà quyết định chọn
đề tài: Sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ sử học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nh trên đà nói, nghiên cứu về dòng họ không còn là mảng đề tài mới
đặc biệt là dòng họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân, gia đình Nguyễn Du đó
là một dòng họ giàu truyền thống văn hoá, một gia đình khoa bảng. Bởi thế,
đà có rất nhiều sách, nhiều công trình nghiên cứu các cuộc hội thảo khoa học
bàn luận về dòng họ và gia đình này.
Những công trình viết về dòng họ Nguyễn, về gia đình Nguyễn Du chủ
yếu đề cập về quá trình hình thành, phát triển và truyền thống văn hoá khoa
bảng của dòng họ, gia đình Đại thi hào Nguyễn Du. Bởi vậy, theo sự tìm hiểu
của tôi, cha có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy
đủ và cụ thể về sự phân hoá gia đình Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII. Tất cả các
bài viết, các công trình nghiên cứu nếu có đề cập tới vấn đề sự phân hoá t tởng
trong gia đình Nguyễn Du cũng chỉ là trên bình diện khái quát, từng mảng
riêng lẻ mà thôi. Công trình phác hoạ tơng đối toàn diện về lịch sử hình thành
và phát triển của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, là cuốn gia phả họ Nguyễn


4

Tiên Điền, bức tranh toàn diện về sự hình thành và phát triển của họ Nguyễn
Tiên Điền. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đà đề cập tới sự phân hoá t tởng trong
gia đình Nguyễn Du. Đây đợc xem là nguồn tài liệu gốc giúp tôi làm căn cứ
để mở rộng và phát triển đề tài.
Trong cuốn Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái đà dựng
lại toàn c¶nh bøc tranh vỊ x· héi phong kiÕn ViƯt Nam ë thÕ kû XVIII. Trong
®ã cã ®Ị cËp tíi sù kiện Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, thay nhà Lê đánh

tan quân xâm lợc Thanh. Cả vua Lê và Tôn Sĩ Nghị đều tìm đờng tháo chạy.
Tác phẩm đà miêu tả đợc bối cảnh sự phân hoá t tởng sĩ phu Bắc Hà trong đó
có gia đình Nguyễn Du và đề cập đến sự phân hoá đó.
Trong một số cuốn sách khi đi vào nghiên cứu ca ngợi về truyền thống
văn hoá, con ngời Nghi Xuân cũng đà đề cập tới sự phân hoá t tởng trong gia
đình Nguyễn Du. Cn “N¬i Ngun Du viÕt Trun KiỊu” cđa Chu Träng
Hun; Nghi Xuân địa chí của Đông Hồ Lê Văn Diễn; về Tiên Điền nhớ
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Đặng Tất, Đặng Dung (Đặng Duy Phúc);
Nghi Xuân di tích và danh thắng ...
Trên bình diện bình luận văn học có rất nhiều tác giả đà đánh giá về
Nguyễn Du và tác phẩm văn học của ông, những cuộc hội thảo khoa học về
dòng họ Nguyễn - Tiên Điền, về Đại thi hào Nguyễn Du đều là những nguồn
t liệu quý cho tôi mở rộng bổ sung về sự phân hoá t tởng trong gia đình
Nguyễn Du, đặc biệt là đại thi hào, danh nhân văn hoá thế giới.
Nhìn chung, các t liệu trên đây trong khi chủ yếu đề cập đến quá trình
hình thành, phát triển và truyền thống văn hoá, khoa bảng của dòng họ và gia
đình này thì ít nhiều đà đề cập tới phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du ở
thế kỷ XVIII. Tuy nhiên tất cả đều là những mảng riêng lẻ chứ cha đi sâu và
hệ thống một cách toàn diện, đầy đủ về bối cảnh của sự phân hoá đó; Sự phân
hoá đó diễn ra nh thế nào; ý nghĩa của sự phân hoá đó.
Với những công trình nghiên cứu vấn đề nh trên thật sự đó là thuận lợi
lớn mà tôi có đợc, nhng đó cũng là khó khăn mà tôi phải cố gắng xử lý t liệu,
lựa chọn, đối chiếu, so sánh, phân tích và tổng hợp đúc kết và giải quyết vấn
đề theo nội dung khoa học mà đề tài đòi hỏi.
Luận văn của tôi một mặt là sự kế thừa những thành tựu của các học
giả, các nhà nghiên cứu đi trớc và mặt khác là cố gắng giải quyết làm sáng tỏ


5


một hiện tợng lịch sử quan trọng: Sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn
Du ở thế kỷ XVIII.
3. Phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ khoa học của đề tài
3.1. Phạm vi
Trên cơ sở những tài liệu hiện có, chúng tôi đặt ra phạm vi nghiên cứu
về sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII. ở đây, luận
văn chủ yếu đi vào làm rõ sự phân hoá về mặt t tởng, ý thức hệ trong gia đình
Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII. Tất nhiên trong quá trình làm rõ nội dung đó, luận
văn có đề cập đến một số sự kiện lịch sử ë thÕ kû XIX.

3.2. NhiƯm vơ
Xt ph¸t tõ viƯc nhËn thức vai trò to lớn của tầng lớp sĩ phu xa đối với
chế độ phong kiến đồng thời cũng cần thấy rõ tầng lớp tri thức nhân tài
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nớc hiện nay, luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ bối cảnh dẫn đến sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn
Du ở thế kỷ XVIII.
- Đi vào tìm hiểu, phân tích quá trình phân hoá t tởng trong gia đình
Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII.
- Lý giải phần nào nguyên nhân về sự phân hoá đó, ổn định trật tự xÃ
hội, kỷ cơng của chính trị không còn đợc nguyên vẹn nh xa.
- Làm rõ ý nghĩa của sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du ở
thế kỷ XVIII và những vấn đề đặt ra.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi dựa vào các nguồn tài liệu sau:
4.1.1. Tài liệu thành văn
Tài liệu quan trọng trớc hết đối với chúng tôi là tộc phả họ Nguyễn Việt
Nam nói chung và phần viết về họ Nguyễn ở Tiên Điền Nghi Xuân nói
riêng.

Trong đó đáng chú ý nhất là quyển gia phả Hoan Châu Nghi Tiên
Nguyễn gia thế phả (Lê Thớc dịch). Đây là nguồn tài liệu gốc quý giá nhất
để tôi làm căn cứ thực hiện luận văn của mình. Chúng tôi còn ph¶i tham kh¶o


6

các bộ d địa chí cổ nh Hoan châu phong thổ kí (Trần Danh Lâm, Ngô Trí
Hạp) Nghi Xuân địa chí (Đông hồ Lê Văn Diễn), Nghi Xuân huyện Thông
Chí (Nguyễn Bá Lân) ... Để tìm hiểu bối cảnh của lịch sử mà luận văn thực
hiện, chúng tôi phải tìm đọc các bộ chính sử nh: Đại việt sử ký toàn th (Ngô Sĩ
Liên) Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô Gia Văn Phái) lịch triều hiến chơng loại
chí (Phan Huy Chú).
Chúng tôi tham khảo những tài liệu nghiên cứu lịch sử văn hoá nh: Bản
sắc văn hoá Việt Nam (Phan Ngọc), Việt Nam văn hoá sử cơng (Đào Duy
Anh), Văn hiến Hà Tĩnh xa và nay (Kỷ yếu hội thảo khoa học).
Chúng tôi cũng đà giành nhiều thời gian nghiên cứu các cuốn sách đợc
xem nh nguồn tài liệu viết nhiều về sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn
Du nh: nơi Nguyễn Du viết truyện Kiều (Chu Trọng Huyến), về Tiên Điền nhớ
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Đặng Tất, Đặng Dung (Đặng Duy Phúc),
Nguyễn Du niên biểu và tác phẩm (Nguyễn Thạch Giang Trơng Chính biên
khảo và chú giải), kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (NXB Khoa học xÃ
hội), họ Nguyễn Tiên Điền và khu di tích Nguyễn Du (Đinh Sỹ Hồng), 200
năm nghiên cứu bàn luận về truyện Kiều (Lê Xuân Lít su tầm tuyển chọn và
biên soạn), ngời Nghi Xuân (nhiều tác giả), các nhà khoa bảng Hà Tĩnh (Thái
Kim Đỉnh), danh nhân Hà Tĩnh (nhiều tác giả) ...
Bên cạnh đó chúng tôi cũng tham khảo các tài liệu, các bài viết của các
nhà nghiên cứu, các nhà quản lý văn hoá trên các tạp chí văn hoá trung ơng và
địa phơng. Chúng tôi cũng tìm hiểu nguồn t liệu thông qua một số luận văn
nh: Làng Tiên Điền cổ truyền, luận văn tốt nghiệp của Nguyễn Quốc Phẩm

khoa Sử - Đại học tổng hợp Hà Nội năm 1978. Lịch sử văn hoá dòng họ
Nguyễn - Tiên Điền Nghi Xuân Hà Tĩnh cuối thế kỷ XVI đến nay, luận
văn của Hồ Trà Giang Khoa Sử Đại học Vinh.
4.1.2. Tài liệu bất thành văn
Để làm rõ thêm một số vấn đề của đề tài đặt ra, tôi cũng đà lắng nghe,
tham khảo những mẫu chuyện dân gian, đặc biệt là những ngời trong tộc họ
Nguyễn ở Tiên Điền: ông Nguyễn Mậu - Tộc trởng dòng họ Nguyễn, thầy
giáo Nguyễn Minh, ông Nguyễn Ban Nguyên trởng phòng văn hoá huyện
Nghi Xuân ...
4.2. Phơng pháp nghiên cứu


7

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi vận dụng phơng pháp lịch sử và
phơng pháp lô gíc để so sánh luận giải và làm rõ quá trình phân hoá t tởng
trong gia đình Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII. Bên cạnh đó, chúng tôi còn đối
chiếu gia phả, các tài liệu truyền miệng dân gian với chính sử. Trên cơ sở đó
trình bày một cách có hệ thống toàn diện, cụ thể và sâu sắc vầ yêu cầu của đề
tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận văn
Trong suy nghĩ của chúng tôi, luận văn này có thể có những đóng góp
chủ yếu sau đây:
- Luận văn làm rõ và lý giải bối cảnh dẫn đến sự phân hoá t tởng trong
gia đình Nguyễn Du ở thế kỷ XVIII.
- Qua việc trình bày về quá trình phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn
Du, chúng tôi muốn làm sáng tỏ sự phân hoá t tởng của những thành viên tiêu
biểu trong gia đình Nguyễn Du.
- Luận văn cũng góp phần làm rõ thêm nguyên nhân và sự phân hoá sĩ
phu Bắc Hà nói chung và sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn Du nói

riêng.
- Một mặt nào đó luận văn còn góp phần tôn vinh những giá trị văn hoá
truyền thống, xây dựng hệ t tởng đạo đức ở mỗi ngời nhằm góp phần xây dựng
gia đình văn hoá, làng văn hoá tiến tới xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện mục tiêu dân giàu nớc mạnh
xà hội công bằng dân chủ văn minh.
- Cuối cùng luận văn góp phần làm phong phú thêm bộ sử của địa ph ơng, những nội dung và t liệu của luận văn có thể sử dụng phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Văn học Những trớc tác của dòng họ
Nguyễn Tiên Điền đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều của Đại thi hào
Nguyễn Du.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phụ lục, nội dung chính luận văn
gồm 3 chơng:
Chơng 1: Hoàn cảnh dẫn đến sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn
Du ở thế kỷ XVIII.
Chơng 2: Con đờng phân hoá t tởng của các thành viên tiêu biểu trong
gia ®×nh Ngun Du.


8

Chơng 3: Một số nhận xét về sự phân hoá t tởng trong gia đình Nguyễn
Du.


9

nội dung
Chơng 1
Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự phân hoá

t tởng trong gia đình nguyễn du ở thế kỷ XVIII
1.1. Sự hình thành và phát triển của một gia đình trâm anh thế phiệt
1.1.1. Sự thiên di của một dòng họ
Họ Nguyễn - Tiên Điền vốn gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Tây, thuộc dòng dõi vị Trạng Nguyên Nguyễn Thiến thời nhà Mạc.
Nguyễn Nhiệm di c về Tiên cuối thế kỷ XVI khi nhà Lê Trung Hng từ Thanh
Hoá đa đại binh tiến ra phía bắc tiêu diệt nhà Mạc khôi phục nhà Lê, mở đầu
triều đại vua Lê - chúa Trịnh ở nớc ta.
Năm NhâmThìn (1532), niên hiệu đại chính thứ 3 đời Mạc Đăng
Doanh, Nguyễn Thiến Thi Đình đậu nhất giáp Tiến sĩ đệ cập Trạng Nguyên.
Nguyễn Thiến có 2 con trai là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn đều là những
ngời tài giỏi, tinh thông võ nghệ, làm quan to cho nhà Mạc.
Năm Canh Tuất (1550), Mạc Phúc Nguyên nghe lời dèm pha cđa cha
con Ph¹m Qnh, Ph¹m Giao cã ý nghi ngê Nguyễn Thiến làm phản, sợ bị sát
hại, Nguyễn Thiến cùng với con là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn đem hơn
100 bộ hạ trốn vào Thanh Hoá đầu hàng vua Lê, đợc vua uý lạo dùng làm
quan đến chức Thợng th [17, 8 - 9]. Làm quan cho nhà Lê đợc 7 năm, đến
năm Đinh Tị (1557), Nguyễn Thiến ốm và mất ở Thanh Hoá.
Nguyễn Thiến mất, Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn sợ họ Trịnh ghen
ghét hÃm hại. Bởi lúc này Nguyễn Kim bị đầu độc chết, quyền bính tối cao
của Triều Lê Trung Hng rơi vào tay Trịnh Kiểm con rể Nguyễn Kim. Sợ các
con Nguyễn Kim tranh mất quyền, Trịnh Kiểm ra tay giết Nguyễn Uông và
tìm cách ám hại Nguyễn Hoàng. Trớc tình cảnh này, Nguyễn Quyện và
Nguyễn MiƠn tiÕn tho¸i lìng nan, cha biÕt xư sù thÕ nào.
Đối với Mạc Phúc Nguyên, thấy Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn là
những viên tớng có tài đà nhiều lần làm cho quân Mạc thiệt hại, nên lấy làm
lo lắng. Nhà Mạc bèn nhờ vào tài ăn nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491
1585) vốn là bạn chơi thân thiết với Nguyễn Thiến bố của Nguyễn Quyện
và Nguyễn Miễn, nên cả hai ngời đều về với nhà Mạc .
Nguyễn Quyện cã 4 con trai, NguyÔn MiÔn cã 5 con trai, tất cả họ đều

là những ngời thông minh, có sức khoẻ, giỏi võ nghệ đợc nhà Mạc tin dùng,


10

cho làm quan và phong tớc hầu. Các con của Nguyễn Miễn là: Văn Bảng hầu,
Đồ Bảng hầu, Nam Dơng hầu, An nghĩa hầu, và Nhân Trí hầu. Các con của
Nguyễn Quyện là: Bảo Trung hầu, Nghĩa Lĩnh hầu, Nhuệ Quốc Công và Thọ
Nham hầu.
Sau nhiều lần đa quân tiến đánh nhà Mạc nhng bị thua to, họ Trịnh
phải đem quân về Thanh Hoá. Đầu năm Nhâm Thìn (1592) nhân lúc Mạc Mậu
Hợp bỏ bê chính sự, ăn chơi sa đoạ, không chịu nghe lời khuyên chính trực
của các vị quan lại, võ tớng trong triều. Trịnh Tùng tập hợp đại quân tiến đánh
Thăng Long, Mạc Mậu Hợp bỏ kinh đô chạy trốn, Nguyễn Quyện đa quân
đánh lại quân Trịnh nhng do thế cô lại không có viện binh, cuối cùng thua
trận, bị quân Trịnh bắt giam và chết ở trong ngục. Con là Bảo Trung hầu và
Nghĩa Lĩnh hầu cũng bị chết trong trận này.
Những ngời con còn lại của Nguyễn Quyện là Nhuệ Quốc công Nguyễn
Tín, Thọ Nham hầu Nguyễn Trù và 5 ngời con của Nguyễn Miễn là Văn Bảng
hầu, Đỗ Mỹ hầu, Nam Dơng hầu, An Nghĩa hầu, Nhân Trí Hầu đều ra hàng
nhà Lê nhng đợc một thời gian, nhà Lê vì muốn thanh trừ những công thần
nhà Mạc trớc đây mà Văn Bảng hầu và Nhân Trí hầu (con của Nguyễn Miễn),
Nhuệ Quốc Công Nguyễn Tín (Con Nguyễn Quyện) bị vin là mu phản và bị
giết. Nam Dơng hầu và An Nghĩa hầu (con Nguyễn Miễn) Thọ Nham hầu
(Con Nguyễn Quyện chạy thoát).
Nam Dơng hầu Nguyễn Nhiệm chạy đến với Mạc Kính Cung, lúc này đang
chiếm cứ vùng đông bắc và tự xng là vua lấy niên hiệu là Càn Thống chống lại nhà
Lê. Năm 1600 Mạc Kính Cung tập hợp lực lợng mở rộng thế lực đa quân chiếm
đánh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh và tiến đánh Thăng Long. Nam Dơng
hầu Nguyễn Nhiệm đợc giao đánh chiếm vùng Hoàng Giang.

Tháng 10 năm Canh Tý (1600) tớng của Lê - Trịnh là Nguyễn Đình
Luyện dẫn quân tiến đánh Hoàng Giang bị Nguyễn Nhiệm đánh cho thua
chạy, mất hơn 40 thuyền.
Tháng giêng năm Tân Sửu (1601), Bình An Vơng Trịnh Tùng tự thân
đốc chiến tiến đánh Nguyễn Nhiệm tại Linh Giang trận đánh diễn ra hết sức
ác lịêt, Nhà Mạc thua trận, Nam Dơng Hầu bị ngà ngựa trong đám loạn quân.
Đêm tháng giêng trời se lạnh, nửa đêm tỉnh dậy Nguyễn Nhiệm thấy
mình đang nằm trong đống thi thể máu me đầy ngời. Ông thấy mừng vì mình
hÃy còn sống nhng lại lo không biết về đâu? Ra hàng nhà Lê thì không ®ỵc tríc


11

đây một số anh em của ông và con Nguyễn Quyện về hàng nhà Lê sau bị sát hại.
Song lên Cao Bằng tìm về với nhà Mạc cũng không xong, vận nhà Mạc đà hết.
Trở về Canh Hoạch thì thế nào cũng bị quân Trịnh bắt [17, 13 14].
Suy nghĩ mông lung ông chợt nghĩ đến trấn Nghệ An tiếp giáp với
Thuận Quảng do Nguyễn Hoàng cai trị đang có ý định đối nghịch với chúa
Trịnh ở phía Bắc. Có đến với đất này may ra ông mới trốn tránh đợc sự truy
bức của quân Trịnh. Nghĩ vậy nên ông đà quyết tâm đi tới trấn Nghệ An. Tới
trấn Nghệ An, Nam Dơng hầu đi sâu vào phía Nam thì gặp sông Lam rộng
lớn, nớc trong xanh. Vợt đò sang bờ Nam, lần theo bờ sông đi về phía Đông
bắt gặp một vùng đất lau sậy mọc um tùm, c dân tha thớt, từ mảnh đất này
nhìn ra phía Bắc là sông Lam, nhìn ra phía Đông là biển Nam Hải, nhìn vào
phía Tây là dÃy núi Ngàn Hống trùng điệp, cảm thấy đây có thể là nơi ẩn náu
của mình. Nam Dơng hầu Nguyễn Nhiệm quyết định dừng chân lại, ông đóng
vai một thầy thuốc và xin dân làng cho đất làm nhà để hành nghề. Thuở ấy,
làng này có tên là Phú ĐiềnNguyễn
và đà Nhiệm
có một số dòng họ sinh sống ở đây nh họ

Trần 5 đời, họ Đặng 3 đời. Nam Dơng hầu Nguyễn Nhiệm làm nhà tại Giáp
Đông, thôn Lơng Năng. ở đây ông lấy tên là Nam Dơng, vừa làm nghề thuốc
.X đất đai trồng
Tham
Nguyễn .X
vừaNguyễn
khai khẩn
trọtđốc
. Khánh Trạch
(chi trởng ở Văn Tràng
hầu ở Lơng Nguyễn
(chi cuối ở Lơng Năng
Tại đất này, Nam Dơng hầu lấy vợ sinh đợc 5 con (3 trai, 2 gái) khai
nguyên ra dòng họ Nguyễn - Tiên Điền, trong đó có gia đình Nguyễn Du.
CháuDòng
năm đời
Cháu
họ Nguyễn - Tiên Điền tính từ đời thứ nhất
là năm
Namđời
Dơng hầu
Nguyễn Huyền
Nguyễn Lựu
Nguyễn Nhiệm đến Nguyễn Du là 7 đời. Cụ thể nh sau:
Nguyễn Chủng (mất sớm)

Nguyễn ổn

Nguyễn Yêu


Nguyễn Thể

Nguyễn Quỳnh (Ông nội Nguyễn Du)

Nguyễn
Huệ

Ng.
Khản

Ng.
Điều

Nguyễn
Nghiễm
(bố Ng.
Du)

Ng.
Ng.
Trụ Quýnh

Nguyễn
Trọng

Ng.
Trừ

Ng.
Nễ


Nguyễn
Tín

Ng.
Du

Ng.
ức

Nguyễn


Nguyễn
Huyền

Ng. Ng.
Nghi Lạng

Ng.
Nhng

Ng.
Tốn


12

1.1.2. Tiên Điền Nghi Xuân nơi nuôi dỡng gia đình Nguyễn Du
Sông về cho núi khoả chân

Để đất nuôi dỡng văn nhân cho đời
(Ca dao)
Tiên Điền quê hơng của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, từ lâu mảnh
đất này đà đi vào lòng ngời nh một trong những địa danh văn hoá nổi tiếng
của vùng đất Hồng Lam.
Däc theo qc lé 1A, theo híng B¾c – Nam từ Hà Nội vào Vinh, qua
cầu Bến Thuỷ chúng ta sẽ gặp một ngà ba (gọi là ngà ba Gia Lách) ở đầu cầu,
dọc tuyến sông Lam xuôi về biển 5km, một làng quê cổ kính và trù phú sẽ
hiện ra, đó là làng Tiên Điền.
Làng Tiên Điền là một làng cổ nằm cùng tầng văn hoá với xà Xuân
Viên, nơi có di chỉ khảo cổ học Phôi Phối, thuộc hậu kỳ đồ đá mới, cách ngày
nay khoảng 5.000 năm, dựa vào dân tộc học, các th tịch và những cuốn phả hệ
của các dòng họ, ta có thể biết đợc làng Tiên Điền có cách đây muộn nhất 500
năm 550 năm.
Để có tên gọi Tiên Điền nh ngày nay làng đà trải qua nhiều cuộc bể
dâu, nhiều lần tách nhập và thay đổi tên làng. Theo các nhà nghiên cứu trớc
khi ông tổ họ Nguyễn Nam Dơng hầu về dựng cơ nghiệp đầu thế kỷ thứ 17 thì
nơi đây chỉ là những bÃi cát bồi hoang vu, ngời ở tha thớt ven sông cả mang
cái tên Vô Điền (không có ruộng) sau này làng mạc đợc hình thành nhng
ruộng đất còn hoang vu rậm rạp, đợc gọi là U Điền. Hơn 100 năm sau khi
con ngời đà đổ bao công sức khai phá, các dòng họ Trần, họ Nguyễn, họ Hà
đà cắm đất lập nghiệp nhiều đời, tên gọi lại đợc đổi thành Tân Điền rồi làng
Tân Điền gọi trùng với tên huý của Vua Lê Kính Tôn phải đổi thành Phú
Điền (nhiều ruộng). Những năm sau đó ruộng lúa tốt tơi mùa màng bội thu,


13

lại đổi sang Tiên Điền (ruộng tiên). Sau này nhập hai làng Tiên Điền và Uy
Viễn làm một thành Tiên Uy đến năm 1953 đổi thành Xuân Tiên lấy chữ

Xuân của huyện Nghi Xuân (làm tên đầu chung cho các xÃ). Năm 1972 đổi lại
tên gọi thân thuộc Tiên Điền ngày nay. Nh vậy, diễn tiến của tên làng đợc
thay đổi nh sau: từ Vô Điền -> U Điền -> Tân Điền -> Phú Điền -> Tiên Điền
-> Tiên Uy -> Xuân Tiên -> Tiên Điền. Vị thế đứng chân làng Tiên Điền hết
sức đặc biệt. Đấy là thế đất thế đứng mà trớc mắt chỉ qua một khoảng đất là có
thể trông ra biển Đông mênh mông với những bÃi cát phẳng lì và những hàng
dơng chạy xa tít tắp. Bên cạnh là sông Lam hàng ngày thuyền bè tấp nập ngợc
xuôi, sau lng về phía Tây là núi Hång LÜnh 99 ngän, mét kú quan thiªn nhiªn
võa hïng vĩ, vừa chứa đựng nhiều huyền thoại của vùng đất xứ Nghệ.
Với vị trí khá đẹp, vừa cận thuỷ vừa cận sơn có lẽ vì thế mà đây
đà từng đợc xem là mảnh đất Giang sơn tụ khí một thời. Nơi đây là nơi hội
tụ của nhiều dòng họ nổi tiếng: họ Hoàng, họ Đặng, họ Hà. Đặc biệt d ới
triều Lê Trung Hng đến thời Nguyễn, nhất là vào thế kỷ XVIII, Tiên Điền
nổi tiếng về học hành, khoa bảng ở xứ Nghệ. Chính mảnh đất này đà sản
sinh và nuôi dỡng một gia đình trâm anh thế phiệt Gia đình Đại thi hào
Nguyễn Du.
Phải chăng với địa thế sông sâu, núi cao, biển cả cùng với sự khắc bạc
của thiên nhiên cồn khô cát bạc đà hun đúc nên một dòng họ Nguyễn cao
khoa hiển đạt. Chính sự khắc nghiệt của khí hậu nơi đây đà rèn giũa bản lĩnh,
cốt cách của từng con ngời trong gia đình khoa bảng Nguyễn Du. Những câu
thơ cổ sau đây đà nói lên đợc địa thế của mảnh đất này.
Hồng Lĩnh sơn cao
Song Ng hải khoát
Nhợc ngộ minh thời
Nhân tài tú phát
[10, 22]
1.1.3. Một gia đình Danh gia vọng tộc ở thế kỷ XVIII
Nguyễn Quỳnh (1675 - 1735) là đời thứ 5 của dòng họ Nguyễn Tiên
Điền. Ông là ông nội của Nguyễn Du, là ngời khai sáng cho gia ®×nh Ngun
Du ë thÕ kû XVIII.



14

Ngun Qnh tù lµ Phï Dùc, hiƯu lµ TÜnh Nam, con trởng của Phù
Quận Công Nguyễn Thể nổi tiếng văn chơng, mấy lần định vác lều chõng đi
thi nhng khi thì có tang cha, khi thì bị ốm nên đờng khoa hoạn thiệt thòi. Về
sau có ngời quen giới thiệu vào Huế đợc nhận làm quan hầu ở trong Cung
Tiềm Để nhng không lâu bị bÃi chức trở về Nghệ An làm tân khách cho Trung
Quận Công Hiệp - Trấn Nghệ An, đợc cử làm chỉ huy đôi quân Thắng Hữu.
Nhng hình nh những quan chức đợc giao cho đều không toại ý nên chỉ một
thời gian sau, Nguyễn Quỳnh xin về trí sĩ sớm tối làm thơ và mở trờng dạy
học cho con cháu. Nguyễn Quỳnh đà soạn bộ Dịch kinh quyết nghị 15
quyển, đến nay còn giữ đợc hai quyển: Từ ấu tân truyện và Đại hiệu chân
kinh.
Về sự nghiệp giáo dục, Nguyễn Quỳnh là ngời khai sáng cho dòng họ.
Chính ngời đà dạy dỗ bồi dỡng nhiều học trò trong vùng và con cháu trong
nhà đạt trình độ văn chơng uyên bác, nhiều ngời trong gia đình Nguyễn Du
đều đỗ đạt cao.
Sách gia phả họ Nguyễn Tiên Điền chép : ở nhà ông thờng đọc sách
thiên văn, địa lý, lịch, số, sách thuốc, sách bói và biên soạn chép lại rất tinh tờng [39, 5]. Ông là ngời thích sống nhàn tản, không ham phú quý, hàng ngày
say sa đọc sách Thánh hiền và kinh dịch, đóng cửa chép sách phân tích những
chỗ huyền bí đễ dạy dỗ các con cho đến lúc thành tài. Vì vậy khi trấn tớng
Nghệ An là siêu quận công muốn ép ông ra làm quan, ông từ chối và làm bài
thơ để nói rõ ý định của mình.

Thế lộ hiểm bi thâm
Nhân sinh hữu bách niên
Nhật sung tam hơng phạn
DÃ túc ngũ canh niên

Phú quý kinh thành bích
Thanh nhàn địa giới tiên
Tĩnh suy tiểu trờng lí
Quy khứ lạc lâm truyền.
[17,19 20]


15

Nghĩa là:
Đờng đời rất hiểm nghèo
Ngời đời chỉ sống trăm năm
Ngày đủ cơm ba bữa
Đêm ngủ trọn năm canh
Phú quý là khách kinh thành
Thanh nhàn là tiên trần gian
Lợng suy lẽ thịnh suy
Tuổi già nên về nơi rừng suối.
[17,19 20]
Nguyễn Quỳnh, không phải là ngời đỗ đạt cao, song ông là ngời có kiến
thức uyên bác lại rất chăm chú dạy dỗ, vun trồng cho con cháu, bởi vậy ông
đà tạo dựng đợc một gia đình Danh gia vọng tộc ở thế kỷ VXVIII.
Từ đời thứ sáu, tộc phả họ Nguyễn Tiên Điền mở ra một trang mới.
Khoa cũng nh hoạn, con cháu ở Tiên Điền có thể xứng với tổ tiên ở Cảo (Tảo)
Dơng Cổ (Canh) Hoạch. Trong bài thơ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp Viết
không gửi cho tiến sỹ Nguyễn Khản có câu:
.. Hồng Sơn dĩ bắc, Nghi Xuân địa
Cổ lai khoa đệ công gia vinh ...
[20, 15]
Nghĩa là:

Về mé bắc núi Hồng là đất Nghi Xuân
Xa nay khoa bảng nhà ông hiển đạt nhất
Quả đúng nh vậy, bắt đầu từ Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh, ông nội
Nguyễn Du ngời đỗ tam tràng đầu tiên trong họ, chính Nguyễn Quỳnh là
ngời khai sáng cho gia đình ở thế kỷ XVIII. Nguyễn Quỳnh có 6 con trai, 5
con gái . Ba ngời con trai đầu của ông đều là các khoa bảng có tiếng: Nguyễn
Huệ, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng.
Nguyễn Huệ (1705 - 1733) đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi. Nguyễn Trọng (1710
- 1789), con trai thø ba Ngun Qnh, em rt Ngun NghiƠm, ham thÝch
nghỊ thuốc, thờng xuyên tìm đọc sách y học đông tây kim cổ vì thế trong họ
Nguyễn Tiên Điền ông là ngời giỏi về nghề thuốc. Năm 17 tuổi, Nguyễn
Trọng đậu tam trờng. Năm 1732 thi Hơng, ông đậu cử nhân.


16

Trong những ngời con của Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Huệ là anh cả đỗ
đại khoa song lại lâm bệnh mất còn quá trẻ (năm 1733 - 28 tuổi). Bởi vậy, ngời nổi tiếng và làm toả sáng cho dòng họ Nguyễn Tiên Điền chính là
Nguyễn Nghiễm (Bố của Nguyễn Du). NguyÔn NghiÔm (1708 - 1775) cã 21
ngêi con, 12 trai, 9 con g¸i. Trong 12 ngêi con trai cã mét đại khoa (Tiến sĩ
Nguyễn Khản), 5 Hơng Cống (Nguyễn Điều, Ngun Trơ, Ngun Tríc,
Ngun NƠ, Ngun Nhng) vµ 3 sinh đồ (Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du,
Nguyễn Lợng). Con trởng Nguyễn Điều là Nguyễn Thiện đỗ tứ tràng Hơng
Cống. Ngoài ra còn nhiều ngời học giỏi nh Nguyễn Nghi, Nguyễn Thảng,
Nguyễn Hành... nhng không đi thi.
Học giỏi, học rộng là nét nổi bật của nhiều ngời trong gia đình Nguyễn
Nghiễm. Nguyễn Nghiễm lúc bé đợc gọi là thần đồng. Khi mới đi học có
ngời đến nhà uống nớc thốt lên Tảo thời ẩm trà nhất bát (Buổi sớm uống 1
bát nớc chè), Ông ứng khẩu đọc Lai niên thực lộc thiên chung (Sang năm hởng lộc nghìn chung). Ai cũng lấy làm lạ. Lại khi anh em ông thụ giáo với Hồ
Công ở xà Hoa Viên, thầy ra vế đối: Nguyễn Huệ, Ngun NghiƠm huynh ®Ư

cËp ®Ư” (Ngun H, Ngun NghiƠm anh em đều thi đỗ). Ông lấy tích chú
cháu họ Sơ, đời Hán xin đối Sơ quảng, sơ thụ phụ tử đồng triều. Mời ba tuổi
dự ở huyện đứng đầu. Và những lời của thần đồng về sau đều đúng vậy. Con
cháu ông nhiều ngời học giỏi đỗ sớm. Nguyễn Khản 14 tuổi trúng tam tràng
(sinh đồ), 20 tuổi đỗ Hơng Cống, 24 tuổi đỗ Tiến sĩ. Nguyễn Điều, Nguyễn
Trụ đều đỗ tứ tràng, Hơng Cống lúc 15 tuổi. Về Nguyễn Trụ gia phả chép ông
rất thông minh, hạ bút thành văn đợc chúa Trịnh Doanh khen Hổ phụ sinh hổ
tử. Nguyễn Nễ rất ham học, 3 lần đỗ đầu ở Khảo Hạch trờng Giám ở huyện
Thọ Xơng, phủ Phụng Thiên, ngời đơng thời có thơ mừng Danh kinh quốc
liên tam tiệp (nổi tiếng ở kinh thành với ba lần đỗ đầu).
Tiên Điền là đất học, đất quan nhng cao khoa hiển đạt thì dòng họ
Nguyễn, đặc biệt là gia đình Nguyễn Du đà làm rạng danh quê hơng đất nớc ở
thế kỷ XVIII. Hầu hết cha con, anh em đều làm quan dới triều Lê Trịnh.
Trong gia đình cả 2 cha con đều làm tể tớng (Nguyễn Nghiễm, Nguyễn
Khản).
Gia đình này không chỉ học để làm quan mà học để làm thầy. Thầy
thuốc, thầy giáo, thầy địa... Sở học của họ đà đợc đa ra để giúp đời và tài năng
nghề nghiệp của họ trở thành truyền thống lâu ®êi. NguyÔn Trõ, NguyÔn


17

Nghi, Nguyễn Nhng vừa là thầy dạy học, vừa là thầy thuốc nổi tiếng trong
vùng, luôn luôn lấy nhân nghĩa, y đức làm đầu. Đặc biệt, Hoàng Giáp Nguyễn
Nghiễm là nhà giáo dục nổi tiếng đào tạo hàng chục nhà khoa bảng, trong đó
có tiến sỹ Ngô Phúc Lâm, Hơng Cống Nguyễn Thiếp. Ông lại giữ chức nhập
nội kinh diên và con trai Nguyễn Khản làm tả t giảng, thầy học của vua Lê,
chúa Trịnh.
Gia đình Nguyễn Du đà để lại những trớc tác đóng góp rất lớn cho văn
hoá dân tộc. Lĩnh Nam Công Nguyễn Quỳnh, ngoài bộ Đại hiểu chân kinh

còn có Từ ấu chân thuyên và Dịch kinh quyết Nghị gồm 13 quyển, soạn
lúc 60 tuổi (1734). Nguyễn Nghiễm ngoài làm quan to trong triều vua Lê
chúa Trịnh, ông còn là nhà văn, nhà sử học uyên bác. Bộ Việt sử bi lÃm 7
quyển của ông đợc Phan Huy Chú đánh giá: Bình luận tinh khiết, gọn đúng,
đợc khen là danh bút [7, 392].
Đặc biệt, trong gia đình Nguyễn Nghiễm có nhiều nhà thơ, nhà văn nổi
tiếng trong nớc, để lại những tác phẩm đợc ngời đời truyền tụng. Nguyễn
Nghiễm có Cổ lễ nhạc chơng thi văn tập, Quân trung liên vịnh, Khổng
Tử mộng Chu Công (phú). Nguyễn Khản có Diễn nôm chinh phụ ngâm,
Tự tình khúc... Ông là ngời giỏi quốc âm, viết nhiều bài hát ca trù, lu truyền
ở kinh thành Thăng Long. Nguyễn Nễ cũng là nhà thơ có tiếng với Quế Hiên
giáp ất tập và Hoa trình tiêu khiển tập. Nguyễn Nghi để lại Châu Kiều di
cảo. Anh em Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành (con Nguyễn Điều, cháu Nguyễn
Nghiễm) là hai nhà thơ lớn. Nguyễn Thiện là tác giả Đông Phả thi tập và là
ngời nhuận sắc Truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự. Nguyễn Hành với
Minh quyên phổ và Quán hải tập cïng chó rt, Ngun Du lµ hai trong
“An nam ngị tuyệt đơng thời. Và ngời làm rạng rỡ nhất cho họ Nguyễn Tiên
Điền, cho cả dân tộc Việt Nam là Đại thi hào Nguyễn Du Danh nhân văn
hoá thế giíi víi t¸c phÈm Trun KiỊu bÊt hđ.
Nh vËy, ë thế kỷ XVIII, Tiên Điền Nghi Xuân đà có một gia đình
Danh gia vọng tộc, đó là gia đình Đại thi hào Nguyễn Du. Trong gia đình
ấy, ở bất cứ lĩnh vực nào, trên phơng tiện gì: chính trị, quân sự, ngoại giao,
giáo dục khoa cử, sử học và văn học chúng ta đều thấy dấu ấn của từng ngời đóng góp cho quê hơng, đất nớc. Trong gia đình ấy, dù làm đến chức Tể tớng nh Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản hay lấy việc dạy học, bốc thuốc lµm
träng nh Ngun Trõ, Ngun Nghi, Ngun Nhng. Dï lµ những nhà thơ, nhà


18

văn nổi tiếng Nguyễn Du, Nguyễn Hành... thì ở họ vẫn giữ đợc cơng thờng
đạo lý, lấy chữ trung, chữ hiếu làm đầu, cho dù xà hội có nhiều đổi thay. Để tỏ

rõ chữ hiếu của mình đối với cha (Nguyễn Quỳnh) và khắc sâu giáo dục con
cháu sau này, khi đợc phong làm tể tớng, Nguyễn Nghiễm đà dựng đàn tế và
bia Nguyễn Quỳnh. Ông đà khắc lên tấm bia bốn chữ Hồng nguyên tuấn lu
tức là Dòng lớn chảy mạnh. Hai bên thành bia Niệm thờ trung nhật
nguyệt (Ngỡng mộ cha mẹ theo ngày tháng).
Tấm bia đá hiện hữu hơn 250 năm rồi, biết bao thế hệ đến đây thăm
Khu lu niệm Nguyễn Du, kính viếng hơng hồn qn c«ng Ngun Qnh (bè
cđa tĨ tíng Ngun NghiƠm, «ng nội của thi hào Nguyễn Du) Ngời đà khai
sáng cho con cháu dòng họ Nguyễn Tiên Điền, cho một gia đình trâm anh
thế phiệt ở thế kỷ XVIII.
1.2. Những biến động về chính trị xà hội thế kỷ XVIII
1.2.1. XÃ hội Việt Nam và những biến động về chính trị
Thế kỷ XVIII, tình hình chính trị xà hội cả Đàng Trong và Đàng
Ngoài liên tục biến động. Vua Lê chủ yếu là ngồi hởng phúc phó mặc việc
điều hành đất nớc cho con cháu nhà Trịnh. Chúa Trịnh Giang tiến hành cuộc
cải cách ruộng đất nhng kết quả chẳng thu đợc là bao. Giai cấp địa chủ phong
kiến cấu kết quan lại bao chiếm hầu hết đất đai ở làng xÃ. Vua Lê Chúa
Trịnh hoang mang khi công việc đắp đê trị thuỷ diễn ra chậm chạp hoặc bỏ bê,
hậu quả là lũ lụt diễn ra liên miên. Hàng vạn dân c ở Đồng Bằng Bắc Bộ rơi
vào tình cảnh mất ruộng vờn chỉ sau một vài trận lũ lụt c dân đồng bằng phân
tán khắp nơi. §êi sèng nh©n d©n hÕt søc khỉ cùc, m©u thn xà hội gay gắt,
hậu quả là c dân làng xà đứng dậy chống lại triều đình. Các nhà nghiên cứu
lịch sư coi thĨ kû XVIII lµ thÕ kû phong trµo nông dân khởi nghĩa trong đó có
những cuộc khởi nghĩa kéo dài từ 13 -> 15 năm lôi cuốn hàng vạn ngời tham
gia thuộc nhiều thị trấn khác nh khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, khởi nghĩa
Nguyễn Dơng Hng, Nguyễn Danh Phơng, Nguyễn Diên, Hoàng Công Chất...
Cùng lúc đó nhiều tù tởng các dân tộc ít ngời cũng nổi dậy chống lại chính
quyền Lê Trịnh. BÃo táp chiến tranh nông dân náo động cả xà hội Đàng
Ngoài.
ở Đàng Trong, sau khi giải quyết xung đột vua Lê, chúa Trịnh, các

chúa Nguyễn, lấy luôn cả vùng Gia Định, đa lÃnh thổ Đàng Trong vào tận Hà
Tiên. Từ giữa thế kỷ XVIII do tình trạng chấp chiếm ruộng đất t của gia ®×nh


19

địa chủ diễn ra càng nhiều nên nông dân làng xà mất hết ruộng đất và hậu quả
là phong trào nông dân khởi nghĩa liên tiếp diễn ra, điển hình là phong trào
Tây Sơn bắt đầu bùng nổ 1771 chỉ 14 năm sau đà lật đổ luôn cả nền thống trị
mà các chúa Nguyễn nhọc công xây dựng suốt từng thế kỷ.
Sau khi hạ thành Phú Xuân, Nguyễn Huệ đà đa đại quân ra Bắc Hà lật
đổ quyền lực của phủ chúa Trịnh chấm dứt sự tồn tại dòng họ Trịnh. Nguyễn
Huệ quyết định kết tình thông gia với nhà Lê, vẫn duy trì chế độ phong kiến ở
Bắc Hà, trong đó ngai vàng phong kiến nhà Lê vẫn tiếp tục đợc bảo vệ bởi các
bộ tớng thân cận của Nguyễn Huệ cùng một số kẻ sĩ thân tín ở Bắc Hà. Nhng
có một thực tế hết sức phức tạp trong đời sống chính trị xà hội ở nớc ta thời
bấy giờ là loại bỏ nhà Nguyễn và họ Trịnh, Nguyễn Nhạc lại lên ngôi Hoàng
Đế chọn Đồ Bàn để đóng đô cắt đất phong vơng cho các em và ở Bắc Hà lại
duy trì ngai vàng vua Lê. Một nớc có 2 vua mầm hoạ cát cứ phong kiến lại
nảy sinh. Thực tế là Nguyễn Hữu Chỉnh lần lợt muốn xây dựng binh lực chống
lại Tây Sơn, chính Nguyễn Huệ phải trực tiếp loại bỏ những tay chân thân tín
này. Hoàng Thái Hậu nhà Lê cùng một số trung thần không muốn thừa nhận
sự tồn tại của triều Tây Sơn đà sang cầu cứu nhà Thanh mở đờng cho Tổng
đốc Lỡng Quảng đa 29 vạn quân Thanh vào xâm lợc nớc ta. Cùng một lúc
phải loại bỏ 2 thế lực là ngoại xâm và nội phản, để giải quyết yêu cầu đó
Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế cho thuận ý trời hợp lòng ngời (1788) rồi loại
bỏ cả ngoại xâm và nội phản. Năm 1792 Hoàng Đế Quang Trung từ trần, Vơng triều Tây Sơn rơi vào khủng hoảng trầm trọng về chính trị kinh tế
xà hội.
Nh vậy, có thể nói thế kỷ XVIII, lịch sử Viên Nam liên tiếp là những
biến động kịnh tính, chứa chất bao nhiêu dâu bể. Đất nớc chia cắt, Đàng

Ngoài là nhà Lê, Đàng Trong dòng họ Nguyễn, vua Lê từng có tiếng ân lộc
lâu đời thay trời trị dân nhng tất cả quyền hành nằm trong tay chúa Trịnh. Một
tầng lớp khá đông nho sĩ, mang t tởng Khổng Mạnh, phải bạc tóc, rạc ngời vì
câu hỏi: Trung với vua hay vơi chúa? Tầng lớp quyết dịnh sự thịnh suy của
thời đại, là nhân dân, thì đói khổ, sức lực kiệt quệ vì xà hội rối ren, chế độ
mục nát thiên tai liên tiếp.
ở Đàng Ngoài, năm 1767, Trịnh Sâm lên ngôi đà bỏ con trởng lập con
thứ gây thành bè đảng xung đột lẫn nhau. Sâm mất, bọn kiêu binh lại bỏ thứ,
lập trởng. Thành ra không những có phe phong kiến Đàng Trong, phe phong



×