BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
TIỂU LUẬN MƠN HỌC
SỰ TRÌ HỖN CỦA SINH VIÊN
CĨ PHẢI CĂN BỆNH ?
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Phạm Minh Kiên
LỚP – MSSV: CL001 – 31181022860
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : TS. Cao Quốc Việt
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2019
1
LỜI MỞ ĐẦU
Khác với môi trường thời học sinh, sinh viên đại học ln có nhiều phần tự chủ trong cuộc
sống và việc học của mình chính vì thế sinh viên ln có nhiều sự lựa chọn tự chủ riêng. Hầu hết
tình trạng này ln xuất hiện ở tất cả các sinh viên của tất cả các năm. Chính vì thế đề tài tiểu
luận này được hình thành và phần nào đó giải đáp thắc mắc của mọi người về vấn đề “sự trì hỗn
của sinh viên”.
Mục đích của bài tiểu luận đi vào đánh giá tổng quát và khách quan về vấn đề sự trì hỗn
của sinh viên, giúp người đọc hình dung và hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề từ đó đưa ra các giải
pháp phù hợp cho chính bạn và mọi người xung quanh.
Với cách thức khai thác từ bài báo, các trích dẫn khoa học được công bố trên các trang web
internet làm nguồn tham khảo, bài viết sẽ dựa trên những yếu tố đó nhằm khai thác những khía
cạnh theo cách nhìn riêng. Bài viết có phần sơ sài vì trình độ chun mơn và kiến thức thực tiễn
cịn nhiều hạn hẹn, mong thầy đọc và nhận được sự góp ý của thầy để bài tiểu luận được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn thầy!
2
I.
TRÌ HỖN LÀ GÌ:
1. Trì hỗn là gì:
“Sự chần chừ được định nghĩa là phi lý và tự nguyện thực hiện hoặc trì hỗn các nhiệm vụ
mặc dù biết một người đang hành động chống lại lợi ích tốt nhất của chính họ ( Steel,
2011 ). Đặc biệt, khi hỗn các nhiệm vụ cần thực hiện đã trở thành thói quen và được coi là căng
thẳng, sự trì hỗn có thể là một cuộc đấu tranh thực sự ( Rozental và Carlbring, 2014 ). Sự chần
chừ thể hiện sự thất bại của việc tự điều chỉnh , tạo ra sự khác biệt giữa ý định và hành vi
( Höcker, Engberding, Haferkamp, & Rist, 2012). Khi những người trì hỗn phải đối mặt với
việc hoàn thành các thời hạn quan trọng, họ thường chú ý đến những phiền nhiễu ngắn hạn như
duyệt internet hoặc dọn phịng có liên quan đến phần thưởng ngay lập tức hơn ( Steel, 2007 )
hoặc tránh cảm giác tiêu cực ( Pychyl et al., 2000 ; Steel, 2007 ).” [1]
Hay nói một cách khác, hành động trì hỗn là một hành động tự chủ của suy nghĩ và hành
động nhằm lấy lí do nào đó khác ngăn cản cơng việc đang có trước mắt
Nằm trong hệ thống ý nghĩa của tiếng Việt, trì hỗn là một hành động ngơn ngữ khá đặc
biệt. khi ở một tình huống cụ thể và có mức độ trách nghiệm người ta mới thực hiện việc trì
hỗn. Để trì hỗn, người ta phải viện dẫn rất nhiều lí do và dù với lí do gì, thì người nói (người
trì hỗn) cũng không thể thực hiện ngay việc mà đáng ra họ phải thực hiện và phải hồn thiện
đúng hạn. Vì vậy, trong một chừng mực nào đó, việc trì hỗn gần như là “hứa”. Về cơ bản, “hứa”
có thể là trì hỗn, nhưng trì hỗn khơng thể là hứa. [2]
2. Thói quen và cách thức:
Từ lâu trì hỗn đã hình thành trong ý thức con người từ thửa mới sinh ra việc trì hỗn đã
được định nghĩ sớm. Những đứa trẻ thường ăn bữa ăn của mình rất chậm chạp, chúng cũng
thường thích thức đêm với chiếc điện thoại và lười dậy sớm. Đó là những biểu hiện rất sớm của
việc trì hỗn và được hình thành trong suốt thời gian trưởng thành. Ở độ tuổi lớn hơn, độ tuổi
trung học, chúng ta cũng thường quen với việc trì hỗn. ở các môn học các thầy cô thường cho
đề cương môn học ở dạnh câu hỏi tự luận, đó là nguồn tham khảo chất lượng và rất sát với đề,
khiến học sinh có tính ỷ lại và trì hỗn. Mơi trường kèm cặp cuộc sông của các bạn thanh thiếu
niên cũng tác động lớn đến các em khiến các em ở mơi trường đại học được thỏa sức làm điều
mình muốn.
Trong bản báo cáo về cuộc nghiên cứu về sự chần chừ, khái quát hay cụ thể, ở sinh
viên đại học và cha mẹ của họ [3]. Năm mươi hai sinh viên đại học Israel đã báo cáo thói
quen học tập và cuộc sống hiện tại của họ, cha mẹ của họ đã báo cáo về sự trì hỗn học
tập của chính họ khi họ ở trường,và sự trì hỗn thường xuyên trong cuộc sống hiện tại
3
của họ. báo cáo cho rằng, có rất nhiều bà mẹ báo cáo rằng họ có liên quan trực tiếp đến
cuộc sống của con cái họ, các thói quen trong quá khứ đều có phần nào đó bị các bà mẹ
nhúng tay vào tác động ít hoặc nhiều. Các bà mẹ Israeli thường buồn bã hơn những người
cha về sự chần trừ của con mình, đây cũng là lí do gián tiếp khi các hành vi của cha mẹ
sẽ là tấm gương phản chiếu từ thời thơ ấu. Ở trên là ví dụ thú vị của đất nước Israeli, tuy
nhiên với đặc thù và văn hóa của con người Việt Nam sự chần trừ không hẳn bắt nguồi từ
bố mẹ.
Từ diễn đàn sinh viên đã có cuộc thảo luận rất thú vị. “Nhiều sinh viên ở ta bây giờ
hễ có việc hơm nay là họ có thể để đến tuần sau, tháng sau, thậm chí là năm sau làm cũng
được. Hồn thành được thì tốt, khơng hồn thành được thì chặc lưỡi: Kệ, chơi cái đã!
Đến lúc “nước sôi lửa bỏng”, cuống lên mới sinh ra chuyện học đối phó, thi tiêu cực...
Bệnh lười khiến khơng ít sinh viên mất đi khả năng đề kháng để chống chọi với sức ép
của cơng việc trong thực tế” [4], đó là thực tế hiện hữu của phần lớn sinh viên hiện nay,
nghe có vẽ như ta đang khai thác và vấn đề sinh viên lười hoạt động và sáng tạo. Nhưng
đây cũng là ngun nhân chính kiến việc ỉ lại, trì hỗn dần hình thành, các bạn có thể
vượt qua một bài bằng cách học đối phó từ đó sẽ sinh ra tính ỷ lại vì nghĩ rằng bản thân
hồn tồn có thể vượt qua. Thông tin tuy đã cũ nhưng chưa hề hết giá trị và sự thực tiễn,
đặc biệt trong bối cảnh cuộc sống đang được trợ giúp từ rất nhiều nguồn khiến con người
lười đi.
II.
THỰC TRẠNG TỒN TẠI : “SỰ TRÌ HỖN”
Theo quan điểm của bài viết “Vì sao lại có những kẻ trì hỗn chun nghiệp?” trên web
spiderum.com, tác giả Phạm Huỳn đã có cách nhìn rất khái qt và cụ thể về vấn đề trì hỗn ở
sinh viên và vì sao nó tồn tại rất manh mẽ.
Ở Việt Nam, bố mẹ thường thúc dục con cái mình ngồi vào bàn học mỗi tối, thậm trí ở vài
nơi loa phường còn dặn bố mẹ đã đến 7h phiền mọi người mở nhỏ tivi để các cháu học. Với tính
tự giác miễn cưỡng ấy thật dễ hiểu khi ở lứa sinh viên khi khơng cịn sự kiểm sốt cảu bố mẹ
sinh viên không làm chủ được kỉ luật của bản thân hoặc kiểm sốt rất thấp. Một ví dụ điểm hình
và rất thực tế là chuyện đặt báo thức, những sinh viên trì hỗn thường cài rất nhiều báo thức khác
nhau ở gần một khung giờ thay vì chỉ một lần và thức dậy [5]. Báo điện tử vietnam.net, bài Bộ
ảnh bóc trần lối sống thụ động của sinh viên đăng ngày 29/03/2017 đã có những kía cạnh mới lại
về các mà sự trì hỗn tồn tại ở sinh viên. Cụm từ “vùng an toàn” khá được nhiều các bạn trẻ thực
4
hiện, theo đuổi một công việc ổn định, một khoản thu nhập ổn định không hành động khác
người, không trải nghiệm, không bon chen. Lối suy nghĩ ấy giết chết sự chủ động, sự phát triển
của xã hội không ngừng thay đổi, sự thích ứng và chủ động là điều kiện cần thiết để tồn tại và trở
nên tốt hơn. Được chuyển biến dưới nhiều hình thức và cách thức trì hỗn đang khơnng ngừng
lan rộng. Từ thời cách mạng internet chưa bùng nổ, sự trì hỗn được thể hiện qua những câu nói
“chơi nốt vãn đã” nhưng chiếc đĩa game cuốn hút sinh viên thời ấy, ta thường nghe nhiều về các
tệ nạn ở thành phố lớn nơi các sinh viên học tập cho đến thời bổi hiện nay khu trì hõa đã là căn
bệnh, nó tồn tại như một lỗ đen hút thời gian của sinh viên. Một chiếc mệm êm và một chiếc
smartphone đủ để tạo ra một lỗ đen của sự trì hỗn, trong lỗ đen ấy, internet chính ra năng lượng
chính. Sự kết nối trên internet không hẳn đã là kết nối mọi người, đối với trì hỗn đó là sự kết
nối những tài ngun có sự lơi cuốn về hình thức mà khơng giúp cho người tiếp cận trở nên chủ
động hơn. [6]
III.
VỀ VẤN ĐỀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SINH VIÊN
1. Các nhóm sinh viên trì hỗn:
Các sinh viên trì hỗn thường có những lí do nhất định, khiến cho các lí do ấy là sự khác
biệt để chúng ta có thể phân loại một cách tổng quát nhất. Cơ sở dữ liệu dựa trên nhưng nghiên
cứu định tính, định lượng và lý thuyết của tác giả Tim UrBan trên trang web
/>cript?language=vi. Sơ lược có thể chia các nhóm sinh viên ấy theo các đặc điểm như sau:
a. Nhóm sinh viên “ nước rút”
- Đặc điểm: thường là những người tới chót hạn mới làm việc cần làm, họ coi đó là
-
điều hiển nhiên và dễ thực hiện, lí do khá đơn giản họ nghĩ họ sẽ làm được
Tính hiệu quả: thời gian gấp rút khiến bản thân không thể đáp ứng 100% nhu cầu
mà u cầu cơng việc đưa ra, đẫn đến khó có khả năng đột phá
b. Nhóm sinh viên “dàn đều ảo”
- Đặc điểm: là những người có quan điểm sắp sếp thời gian trước cho cơng việc
mình sẽ làm theo mức độ có thể đảm nhận trong một thời hạn nhất định (có thể
tăng dần hoặc giảm dần) và kết hợp chúng lại thành một kết quả hoàn chỉnh.
-
Nhưng sau cuối cùng lại trở về nhóm “nước rút”.
Tính hiệu quả: có chung một kết quả với nhóm sinh viên “nước rút” nhưng sẽ
mang nhiều tính tiêu cực hơn vì trong suốt q trình chuẩn bị đã bị trì hỗn, người
trì hỗn đã mất rất nhiều thời gian để thực hiện nhưng khơng có kết quả cho việc
chuẩn bị trước đó.
5
Hai nhóm sinh viên này là tiêu biểu cho những sinh viên trì hỗn, những đặc điểm tuy dễ
để nói nhưng khó để nhận biết, bởi vì các mức độ thể hiện cụ thể thường là không xác định bởi
người chứng kiến, các hành động trì hỗn thường được thực hiện với nhiều cách thức khác nhau.
2. Tác động tiêu cực
Trì hỗn là một thói quen nguy hiểm gây trở ngại lớn cho sinh viên trong học tập và phát
triển. Dần dần thói quen đó tạo ta các nhân phẩm như: Ý thức trách nhiệm kém, cảm giác bất lực
trước mọi tình huống, lịng tự trọng và đánh giá năng lực bản thân thấp trong q trình học,
khơng có sự kết hợp cao, các quyết đinh trở nên phi định tính và định lượng, đặc biệt mức độ tự
học và trình độ thấp hơn. [7]
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu có 3 hành vi bị sự trì hỗn chi phối, đó là hiệu suất thực
hiện cơng việc, tập trung trong q trình và tính tương tác liên kết trong tập thể. Chần chừ do
dự ở sinh viên Việt Nam đang có xu hướng gia tăng theo thời gian, nguyên nhân các thế hệ sinh
viên việt nam thiếu tính cạnh tranh, cảm thấy không đủ bản lĩnh ở cuốc chơi khốc liệt, hành vi
trì hỗn sẽ càng tiếp tục phát triển và cắm sâu vào đất rễ và đây chính là mối nguy hại của xã
hội.
IV.
CÓ PHẢI LÀ CĂN BỆNH HAY KHƠNG
Theo wikipedia Bệnh là q trình hoạt động và trang thái khơng bình thường của cơ
thể sinh vật từ nguyên nhân khởi thuỷ đến hậu quả cuối cùng. Con người từ bản chất là không
ngừng hoạt động theo hướng phát triển, từ thời thủa tạo hình chúng ta đã luôn muốn chứng tỏ vị
thế của con người bằng cách tạo ra các nền văn minh phát triển thịnh vượng, Suy nghĩ theo luồng
lịch sử ấy luôn hướng theo những điều tốt những điều có thể hiểu theo câu “dám nghĩ dám làm”.
Vậy thì đói với chúng ta hiện nay một số bộ phận cá nhân dường như không hoặc chưa từng có
gắng nổ lực cho nhưng điều mình cần phải làm. Quay lại với khái niệm về căn bệnh, căn bệnh là
điều khi cơ thể và suy nghĩ không bình thường so với trạng thái nguyên thủy, vậy khi chúng ta
không suy nghĩ và hành động theo suy hướng tốt hơn thì đã là trái với trạng thái nguyên thủy.
Vậy trì hỗn là một căn bệnh.
Chúng đã hình thành từ rất lâu và chúng ta không hề để ý và coi đó như một phần tất yếu
của cuộc sống. Người trì hỗn thường có lối suy nghĩ căng thẳng hơn người bình thường nhiều
lần nhưng theo chiều bội số từ lúc bắt đầu trì hỗn [8], việc chấp nhận trì hỗn hồn tồn khác
với việc chủ động trì hỗn, một khi đã là một căn bệnh thì việc chấp nhận trì hỗn nghe sẽ phù
hợp hơn, đã là bệnh thì khơng thể là chủ động bị bệnh. Nguy hiểm hơn khi chúng ta không cố
gắng khắc phục, chúng sẽ trở nên hồn tồn làm chủ bản thân, thay vì “yes, i can” thì ta sẽ “no, i
can’t”, đó là hệ quả tiêu cực của căn bệnh.
6
V.
NHÌN NHẬN CỦA CÁ NHÂN
Theo chiều hướng phát triển của xã hội và thời đại, các cơng cụ bổ ích cho cuộc sống cùng
với một số thói quen sống có phần phụ thuộc của các thế hệ sau này đã và đang phần nào đó là
nguyên nhân và tác động chính để sự trì hỗn tồn tại và phát triển. Một số đinh chế của môi
trường mà chủ thể tồn tại chưa có sự răng đe kĩ lưỡng đẫn đến việc đối phó và khiến “lỗ đen”
của chủ nghĩa trì hoãn thâm nhập sau vào trong suy nghĩ khiến nội lực của mỗi chúng ta trở nên
yếu ớt khóa kháng cự [9]. Cuộc chiến với căn bệnh này cần phải có sự thay đổi tồn diện của
nhận thức và hành động. Nhận thức trong tư tưởng, dám nghĩ dám làm, thay đổi trong hành động
làm luôn và không chần trừ. Suy cho cùng trì hỗn đều là suy nghĩ do chúng ta tạo ra, do chúng
ta thực hiện nếu chúng ta thực sự nhận ra vấn đề thực sự thấy rõ ngun nhân và kết quả thì
chúng ta hồn tồn tạo ra được một loại vắc-sin hưu hiệu. Nếu thành cơng chúng ta sẽ là những
người tài giỏi và có ích nhất.
PHỤ LỤC TRÍCH DẪN VÀ THAM KHẢO
[1]
A. M. Küchler, P. Albus, D. D. Ebert, and H. Baumeister, “Effectiveness of an internetbased intervention for procrastination in college students (StudiCare Procrastination):
Study protocol of a randomized controlled trial,” Internet Interv., vol. 17, no. December
2018, p. 100245, 2019.
[2]
H. Độ, N. G. Ngôn, N. G. Ữ Trì, H. Trong, T. I. Ế Ng, and L. Ê. T. H. Ị H. I. Ề N, “( Trên c
ứ li ệ u các tác ph ẩ m c ủa Vũ Trọ ng Ph ụ ng , Ngô T ấ t T ố và Nam Cao ) ( On the
7
evidence of the works of Vu Trong Phung , Ngo Tat To & Nam Cao ),” vol. 9, no. 227, pp.
60–63, 2014.
[3]
N. Milgram, G. Mey-Tal, and Y. Levison, “Procrastination, generalized or specific, in
college students and their parents,” Pers. Individ. Dif., vol. 25, no. 2, pp. 297–316, 1998.
[4]
S. Vi, “sinh viên 40,” pp. 40–41, 2008.
[5]
G. C. Rakes and K. E. Dunn, “The Impact of Online Graduate Students ’ Motivation and
Self- Regulation on Academic Procrastination,” no. 1998, pp. 78–93.
[6]
R. J. Vallerand, P. Health, and H. Behaviors, “Self-Regulation and Academic
Procrastination,” no. July 2015, 1995.
[7]
C. P. Joubert, “The relationship between procrastination and academic achievement of
high school learners in North West province, South Africa,” no. February, pp. 1–117,
2015.
[8]
P. Steel, T. Brothen, and C. Wambach, “Procrastination and personality , performance ,
and mood,” vol. 30, pp. 95–106, 2001.
[9]
G. L. Flett, K. R. Blankstein, and P. L. Hewitt, “York University, Erindale College
University o/Toronto, University of Winnipeg and York University,” vol. 20, no. 2, pp.
85–94, 1992.
8