mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1 .Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam, thơ ca kháng chiến 1945-1954
nh một dòng suối ngọt lành, tơi mới. Đó là dòng thơ chảy trên mảnh đất của
cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại, từ những ngòi bút nhiệt tình, giàu sáng tạo
với những đề tài phong phú. Và nền thơ ca ấy đà đợc ca hát bởi tấm lòng và tài
năng của những nhà phê bình nh Hoài Thanh- Xuân Diệu.
1.2. Hoài Thanh trớc Cách mạng tháng Tám đà là một tên tuổi phê bình
nổi tiếng, đợc mệnh danh là ngời khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện
đại (Phong Lê) [9,215]. Đặc biệt là cuốn Thi nhân Việt Nam, trong đó có khảo
luận Một thời đại trong thi ca, là thiên lý luận phê bình tuyệt bút, đa nghệ thuật
viết văn nghị luận Việt Nam lên đỉnh cao nhất từ trớc tới nay (Trần Mạnh Hảo)
[16,118]. Rồi Cách mạng tháng Tám thành công, kế đến là cuộc kháng chiến
chín năm chống Pháp đà mang đến cho ông một thế giới quan mới, nuôi dỡng và
phát triển tài năng ở nhà phê bình. Để đáp lại tiếng gọi của Cách mạng và kháng
chiến, Hoài Thanh đà lấy ngòi bút và tâm huyết của mình để ca ngợi những
thành tựu của văn học Việt Nam kháng chiến.
1.3. Khác với Hoài Thanh, Xuân Diệu đến với văn chơng trớc hết không
phải với t cách một nhà phê bình mà là một nhà thơ. Thơ ông tạo nên trong ngời
đọc ấn tợng về một Xuân Diệu với trái tim phập phồng nóng hổi, đắm say sự
sống, mùa xuân tuổi trẻ và tình yêu (Nguyễn Đăng Mạnh) [27,13]. Nhng Xuân
Diệu không chỉ làm thơ mà còn viết truyện ngắn, phê bình, tiểu luận, bút ký...
Cách mạng tháng Tám nh một luồng gió mát thổi vào cuộc đời, vào tâm hồn còn
nặng trĩu buồn đau, giúp ông mang phong cách nồng nàn sôi nổi vốn có của
mình vào những bài phê bình, tiểu luận để tạo nên hình ảnh một Xuân Diệu sáng
giá ở lĩnh vực phê bình văn học.
1.4. Hoài Thanh, Xuân Diệu đợc coi là hai trong số những gơng mặt tiêu
biểu của phê bình thơ kháng chiến 1945-1954. Nhng việc tìm hiểu đóng góp của
hai ông ở khu vực này còn quá ít. Về Hoài Thanh, việc nghiên cứu hầu hết hớng
về trớc 1945, trong đó chủ yếu dành cho Thi nhân Việt Nam. Về Xuân Diệu,
mối quan tâm nghiêng nhiều về ông ở t cách là một nhà thơ, chủ yếu là thơ trớc
1945, ít bài nói đến đóng góp của ông trong kháng chiến 1945-1954 trên lĩnh
vực phê bình. Hoài Thanh ngay từ đầu đà mang nghiệp phê bình vào thân. Xuân
Diệu là nhà thơ trớc khi là nhà phê bình. Nói nh vậy cũng là muốn nói trên địa
hạt phê bình, Hoài Thanh, Xuân Diệu mỗi ngời một vẻ. Tuy vậy, hai ngời vẫn có
những điểm gặp gỡ.
Những điều trên giải thích vì sao chúng tôi chọn Hoài Thanh - Xuân Diệu ở
t cách nhà phê bình thơ ca kháng chiến 1945-1954 làm đối tợng tìm hiểu. Và
cũng là lý do cắt nghĩa tại sao chúng tôi đặt Hoài Thanh bên cạnh Xuân Diệu và
Xuân Diệu bên cạnh Hoài Thanh trong sự liên hệ gắn nối với nhau.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Công việc phê bình văn học là công việc đòi hỏi ở ngời cầm bút rất nhiều tố
chất. Đó không chỉ là năng lực cảm thụ, phân tích, bình giá mà còn là kiến thức
tổng hợp, là vốn sống và vốn hiểu biết văn học. Vì thế, số ngời viết phê bình
thành công ở nớc ta không phải là nhiều, có thể kể tên nh: Hoài Thanh, Xuân
Diệu, Vũ Ngọc Phan, Đặng Thai Mai, Chế Lan Viên...
Hoài Thanh và Xuân Diệu là hai tên tuổi phê bình văn học xuất hiện từ giai
đoạn trớc 1945. Một ngời thì chuyên sâu vào công việc lấy sáng tác của các tác
giả khác làm đối tợng nghiên cú của mình, còn một ngời vừa sáng tác vừa viết
phê bình. Mỗi ngời dĩ nhiên có một phong cách viết, một phong cách làm việc
riêng, nhng sự nghiệp của họ đều có chung một mốc son đánh dấu cho một bớc
ngoặt mới, đó là Cách mạng tháng Tám. Cuộc Cách mạng này đà mở ra cho các
văn nghƯ sü mét con ®êng míi, con ®êng ®i vỊ phía nhân dân . Bớc trên con đờng ấy, hai nhà phê bình đà tạo ra trong sự nghiệp của mình những giá trị mới,
đóng góp vào nền phê bình văn học cách mạng những tác phẩm ý nghĩa.
2.1.Với Hoài Thanh, công việc viết phê bình là công việc quen thuộc và có
lẽ đà trở thành niềm vui và lẽ sống. Tên tuổi của Hoài Thanh gắn chặt vào nền
phê bình văn học Việt Nam, bởi khi nói về nền phê bình văn học Việt Nam
không thể không nhắc đến ông. Qua những tác phẩm của Hoài Thanh, chúng ta
đợc biết đến những quan niệm văn chơng một thời, hay đợc sống trong những
thời đại văn học chói lọi. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hoài Thanh
cũng nh các văn nghệ sỹ khác hăng hái viết để phục vụ cách mạng và nền văn
nghệ mới. Tác phẩm của ông đà có những tác động nhất định đối với đơng thời
và cả về sau.
Cả một đời Hoài Thanh dành để viết về ngời khác, nhng chính sự nghiệp
của ông cũng là đối tợng của những nhà nghiên cứu . ĐÃ có rất nhiều bài viết,
nhiều công trình nghiên cứu về Hoài Thanh. Có những bài phân tích quan điểm
cầm bút, quan điểm nghệ thuật của Hoài Thanh, có những bài đánh giá các tác
phẩm của Hoài Thanh, và cũng có những công trình nghiên cứu tổng hợp cả sự
nghiệp của ông. Theo thống kê (cha đầy đủ) của Nguyễn Thiện và Từ Sơn, tính
đến năm 1999, nghĩa là năm Hoài Thanh- Toàn tập đợc công bố, đà có 51 bài
viết, công trình nghiên cứu về Hoài Thanh. Đấy là cha kể tới các luận án nghiên
cứu về Hoài Thanh để bảo vệ học vị thạc sỹ, phó tiến sỹ, tiến sỹ khoa học ngữ
văn ở các trờng đại học và các viện nghiên cứu khoa học xà hội và nhân văn.
Năm 2000, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội tập hợp và in tiếp cuốn Hoài
Thanh với khát vọng chân thiện – mü thiƯn – thiƯn – mü mü, trong ®ã có các bài của :
- Thành Duy: Hoài Thanh với cuốn Văn chơng và hành động.
- Nguyễn Văn Hạnh: Thi nhân Việt Nam và phơng pháp tiếp cận văn chơng.
- Hoàng Ngọc Hiến: Phê bình văn học của Hoài Thanh và phê bình văn
học hiện nay.
- Trờng Lu: Hoài Thanh thiện mỹ một tâm hồn thơ nhân bản.
- Vũ Quần Phơng: Con ngời vị nhân sinh trong Hoài Thanh.
- Nguyễn Thị Thanh Xuân: Nhìn lại quan điểm nghệ thuật của Hoài Thanh
giai đoạn 1932 thiện mỹ 1945.
Những bài viết trên chủ yếu đề cập tới Hoài Thanh giai đoạn trớc 1945. Có
thể thấy sự nghiệp của Hoài Thanh ở giai đoạn này đà trở thành mối quan tâm
của đa số các bài viết về ông. Về giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, nhất là
trong kháng chiến chống thực dân Pháp, số bài nghiên cứu về Hoài Thanh có ít
hơn.
- Phong Lê: Hoài Thanh thiện mỹ sự nghiệp phê bình ( Văn học Việt Nam hiện
đại thiện mỹ những chân dung tiêu biểu, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội , 2001).
- Trần Hạnh Mai: Hoài Thanh và những thành tựu đầu tiên của thơ ca
cách mạng (Năm mơi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, NXB
Đại học Quèc gia Hµ Néi, 1996).
- Trần Đình Sử: Một vài suy nghĩ về phê bình văn học của Hoài Thanh
(Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995).
Một số công trình nghiên cứu công phu, in thành sách, trong đó quan tâm
đến cả hai giai đoạn trong sự nghiệp cđa Hoµi Thanh:
- ThiÕu Mai: Hoµi Thanh – thiƯn – mỹ Tác giả lý luận phê bình nghiên cứu văn häc
ViÖt Nam 1945 – thiÖn – mü 1975, NXB Khoa học xà hội, Hà Nội, 1986.
- Trần Hạnh Mai: Sự nghiệp phê bình văn học của Hoài Thanh, NXB Giáo
dục, 2003.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu, những chuyên khảo, ngời đọc có
thể tìm thấy những ý kiến đánh giá về phê bình của Hoài Thanh trong các giáo
trình lý luận văn học, lịch sử văn học Việt Nam, trực tiếp là văn học Việt Nam
thời kỳ 1945 thiện mỹ 1954.Trong các cuộc hội thảo kỷ niệm ngày sinh, ngày mất của
nhà văn Hoài Thanh, cũng có nhiều bài tham luận về ông.
Nhìn chung, trên cơ sở các bài viết, các bài tham luận, các công trình
nghiên cứu về Hoài Thanh, chúng ta có thể hình dung ra sự nghiệp phê bình của
ông, cũng nh những đóng góp to lớn của ông đối với nền phê bình văn học Việt
Nam. Đặc biệt, với giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, Hoài Thanh đÃ
để lại ấn tợng mạnh mẽ đối với các nhà nghiên cứu và những ngời yêu mến ông.
Giáo s Phong Lê trong bài Hoài Thanh thiện mỹ sự nghiệp phê bình đà gọi Hoài
Thanh là ngời khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại [16,82] và
nhận thấy : ..... cả trớc và sau 1945, Hoài Thanh vẫn cứ là Hoài Thanh, ngời viết
theo một quan niệm riêng và cái tạng riêng của mình. Quan niệm thay đổi, đối tợng quan tâm cũng thay đổi. Trớc năm 1945, trong chật hẹp của văn học công
khai, ông chỉ viết về Thơ míi; sau 1945, do sù ph¸t triĨn réng r·i, nhiỊu mặt của
phong trào thơ, nhịp theo sự phát triển của cách mạng, ông dành tập trung sự
quan tâm vào một vài khu vực mà ông cho là quan trọng [16,109].
Tiến sỹ Trần Hạnh Mai trong công trình nghiên cứu của mình cũng có cái
nhìn tổng quát về sự nghiệp phê bình văn học của Hoài Thanh. Đối với giai đoạn
1945 thiện mỹ 1954, tác giả chú ý đến đóng góp của nhà phê bình qua việc đánh giá
các tác phẩm: Cùng với đông đảo văn nghệ sỹ đi theo cách mạng, nhà phê bình
văn học Hoài Thanh đà tích cực ủng hộ nền văn học mới bằng việc khẳng định
Có một nền văn hoá Việt Nam (1946), đà bày tỏ một điểm nhìn cách mạng với
“Qun sèng cđa con ngêi trong Trun KiỊu cđa Ngun Du (1949). Nhng
phải đến Nói chuyện thơ kháng chiến, một chặng đờng mới trong sự nghiệp
phê bình văn học của Hoài Thanh mới thực sự bắt đầu" [12,121-122] . Trần
Hạnh Mai còn chú ý đến tác động của những tác phẩm mà Hoài Thanh viết ra:
Cũng nh nhiều sáng tác thơ kháng chiến đà đến với độc giả bằng con đờng
truyền khẩu, tác phẩm phê bình của Hoài Thanh có ảnh hởng rộng rÃi cũng bằng
cách phê bình miệng này không chỉ ảnh hởng đến việc định hớng và đánh giá
thơ kháng chiến, nó còn tác động đến việc đánh giá Thơ mới trong một thời gian
khá dài [12,128].
Giáo s Tiến sỹ Trần Đình Sử khẳng định mối quan hệ tích cực giữa tác
phẩm của Hoài Thanh với nhiệm vụ chung của văn nghệ cách mạng: Có thể nói
với tài bình thơ tinh tế, phân tích thuyết phục, Hoài Thanh là nhà phê bình thế hệ
đầu tiên góp phần đắc lực đa thơ vào quỹ đạo chính trị [20,91].
Không chỉ quan tâm đến nội dung, t tởng những tác phẩm của Hoài Thanh,
các bài viết còn chú ý đến phong cách phê bình của ông. Tiến sĩ Trần Hạnh Mai
nhận xét: Quan sát các công trình phê bình văn học của Hoài Thanh, có thể
nhận diện cái tạng Hoài Thanh với những đặc điểm chính là t chất nghệ sỹ,
thiên về tình cảm, yêu vẻ đẹp tinh tế, dịu dàng [12,168]. Cũng có những cảm
nhận tơng tự, Trần Mạnh Hảo viết: Những trang phê bình rất hấp dẫn của Hoài
Thanh bao giờ cũng là sự kết hợp hài hoà của chân xác khoa học với cảm hứng
nồng say nghệ sỹ. Ông mợt mà, duyên dáng, bay lợn ngay cả trong những điều tởng khô khan, cứng nhắc, ù lì nhất (Từ Hoài Thanh đến ... Hoài Thanh)
[16,115-116].
Nh vậy, qua hệ thống một số những bài viết tiêu biểu về Hoài Thanh có thể
thấy, ông là một nhà phê bình có vị trí và phong cách riêng trong nền phê bình
văn học Việt Nam nói chung và là một gơng mặt tiêu biểu của phê bình thơ
kháng chiến 1945 thiện mỹ 1954.
2.2. Khác với Hoài Thanh, Xuân Diệu đợc nhắc đến nhiều nhất không phải
với t cách nhà phê bình văn học. Xuân Diệu đến với văn chơng trên nhiều t cách:
nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình tiểu luận... Nhng bạn đọc vẫn biết đến nhiều nhất
và nhớ nhất Xuân Diệu ở t cách nhà thơ, ngời đợc mệnh danh là chàng hoàng tử
của thi ca hiện đại. Cùng thế hệ với Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Lu
Trọng L..., Xuân Diệu là một trong những tên tuổi sừng sững nh cây đại thụ(1)
của phong trào Thơ mới 1932 thiện mỹ 1945. Bởi vậy đà có rất nhiều ngời là nhà
nghiên cứu chuyên nghiệp hay ngời đọc thơ bình thờng tìm đến thơ ông để cảm
nhận cái hay, cái đẹp của một hồn thơ độc đáo. Có thể kể một số bài viết nh:
- Hà Minh Đức: Anh đà sống hết mình cho cuộc sống và cho thơ (Tạp chí
Văn học, số 1, 1986).
- Lê Quang Hng: Cái tôi độc đáo – thiƯn – mü tÝch cùc cđa Xu©n DiƯu trong
phong trào Thơ mới (Tạp chí Văn học, số 5, 1950).
- Hoài Thanh: Xuân Diệu (Sách Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1996).
- Đỗ Lai Thuý: Xuân Diệu nỗi ám ảnh thời gian( sách Con mắt thơ, NXB
Lao động, 1992).
Bên cạnh việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu, ngời ta còn quan tâm đến bộ phận
văn xuôi vì Xuân Diệu cũng là ngời sáng tác khá nhiều tác phẩm văn xuôi. Đó là
những bài viết nh:
- Nguyễn Đăng Mạnh: Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu (sách Xuân
Diệu về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001).
Xuân Diệu là một ngời ham viết và khoẻ viết. Không chỉ làm thơ, viết
chuyện, ông còn viết phê bình. Tác phẩm phê bình của ông cũng có khối lợng đồ
sộ nh các sáng tác thơ và cũng để lại một dấu ấn riêng. Vì thế cũng có một số bài
viết về Xuân Diệu ở t cách nhà phê bình văn học, trong ®ã cã ®Ị cËp ®Õn giai
®o¹n 1945 – thiƯn – mỹ 1954 nh:
Lê Đình Kỵ: Thơ với Xuân Diệu, Hoài Thanh, Chế Lan Viên (NXB Cửu
Long, 1988).
- MÃ Giang Lân: Sự đa dạng của Xuân Diệu (Sách Tiến trình thơ hiện đại
Việt Nam, NXB Giáo dục, 2000).
(1)
Trong điếu văn truy điệu Xuân Diệu ngày 21 tháng 12 năm 1985, Hà Xuân Trờng đánh giá: Một cây lớn đổ xuống làm cho cả một khoảng trời trống vắng. Nguyễn
Bùi Vợi coi sự ra đi của Xuân Diệu và Chế Lan Viên sau đó trong hình ảnh: Thiếu hai
đại thụ, rừng thơ trống vắng.
- Trần Đình Sử: Xuân Diệu thiện mỹ Một hồn thơ còn vọng mÃi ( Sách Văn học
và thời gian, NXB Văn học, 2001).
Nhìn chung, các bài viết về Xuân Diệu đều công nhận đóng góp nổi bật của
ông trên lĩnh vực thơ ca, đồng thời cho thấy tài năng đa dạng của Xuân Diệu.
Ông viết phê bình cũng rất hấp dẫn, cuốn hút nh làm thơ vËy.
Đối với giai đoạn 1945 thiện mỹ 1954, Xuân Diệu tuy là một tác giả quen thuộc
nhng vẫn là một cây viết phê bình trẻ. Ông viết không nhiều nhng đà tạo đợc ấn
tợng với ngời đọc và ngời nghiên cứu, đồng thời có ảnh hởng không nhỏ đối với
văn học kháng chiến giai đoạn này. Mà Giang Lân nhận thấy Xuân Diệu đÃ
mang hình ảnh ngời thơ của mình sang lĩnh vực phê bình nh thế nào: Từ những
kinh nghiệm sáng tác và năng lực cảm thụ thơ, Xuân Diệu có u thế và có đóng
góp trong những hoạt động phê bình, giới thiệu thơ, dịch thơ (...). Đến lĩnh vực
này, ngời đọc vẫn nhận ra một Xuân Diệu nh đà gặp trong thơ ở cách nãi béc
trùc, say sa, mn nãi cho ®đ, cho hÕt” [6,548].
Giáo s Tiến sỹ Trần Đình Sử khẳng định: Đóng góp to lớn hơn của Xuân
Diệu thuộc lĩnh vực nghiên cứu phê bình thơ. Các nhà thơ Việt Nam hiện đại đều
có viết phê bình thơ, nhng chỉ có Xuân Diệu để lại một di sản đồ sộ hơn cả và
cho rằng nghệ thuật và phơng pháp phê bình, giới thiệu thơ của Xuân Diệu
đang là một lĩnh vực hấp dẫn chờ đợi khám phá [29,333].
Các nhà nghiên cứu hầu hết đều nhận thấy, trong khi phê bình văn học
Xuân Diệu đà cảm thụ và bộc lộ cảm xúc cũng nồng nhiệt, mê say nh khi ông
viết những vần thơ cháy bỏng, nồng nàn. Điều đó có nghĩa là sáng tác hay phê
bình, ở lĩnh vực nào Xuân Diệu cũng nhiệt tình, hồ hởi, đắm say.
2.3.Có một điều không phải là mới mẻ nhng còn ít đợc đề cập, đó là sợi dây
liên hệ giữa phê bình văn học của Hoài Thanh và Xuân Diệu. Đây đó trong một
số bài nghiên cứu, ngời ta có nói đến. Ví dụ khi viết về Hoài Thanh trong bài
Một vài đặc điểm phong cách phê bình văn học của Hoài Thanh, Tiến sỹ Trần
Hạnh Mai đà liên hệ : ... không phải là ngời sáng tác, ông vẫn trở thành ngời
dẫn đầu một khuynh hớng phê bình nghệ sỹ với những tên tuổi nh Nguyễn Tuân,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên... [16,168]. MÃ Giang Lân cũng nhận thấy trong tiến
trình phát triển của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX có một khuynh hớng phê
bình văn học nổi lên đáng chú ý: mang đậm dấu ấn chủ quan, tìm cái đẹp và biểu
dơng cái đẹp của tác phẩm (...). Tiêu biểu là Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Đinh Gia
Trinh, Xuân Diệu, Thạch Lam... [6,65].
Nói tóm lại, có rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về Hoài
Thanh và Xuân Diệu, trong đó có đề cập đến hai ông với t cách là hai gơng mặt
tiêu biểu của phê bình thơ kháng chiến 1945 thiện mỹ 1954. Luận văn của chúng tôi đÃ
đợc thừa hởng những ý kiến của ngời đi trớc, giúp cho việc đánh giá có định h-
ớng chính xác hơn, từ đó mong muốn góp một cái nhìn kỹ lỡng hơn, sâu hơn về
hai nhà phê bình này trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt ở lĩnh vực
phê bình thơ.
3. Mục đích, đối tợng, tài liệu nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những đóng góp của Hoài Thanh và Xuân Diệu đối với phê bình
thơ kháng chiến từ 1945 đến 1954.
3.2. Đối tợng nghiên cứu
Các quan điểm, các nội dung và hình thức phê bình thơ kháng chiến 1945
thiện mỹ 1954 của Hoài Thanh và Xuân Diệu ( trong sự so sánh đối chiếu với giai đoạn
trớc 1945).
3.3. Tài liệu nghiên cứu
3.3.1. Về Hoài Thanh
- Tập Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1996.
- Các tác phẩm giai đoạn 1945 thiện mỹ 1954, đặc biệt là cuốn Nói chuyện thơ
kháng chiến, NXB Văn nghệ Hà Nội, 1955, sau đợc tập hợp và in trong Hoài
Thanh- Toàn tập, Tập 2, NXB Văn học, 1999.
3.3.2. Về Xuân Diệu
- Những bài phê bình của Xuân Diệu giai đoạn trớc 1945, đợc tập hợp trong
cuốn Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam, Tập 4, NXB Văn học, 1997.
- Tập Tiếng thơ, NXB Văn nghệ, 1951, sau đợc in lại trong Xuân DiệuToàn tập,Tập 3, NXB Văn học Hà Nội, 2001.
3.3.3. Tài liệu chung
- Tạp chí Tiên phong (Su tập trọn bộ gồm 24 số, từ 10/11 năm 1945 đến
1/12 năm 1946 của Hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam), NXB Hội Nhà văn, Hà
Nội, 1996.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phơng pháp sau:
-Phơng pháp so sánh, đối chiếu.
-Phơng pháp phân tích.
-Phơng pháp tổng hợp.
-Phơng pháp lịch sử.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn của chúng tôi gồm có ba chơng:
Chơng 1. Hoài Thanh với hành trình đi tìm vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến
1945 thiện mỹ 1954.
Chơng 2. Xuân Diệu, ngời hái thơ trên cánh đồng thơ kháng chiến 19541954.
Chơng 3. Những điểm gần gũi và khác biệt trong phong cách phê bình thơ
kháng chiến của Hoài Thanh và Xuân Diệu.
Chơng 1
Hoài Thanh với Hành trình đi tìm vẻ đẹp của thơ ca
kháng chiến 1945 1954 1954
1. Phê bình thơ của Hoài Thanh trớc Cách mạng tháng Tám
1.1.Thời điểm trớc Thi nhân Việt Nam
Hoài Thanh bớc chân vào lĩnh vực phê bình văn học khi tuổi đời còn trẻ.
Đầu những năm ba mơi của thế kỷ XX, ông đà có những bài tiểu luận và phê
bình văn chơng đăng rải rác trên các báo: Thơ mới (Tiểu thuyết thứ bảy, số 31, ra
ngày 29/12/1934); Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật, tìm cái đẹp trong
nghệ thuật là phê bình ( Tiểu thuyết thứ bảy, sè 35 ra ngµy 26/1/1935); hai bµi
cùng tiêu đề Văn chơng là văn chơng ( một đăng trên Tràng An, số 48, ra ngày
13/8/1935, một đăng trên Tràng An, số 62, ra ngày 1/10/1935).
Vậy là ngay từ những ngày đầu chạm ngõ với làng văn, Hoài Thanh đÃ
chọn cho mình công việc phê bình văn chơng, mặc dù rất ngại nói đến hai chữ
phê bình. Phải nói là, ở Hoài Thanh, ngời không muốn ai gọi là nhà phê bình
lại làm chính cái việc không thể gọi là gì khác ngoài phê bình(Phong Lê)
[9,216]. Và thế là mối duyên Hoài Thanh và phê bình văn học gắn kết từ đó.
Nói đến sự nghiệp Hoài Thanh trớc năm 1945, không thể không nhắc tới
cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 thiện mỹ 1939. Đầu tháng 8 năm 1935, Hải Triều viết
một bài trên Tiểu thuyết thứ bảy (số 62) có nhan đề: Kép T Bền thiƯn – mü mét t¸c phÈm
thc vỊ c¸i triỊu lu Nghệ thuật vị dân sinh ở nớc ta. Bài viết nhằm khen ngợi
tập truyện ngắn Kép T Bền của nhà văn Nguyễn Công Hoan là cuốn truyện vị
nhân sinh. Ngay sau đó, ngày 13/8/1935, trên báo Tràng An (số 48) xuất hiện bài
viết của Hoài Thanh: Văn chơng là văn chơng bẻ lại quan điểm của Hải Triều.
Tiếp đó, Hải Triều lên tiếng trên tờ Tin văn, rồi Hoài Thanh đáp lại một bài nữa
trên Tràng An (số 62), mở đầu cho đợt hai cuộc tranh luận: Nghệ thuật vị nghệ
thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh.
Quan điểm của Hoµi Thanh trong cuéc tranh luËn nµy n»m ë luËn điểm
văn chơng là văn chơng: Ngời ta cũng có thể đứng về phơng diện xà hội để
phê bình một văn phẩm, cũng nh ngời ta có thể phê bình về phơng diện triết lý,
tôn giáo, đạo đức,v..v.. Nhng có một điều không nên quên là bao nhiêu phơng
diện ấy đều là phơng diện phụ. Văn chơng muốn gì thì gì, trớc hết phải là văn
chơng đà [12,28]. Chính bởi luận điểm này, Hoài Thanh đà đợc (hay bị) coi là
chủ soái của phái nghệ thuật vị nghệ thuật.
Nhng trong khi ngời ta đặt ông vào vị trí ấy thì Hoài Thanh lại phủ nhận.
Trong bài viết Chung quanh cuộc biện luận về nghệ thuật: Một lời vu cáo đê
hèn (Tràng An, số 80, ra ngày 3/12/1935), ông viết: Tôi chỉ tóm tắt một câu: tôi
không chủ trơng thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật [16,89].
Vậy tại sao Hoài Thanh lại phủ nhận? Điều này chứng tỏ trong quan niệm
của Hoài Thanh, luận điểm văn chơng là văn chơng mà ông đa ra khác với
thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông viết : Một cái đầu đề của tôi: văn chơng là
văn chơng với mấy chữ: nghệ thuật vị nghệ thuật đà khác xa rồi mà họ không
thấy [16,192].
Theo Hoài Thanh, văn chơng trớc hết phải là một phạm trù mỹ học. Ông
cho rằng chất văn chơng chính là yếu tố đầu tiên, quan trọng bậc nhất để phân
biệt nó với những hình thức nghệ thuật khác. Theo ông, ngời ta tiếp xúc với tác
phẩm văn học trớc tiên vì nó có tính nghệ thuật: Ta nên nhớ rằng cầm bút cha
phải là viết văn. Văn chơng là vật quý có đâu đợc nhiều thế [9,223].
Vậy quan điểm này của Hoài Thanh đúng sai nh thế nào? Trớc hết, xét từ
nguồn gốc xuất phát quan điểm, Hoài Thanh cha bao giờ nhận mình thuộc trờng
phái nghệ thuật vị nghệ thuật. Điều đó chứng tỏ ông ý thức khá rõ ràng những
hạn chế của trờng phái này. Luận điểm văn chơng là văn chơng thể hiện quan
điểm của riêng ông. Ông viết : Có điều chắc chắc là trong khi thëng thøc mét
t¸c phÈm cđa nghƯ tht, lÏ cè nhiên phải để nghệ thuật lên trên hết, lẽ cố nhiên
phải chú ý đến cái đẹp trớc khi chú ý đến những tính cách phụ, những hình thức
tạm thời của nó [16,86]. Hạn chế trong quan điểm của Hoài Thanh là tách biệt,
thậm chí đối lập văn chơng với chính trị, đạo đức, tôn giáo... Ông quá đề cao yếu
tố văn của tác phẩm nghệ thuật, cho rằng văn chơng là văn chơng thì cũng đÃ
có ích cho đời. Và hạn chế ấy khiến ngời ta gọi ông là ngời của phái nghệ thuật
vị nghệ thuật.
Nhng căn cứ vào những bài viết khác, đặc biệt là cuốn Văn chơng và hành
động, cũng nh lời phủ nhận tôi không chủ trơng thuyết nghệ thuật vị nghệ
thuật của Hoài Thanh, chúng ta có thể đi tìm và lý giải những vấn đề tích cực
trong luận điểm văn chơng của ông. Với luận điểm đó, Hoài Thanh thực ra đÃ
đặt một yêu cầu cao ®èi víi nghƯ tht. Mn phơc vơ cho ®êi sống thì nghệ
thuật trớc hết phải chăm lo cho nghệ thuật, tức là phải hay, phải đẹp đÃ. Ngời
đọc đến với văn chơng trớc hết vì nó hay, nó đẹp.
Vậy sự khác nhau mấu chốt giữa quan điểm văn chơng là văn chơng của
Hoài Thanh và thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật là : Trong khi thuyết nghệ thuật vị
nghệ thuật loại bỏ yêu cầu phục vụ đời sống thì Hoài Thanh không hề chủ trơng
nh vậy. Ông vẫn ý thøc râ r»ng: “Nãi cho cïng nghƯ tht nµo mà chẳng vị nhân
sinh, không vì cái sinh hoạt vật chất thì cũng vì sinh hoạt tinh thần của ngời ta
[16,185].
Nh vậy, mặc dầu trong một thời gian khá dài chịu tiếng là ngời của phái
nghệ thuật vị nghệ thuật, nhng ngày nay Hoài Thanh đà đợc chứng minh là con
ngời vị nhân sinh (Vũ Quần Phơng) [16,184]. Quan điểm văn chơng là văn
chơng mặc dù còn phiến diện và cực đoan, song nó đà đóng góp vào kho tàng lý
luận những vấn đề sâu sắc.
Qua cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 thiện mỹ 1939, chúng ta phần nào hiểu rõ
con ngời và quan điểm học thuật của Hoài Thanh. Đặc biệt, chúng ta hiểu ông rõ
hơn qua cuốn Văn chơng và hành động.
Cuốn Văn chơng và hành động do Hoài Thanh và những ngời cùng quan
điểm với ông (Lu Trọng L và Lê Tràng Kiều) biên soạn. Tuy nhiên, cuốn sách
không thể đến tay bạn đọc vì chính quyền thực dân Pháp đà thu hồi ngay khi nó
vừa đợc in xong. Nó chỉ mới đợc trở lại với bạn đọc sau hơn 60 năm nhờ công su
tầm của Nguyễn Ngọc Thiện trong cuốn Hoài Thanh thiện mỹ Bình luận văn chơng
(NXB Giáo dục thiện mỹ 1998). ở quyển sách này, chúng ta sẽ đợc thấy những t tởng
tiến bộ về văn chơng của Hoài Thanh, làm căn cứ cho kết luận ông không phải là
ngời theo phái nghệ thuật vị nghệ thuật.
Ngay tên cuốn sách đà gây dị ứng với chính quyền thực dân. Bản thân nó đợc viết bởi một ngời từng đội nón lá, đi chân đất... Hai lần bị bắt và bị trục xuất
ra khỏi Bắc kì vì tham gia Tân Việt và viết báo tiến bộ [9,222]. Trớc khi viết
Văn chơng và hành động, Hoài Thanh đà từng nhận thức về ngời văn sỹ theo ông
là: phải từng sống cuộc đời bình dân, phải từng biết những ngày nắng nh thiêu
nh đốt, còng lng cấy mạ dới ruộng bùn, những đêm lạnh nằm run trong góc chợ,
những khi không cơm ăn, không áo mặc, khi trốn nợ, khi ngồi tù... (Văn bình
dân) [16,121]. Quan niệm này cũng giống nh yêu cầu mà Nam Cao đặt ra đối
với nhà văn sau này: “ Cø ®øng trong lao khỉ, më hån ra ®ãn lấy tất cả những
vang động của đời... Giờ đây, trong Văn chơng và hành động, Hoài Thanh còn
nhận thức một cách sâu sắc và thấm thía: Là một ngời Việt Nam ở thời bây giờ
trên vai ta mang nặng những trách nhiệm không thể từ chối đợc (...) Trớc tình
hình nh vậy, vòng tay đứng nhìn là tội ác. Nhất là với những ngời có học, nghĩa
là những ngời đà chịu cái ơn nuôi dạy của xà hội [16,195]. Từ đó ông kêu gọi:
Chúng tôi nhận rằng trớc tình thế ngày nay cần phải hành động. Chúng tôi nhận
rằng nhà văn cũng phải hành động nh mọi ngời: hành động bằng việc làm và
hành động bằng ngòi bút. Tất cả đó là hạt nhân của một quan điểm tiến bộ,
biện chứng. Quan điểm nói trên thể hiện rõ Hoài Thanh tuy cha phải nhà văn
cách mạng hoạt động trớc Cách mạng tháng Tám 1945, nhng ông đà có những
quan điểm văn học cách mạng, thể hiện rõ tinh thần yêu nớc và chủ nghĩa dân
tộc chân chính nh nhận xét của Giáo s Thành Duy. [16,197].
Nh vậy, thời điểm trớc Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đà có nhiều bài
viết thể hiện quan điểm về nghệ thuật, về văn chơng khá sâu sắc. Mặc dù vẫn
còn nhiều điểm gây bàn cÃi, tranh luận, nhng nhìn nhận khách quan và toàn diện
sẽ thấy quan điểm của «ng cã nhiỊu tiÕn bé, béc lé t©m hut cđa một ngời cầm
bút tuy tuổi đời còn trẻ nhng đầy nhiệt tình và trăn trở với văn chơng.
Tiếc thay, việc tìm ra cuốn Văn chơng và hành động cũng nh việc nhìn
nhận quan điểm tiến bộ của Hoài Thanh thể hiện trong cuốn sách này đợc tiến
hành quá muộn vì điều kiện khách quan của lịch sử. Do đó, trong một thời gian
khá dài, ngời ta vẫn mặc nhiên kết luận Hoài Thanh là ngời chủ trơng nghệ thuật
vị nghệ thuật. Và kết luận ấy đà tạo trong lòng ông mối mặc cảm sâu sắc và dai
dẳng, chi phối nhiều đến những bài viết sau này của ông.
1.2. Thi nhân Việt Nam thiện mỹ Một kiệt tác phê bình thơ
Đối với cuộc đời của một ngời cầm bút, hạnh phúc lớn nhất là đứa con tinh
thần của mình đợc ngời đọc đón nhận và trân trọng. Hoài Thanh là một số ít ngời
cầm bút có đợc hạnh phúc ấy, với đứa con tinh thần là Thi nhân Việt Nam.
Những năm ba mơi của thế kỷ trớc, một phong trào thơ ca bừng nở trên đất
nớc Việt Nam. Phong trào ấy khác, khác hẳn những lối thơ trớc nó cả về nội
dung và hình thức biểu đạt. Ngời ta đặt tên cho phong trào ấy là Thơ mới.
Ngay thời điểm ngời ta còn bỡ ngỡ trớc sự mạnh mẽ nh giã cn vµ rùc rì
nh mét vên hoa cđa Thơ mới thì Hoài Thanh và Hoài Chân đà kịp nhận ra giá trị
của phong trào. Sự kết hợp tài năng, tâm huyết đến độ nhuần nhuyễn của hai anh
em họ đà cho ra đời cuốn Thi nhân Việt Nam, đợc đánh giá là kiệt tác phê bình
văn học.
Thi nhân Việt Nam là tuyển tập Thơ mới đầu tiên có ý nghĩa tổng kết sâu
sắc phong trào này. Nghiên cứu phong trào Thơ mới không thể không tham khảo
Thi nhân Việt Nam vì nó có giá trị giới thiệu, đánh giá, cổ vũ và đấu tranh cho sự
phát triển của Thơ mới. Điều đáng khâm phục ở Hoài Thanh là với những đánh
giá, nhận định phê bình của mình, ông đà tạo ra một con đờng. Hầu hết các
nhà phê bình văn học sau này và cả chúng ta đều bớc trên con đờng ấy để đến
với phong trào Thơ mới. Nói một cách khác, nhiều đánh giá, nhận định trong Thi
nhân Việt Nam đợc xem là kim chỉ nam về nội dung và mẫu mực về hình thức
nghệ thuật của văn phê bình.
Ngời ta nói Hoài Thanh gặp phong trào Thơ mới nh gặp một mối tình quả
không sai, vì sự gặp gỡ ấy đà làm dấy lên một tình yêu say đắm, một sự thấu
hiểu sâu sắc đến mức đồng điệu. ở cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đà thể
hiện tình yêu nồng nhiệt ấy trong sự thăng hoa của cảm xúc, đồng thời là kết quả
của một tinh thần làm việc hết mình. Hoài Thanh giống nh một ngời đÃi cát tìm
vàng, đà sàng lọc trong cả vạn bài thơ để giới thiệu với bạn đọc chỉ hơn một trăm
năm mơi bài thơ hay.
Một trong những giá trị to lớn của Thi nhân Việt Nam nằm ở khảo luận
Một thời đại trong thi ca. Tiến sỹ Trần Hạnh Mai đánh giá đây là bản tổng kết
phong trào Thơ mới một cách đầy đủ, chính xác và ngắn gọn [12,114]. Trớc
hết, Hoài Thanh nhìn nhận rõ nhu cầu đổi mới thơ ca trong lúc bấy giờ là đúng
đắn và cần thiết: Tình chúng ta đà đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy.
Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kÝn
nhiƯm – thiƯn – mü u t, c¸i kh¸t väng đợc thành thực [22,17].
Bài khảo luận là bản tổng kết đầy đủ khi tác giả có một cái nhìn khá toàn
diện về sự phát triển của phong trào Thơ mới. Hoài Thanh đà chăm chú dõi theo
từng bớc đi từ lúc còn chập chững đến khi trởng thành, từ ngày ra đời đến khi
phát triển rực rỡ của phong trào này. Còn sự chính xác của bài khảo luận đợc thể
hiện đến cả chi tiết thời gian: Nhng một ngày kia cuộc cách mệnh về thi ca đÃ
nhóm dậy, ngày ấy là ngày 10-3-1932[22,19]. Từ đây, tác giả cuốn sách tái
hiện một cách rõ ràng và sinh động cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và Thơ mới, cuối
cùng đi tới kết luận về sự thắng thế của phong trào Thơ mới. Hoài Thanh chỉ ra
sự khác biệt giữa thơ cũ và Thơ mới, và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự toàn
thắng của Thơ mới - đó chính là nội dung cái tôi cá nhân: Cứ đại thể thì tất cả
tinh thần thời xa thiện mỹ hay thơ cũ thiện mỹ và thời nay thiƯn – mü hay th¬ míi – thiƯn – mü có thể gồm lại
trong hai chữ tôi và ta. Ngày trớc là thời chữ ta bây giờ là thời chữ tôi [22,45].
Chính cái tôi cá nhân của những nhà thi sỹ ấy làm nên một thời đại trong thơ ca,
một thời đại mà Hoài Thanh phải kêu lên: Tôi quyết r»ng trong lÞch sư thi ca
ViƯt Nam cha bao giê có một thời đại phong phú nh thời đại này [22,9].
Hoài Thanh gọi cái công việc tuyển chọn và phê bình của mình là việc làm
theo ý thích cá nhân: Âu là tôi chỉ chiều tôi vậy [22,372]. Nhng thực sự đó là
một ý thích có tính chuẩn mực. Những đánh giá, nhận định của Hoài Thanh về
phong trào Thơ mới nói chung cũng nh các tác giả nói riêng đều chính xác cho
đến ngày nay. Cái tài của Hoài Thanh là nhận diện ra phong cách của từng ngời:
Một hồn thơ rộng mở nh Thế Lữ, mơ màng nh Lu Trọng L, hùng tráng nh Huy
Thông, trong sáng nh Nguyễn Nhợc Pháp, ảo nÃo nh Huy Cận, quê mïa nh
Nguyễn Bính, kỳ dị nh Chế Lan Viên.... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn nh Xuân
Diệu[22,29]. Bên cạnh bàn về thơ, Hoài Thanh còn gửi gắm vào đó tâm trạng
trớc thời cuộc, vừa âu lo vừa hy vọng mà từ đó chúng ta thấy toát lên một tinh
thần yêu nớc sâu kín nhng nồng nàn: Phơng Tây đà trao trả hồn ta lại cho ta.
Nhng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn
trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ (...)Nhng do đó, trong thất vọng sẽ
nẩy mầm hy vọng [22,47].
Tóm lại, khảo luận Một thời đại trong thi ca là một bản tổng kết vừa mới
mẻ, vừa súc tích về một phong trào thơ rực rỡ những năm ba mơi của thế kỷ XX.
Thi nhân Việt Nam có một vai trò quan trọng trong sự nghiệp phê bình của
Hoài Thanh. Trong Lời kết thúc cuộc hội thảo Hoài Thanh thiện mỹ cuộc đời và sự
nghiệp nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Hoài Thanh (1909 thiện mỹ 1999), nhà
nghiên cứu Từ Sơn viết: Năm 1992, nhân kỷ niệm 50 năm Thi nhân Việt Nam
ra đời và 10 năm ngày mất của Hoài Thanh, một cuộc hội thảo khoa học về Hoài
Thanh và Thi nhân Việt Nam do Hội Nhà văn và Viện Văn học tổ chức đà giúp
chúng ta nhìn nhận và khẳng định những giá trị đích thực của Thi nhân Việt
Nam thiện mỹ một tác phẩm đợc công chúng và thời gian xếp vào hàng tác phẩm xuất
sắc của văn học hiện đại Việt Nam thế kỷ XX và tác giả của nó đợc công nhận
là một nhà phê bình văn học tài hoa xuất chúng [16,260].
Qua Thi nhân Việt Nam, chúng ta đà nhận diện đợc sở trờng cũng nh phong
cách phê bình văn học của Hoài Thanh. Quan tâm chung đến văn chơng, nhng sở
trờng của ông là phê bình thơ. Khả năng rung động và thẩm thấu trớc thơ ca của
Hoài Thanh giống nh một khả năng trời phú. Đồng thời ông tạo cho mình một
lối phê bình riêng, lối phê bình trực cảm, theo c¸ch gäi cđa nhiỊu ngêi trong giíi
hiƯn nay.
ë ViƯt Nam, phê bình văn học trực cảm đà có nguồn gốc từ lâu, trong phê
bình văn học truyền thống phơng Đông. Đến giai đoạn 1930 thiện mỹ 1945, nó đợc kế
thừa và sau đó phát triển thêm bằng phơng pháp phê bình văn học trực cảm phơng Tây. Khởi điểm chung của những nhà phê bình văn học trực cảm là đến với
văn chơng nh một sự chia sẻ mang tính đồng điệu. Đặc điểm nổi bật ở những tác
phẩm tiêu biểu của phơng pháp phê bình văn học này là tính mơ hồ (vì không
mấy khi chứng minh) nhng rất có sức thuyết phục. Tính thuyết phục đợc tạo nên
bởi một văn phong đẹp, mợt mà, giàu cảm xúc, dễ dàng tác động đến tình cảm,
cảm nhận của ngời đọc. Điều này ta dễ dàng bắt gặp trong Thi nh©n ViƯt Nam.
Đối với các nhà phê bình trực cảm, trực giác là một khả năng hết sức quan
trọng. Đỗ Lai Thuý nhận xét: ở Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đà hiĨn lé mét
trùc gi¸c nghƯ tht tut vêi” [28,19]. Trong mục Nhỏ to Hoài Thanh viết:
Dầu vui, dầu buồn, tôi muốn sống cái đời bây giờ đÃ. Có những bài thơ tôi say
mê mà ngời sau sẽ thấy không có gì. Thì mặc họ chứ. Nói gì ngời sau. Chính tôi
ngày mai đây biết có còn rung động vì tất cả những bài thơ hôm nay tôi trích?
[22,373]. Để chiều cái sở thích của riêng mình, Hoài Thanh đi tìm những bài thơ
hay theo nhận thức, quan niệm của ông. Và dờng nh trong quá trình ấy, ông luôn
ý thức bình chứ không phải phê: Bình thì cũng còn đợc. Nhng phê? Sao lại
phê? [22,377]. Cho nên đọc văn phê bình của ông mà thấy cả ý, tình, hình và
nhạc...." Hoài Thanh làm phê bình mà cứ nh làm thơ, đúng hơn, phát biểu những
ấn tợng thơ (Đỗ Lai Thuý ) [28,19].
Ví dụ một đoạn viết về Huy Cận: Huy Cận đi lợm lặt những chút buồn rơi
rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo nÃo. Ngời đời sẽ ngạc nhiên vì không
ngờ với một ít cát bụi tầm thờng thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu
ngọc. Ai có ngờ những bớc chân đà tan trên đờng kia còn ghi lại trong văn thơ
những dấu tích hẳn không bao giờ tan đợc?
Thôi đà tan rồi vạn gót hơng
Của ngời đẹp tới tự trăm phơng
Tan rồi những bớc không hò hẹn
ĐÃ bớc trùng nhau một ngả đờng[22,126].
Đoạn văn đà dẫn dắt ngời đọc bằng một thứ ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm
xúc, hình ảnh, nhịp điệu thiện mỹ thứ ngôn ngữ mà các nhà dân tộc chí thờng dùng để
nắm bắt cái tâm hồn bàng bạc của thổ dân mỗi khi ngôn ngữ khoa học bất lực
(Đỗ Lai Thuý) [28,19].
Mặc dù trực giác đóng vai trò chính nhng không vì thế mà phê bình của
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam lại mang tính cảm tính. Nó vẫn bảo đảm
tính lý luận và có ít nhiều đóng góp mà lý luận phê bình Mácxít ngµy nay cã thĨ
kÕ thõa. VÝ dơ nh viƯc tun chọn thơ. Hoài Thanh chỉ chọn những bài mình
thích, nhng đó là một cái thích có cơ sở, trở thành nhÃn quan cho ngời đọc. Lại
Nguyên Ân nhận xét: Hầu nh chúng ta chỉ đọc đợc Thơ mới (1932 thiện mỹ 1945)
trong những nguồn mà Hoài Thanh (ở Thi nhân Việt Nam) đà đọc[12,120]. Quả
là Hoài Thanh đà có con mắt tinh đời, thẩm thấu tác phẩm sâu sắc và có những
phát hiện mới mẻ , chính xác.
Nói tóm lại, Thi nhân Việt Nam là một cuốn phê bình thơ có giá trị . Cuốn
sách thể hiện năng lực mẫn tuệ của Hoài Thanh trong việc khám phá, phát hiện
tầm vóc Thơ mới, nhận chân giá trị Thơ mới và đóng góp của phong trào này
trong tiến trình thơ ca của dân tộc. Ông đà theo dõi quá trình phát triển, tiên
đoán tiền đồ, bế tắc và chỉ ra lối thoát cho nó, đồng thời thẩm định, đánh giá chất
lợng các sáng tác của phong trào.Với cuốn sách này, Hoài Thanh đà có công tôn
vinh phong trào Thơ mới, xây đắp cho phong trào này một tợng đài sừng sững
với thời gian, nh đánh giá của Giáo s Nguyễn Văn Hạnh: Sau Hoài Thanh cho
đến nay ở ta cũng cha có nhà nghiên cứu phê bình nào hoàn thành đợc một công
trình nghiên cứu có phạm vi bao quát rộng lớn và có chiều sâu nh ông đà làm.
Ngời ta gọi đó là một công trình thế kû cịng cã c¸i lÏ cđa nã”[16,221-222].
Cn s¸ch cịng béc lộ khả năng nhận diện phong cách các nhà thơ, cho ngời
đọc một cái nhìn đa diện về thi nhân Việt Nam giai đoạn này. Cuốn sách là kết
tinh tài hoa tâm huyết của tác giả, đóng góp đáng kể về một lối phê bình.
Suốt chặng đờng từ khi cầm bút đến trớc Cách mạng tháng Tám, Hoài
Thanh đà cống hiến cho nền phê bình văn học Việt Nam những giá trị đáng quý.
Tên tuổi Hoài Thanh ngay trong thời kỳ này đà gây một ấn tợng mạnh mẽ qua
cuộc tranh luËn nghÖ thuËt 1935 – thiÖn – mü 1939, và nhất là tác phẩm Thi nhân Việt
Nam. Chặng đờng cầm bút này của Hoài Thanh có nhiều liên quan đến những
giai đoạn sau, xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan. Lịch sử lý luận phê bình một thời gian dài gọi ông là chủ soái của phái
nghệ thuật vị nghệ thuật, và bản thân ông tuy không công nhận nhng vẫn mang
mặc cảm ấy. Vì vậy nghiên cứu về Hoài Thanh sau 1945 không thể không tìm
hiểu về ông trớc Cách mạng. Tuy nhiên chúng ta và những thế hệ sau sẽ không
bao giờ phủ nhận những đóng góp của Hoài Thanh giai đoạn trớc 1945, đặc biệt
là cuốn Thi nhân Việt Nam.
Cũng với cuốn sách này, Hoài Thanh đà góp phần làm đa dạng diện mạo
phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến trớc 1945. Bên cạnh những
khuynh hớng phê bình nh phê bình khảo cứu khoa học, phê bình Mácxít, phê
bình xà hội học dung tục, phê bình quảng cáo... có khuynh hớng phê bình trực
cảm, nghệ sỹ mà Hoài Thanh là tên tuổi tiêu biểu. Ưu điểm của khuynh hớng
này là một lối viết giàu cảm xúc, hình ảnh, xuất phát từ tình cảm yêu văn chơng
rất chân thành. Tuy nhiên đó cũng là một lối viết theo sở thích cá nhân, tuỳ hứng
phóng bút một cách tự do chủ nghĩa, nặng về hình thức. ở Hoài Thanh giai đoạn
trớc 1945, nhất là trong Thi nhân Việt Nam bộc lộ đầy đủ cả những u điểm và
nhợc điểm đó. Những nhợc điểm của phê bình Hoài Thanh cũng là những tồn tại
điển hình của phê bình văn học trớc Cách mạng tháng Tám, cần có sự định hớng
để phát triển. Nhng nhìn chung, Hoài Thanh là đại diện xuất sắc và tiêu biểu của
phê bình văn học giai đoạn này. Chúng ta phải cảm ơn vì những đóng góp to lớn
của ông.
2. Hoài Thanh với công việc phê bình thơ kháng chiến 1945 thiện mỹ1954.
2.1. Hoài Thanh với sự chuyển mình của dân tộc.
Một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam là Cách
mạng tháng Tám 1945. Có thể nói cha bao giờ trớc đó trong lịch sử Việt Nam có
một sự kiện làm thay đổi xà hội nhiều đến thế, ở tầm vóc lớn lao nh thế. Hình
thái ý thức x· héi, cc sèng, con ngêi tríc vµ sau sù kiện ấy hoàn toàn khác,
khác hẳn, đặc biệt là vấn ®Ị t tëng. Ngun Huy Tëng gäi ®ã lµ “mét cuộc hồi
sinh vĩ đại [1,926].
Trong cuộc hồi sinh ấy, văn học nói chung và phê bình văn học nói riêng
cũng chuyển mình thay đổi. Nếu trớc Cách mạng tháng Tám tình hình phê bình
văn học còn phát triển tự phát và lộn xộn, với nhiều khuynh hớng khác nhau, thì
giờ đây, đứng giữa hiện thực lớn của đời sống nhân dân, đi giữa dòng thác lớn
của phong trào cách mạng ( Nguyễn Đăng Mạnh) [13,11] và đợc sự định hớng
của Đảng, những ngời làm công tác phê bình đà dần ý thức đợc vai trò và nhiệm
vụ của mình.
Những năm đầu sau Cách mạng là những năm văn học chuyển mình. Các
văn nghệ sỹ từng sáng tác trớc Cách mạng nhng không phải thuộc dòng văn học
Cách mạng đà có sù chun ®ỉi vỊ t tëng “quay vỊ mét híng đi theo cách mạng
(MÃ Giang Lân) [7,14]. Câu thơ của TÕ Hanh nãi râ t×nh h×nh Êy:
Sang bê t tëng ta lìa ta
Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà.
Trớc những đổi thay lớn lao của xà hội, các văn nghệ sỹ tự nhận thấy mình
phải đóng góp một phần nhỏ bé nào đó. Nam Cao tự đặt cho mình trách nhiệm
sống đà rồi hÃy viết vì cả dân tộc đà dồn cả vào một con đờng: ấy là con đờng
ra mặt trận, con đờng cứu nớc ( Đờng vô Nam) [ 1,425]. Nguyễn Tuân cũng
hăng hái trên những nẻo đờng kháng chiến (Tình chiến dịch). Huy Cận, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên... đều có những đổi thay quan trọng từ con ngời năm xa
sang con ngời hôm nay.
Trên lĩnh vực phê bình văn học, Hoài Thanh là gơng mặt tiêu biểu cho sự
chuyển mình của phê bình văn học trớc Cách mạng, và đó là một sự thay đổi
mau lẹ. Ngay trong năm 1945, Hoài Thanh đà có bài bút ký Dân khí miền Trung,
trong đó viết: Thực đẹp đẽ vô cùng cái quang cảnh cả một dân tộc vơn mình
đến ánh sáng (...) tôi cảm thấy khắp nơi ở chung quanh tôi và trong lòng tôi một
cuộc tái sinh mầu nhiệm. Đoàn thể đà tái tạo chúng tôi và trong bầu không khí
mới của giang sơn, chúng tôi, những nạn nhân của thời đại chữ tôi hay muốn
gọi là tội nhân cũng đợc thiện mỹ chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá nhân
không có nghĩa gì trong đời sống bao la của đoàn thể(Tạp chí Tiên phong, số
03, ra ngày 16/12/1945) [1,107]. Rõ ràng Hoài Thanh đà ý thức đợc vị trí của cá
nhân ngời cầm bút trong biển lớn của đời sống dân tộc, đời sống cách mạng.
Phải nói đây là một sự thay đổi mau chóng và tích cực mà không phải ngời cầm
bút nào cũng có ngay đợc sau một biến đổi lớn lao của đất nớc. Nhng đây không
chỉ là nhận thức thuộc về cá nhân Hoài Thanh, mà với t cách một nhà phê bình, ý
thức này rõ ràng có tác động tốt đến những ngời sáng tác trong bối cảnh còn
nhận đờng để đi.
Cùng với ý thức ấy, trong giai đoạn 1945 thiện mỹ 1954, Hoài Thanh đà có những
bài viết quan trọng. Ông đà nhiệt tình cổ vũ nền văn nghệ mới bằng việc khẳng
định kịp thời: Có một nền văn hoá Việt Nam ( 1946). Trong bài viết này ông đi
tìm và khẳng định những nét đặc sắc của văn hoá Việt Nam nh nặng về tình,
không thiên về lợng...và nhìn văn hoá Việt Nam trong tơng lai với niềm tin sáng
lạng. Hoài Thanh còn bày tỏ sự thay đổi quan điểm phê bình văn học theo định
hớng mới một cách kín đáo bằng công trình nghiên cứu về Truyện Kiều: Quyền
sống cđa con ngêi trong Trun KiỊu cđa Ngun Du (1949). Mặc dù đề tài phê
bình thuộc về chuyện xa nhng những gì Hoài Thanh trăn trở thì lại nóng hổi tính
thời sự: ở một nơi nào đó trong tâm trí chúng ta ít nhiều Nguyễn Du vẫn còn
sống. Phê bình Nguyễn Du tức là chúng ta gián tiếp phê bình chúng ta vậy
[24,42]. Quán triệt tinh thần ấy nên song song với việc phân tích vấn đề quyền
sống con ngời trong tác phẩm Truyện Kiều, Hoài Thanh luôn đặt ra những vấn
đề của cuộc sống hiện tại: Làm thế nào để thực hiện lòng khao khát đợc sống
Nguyễn Du đà gửi vào trong hai nhân vật Thuý Kiều và Từ Hải? Đồng thời làm
thế nào để tránh cái luẩn quẩn, cái không dứt khoát của Nguyễn Du để có thể
mình hoàn toàn thành thực với mình? Vấn đề đối với thế hệ chúng ta là thế. Vấn
đề ấy, thực ra chúng ta, những ngời Việt Nam kháng chiến, chúng ta vẫn đơng
giải quyết trong sự cố gắng hàng ngày của chúng ta [24,73].
Nh vậy, trở lại nghiên cứu Truyện Kiều khi đà đi với Cách mạng, Hoài
Thanh thực ra muốn kiểm điểm lại quan điểm nghệ thuật cũ của mình, và muốn
khẳng định sự u việt của chế độ mới có thể đem lại quyền sống thật sự cho con
ngời. Chính vì thế bài viết đà tạo cho mọi ngời một niềm tin vào hiện tại và tơng
lai. Những bài viết kiểu nh thế này đợc Giáo trình Đại học s phạm xem là một
kiểu phê bình văn học: Viết về văn học quá khứ theo quan điểm đọc sách cho
ngời hôm nay, phát hiện trong tác phẩm quá khứ những khía cạnh mới mẻ có
tính thời sự đối với đời sống hiện đại, giúp bồi dỡng và kích thích sáng tác và
phê bình văn học hiện đại [13,172].
Cũng năm 1949, Hoài Thanh còn có một số bài viết nữa nh Nhân văn Việt
Nam, Xây dựng văn hoá nhân dân. Những bài viết này đều thể hiện mối quan
tâm của ông đối với nền văn hoá dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới.
Nói tóm lại, điểm chung mà những bài viết trong giai đoạn 1945 thiện mỹ 1949
của Hoài Thanh toát lên là sự thay đổi về t tởng của ngời cầm bút phù hợp với sự
chuyển mình của dân tộc. Sự thay đổi này chi phối đến nội dung t tởng tác phẩm,
đến những vấn đề mà tác giả đề cập. Nếu trớc đây Hoài Thanh chủ yếu quan tâm
đến văn chơng, thậm chí biệt lập nó thì nay ông đà gắn văn chơng với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc, sự nghiệp kháng chiến của toàn dân. Ông không quên
quá khứ: Nhiệm vụ chúng ta là phải biết khai thác nguồn xa để lấy sức đi tới
(Nhân văn Việt Nam) [24,151]. Ông cũng ý thức rõ vai trò của văn nghệ sỹ: Rũ
cho sạch đợc những lối nhìn, lối nghĩ, lối cảm trong bao nhiêu năm đà in nếp vào
tâm trí, để thay đổi hẳn con ngời đi (Xây dựng văn hoá nhân dân). [24,197].
Một điều đáng ghi nhận trong những bài viết này là Hoài Thanh luôn tràn
ngập một niềm tin. Có lẽ nhờ cuộc Cách mạng tháng Tám, nhờ không khí Cách
mạng, kháng chiến và xây dựng của nhân dân, một luồng gió t tởng tiến bộ và tơi
mới đà làm mát những trang viết của Hoài Thanh. Ta bắt gặp trong đó niềm vui
có cơ sở vững chắc thiện mỹ một niềm vui không thấy trong những tác phẩm của ông
trớc Cách mạng. Ông đà tin tởng: Một ngày mai xán lạn đơng chờ đợi chúng
ta(Có một nền văn hoá Việt nam) [24,38].