Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Công Tiến bộ trong việc
Niên khóa 2005-2006 Bài đọc tạo nguồn thu ở đô thị
Jay K. Rosengard
1
Biên dịch: Xinh Xinh
III. TIẾN BỘ TRONG VIỆC TẠO NGUỒN THU Ở ĐÔ THỊ
Những Chỉ báo Theo dõi được tóm tắt trên đây cho thấy rằng những diễn biến đầy
hứa hẹn về tài chính vùng trong vài năm vừa qua nằm trong lĩnh vực tạo nguồn thu địa
phương. Kết quả này đặc biệt quan trọng bởi vì chúng ta biết rằng yếu tố then chốt của
chiến lược GOI nhằm gia tăng sự phân cấp quản lý và tăng tính tự chủ của vùng là xây
dựng một cơ sở ngân sách mạnh cho chính quyền địa phương. Việc tạo nguồn thu địa
phương tốt hơn cũng tối quan trọng trong việc đáp ứng những yêu cầu đầu tư dự kiến về
hạ tầng cơ sở đô thị. Vì thế cho nên phần này sẽ xem sét sâu hơn về tiến bộ gần đây trong
việc huy động nguồn lực địa phương, với trọng tâm là việc tạo nguồn thu địa phương ở
các khu vực thành phố.
Trong điều kiện có nhiều thành phố khác nhau ở Indonesia, trước hết ta cần tìm
một cách nào đó để xếp chúng thành từng nhóm dựa trên các tiêu chuẩn phù hợp, có thể
xác minh và rõ ràng, sao cho các thành phố có thể so sánh được. Cách thông dụng nhất
để xếp các thành phố thành nhóm ở nơi khác khi xem xét tiềm năng thu ngân sách và sự
huy động nguồn lực là xếp theo qui mô thành phố hoặc cơ sở kinh tế của thành phố. Như
thế, 49 thành phố (kotamadya) tồn tại ở Indonesia vào năm tài chính 1990/91 (ngoại trừ
DKI Jakarta) được phân loại theo cả tổng dân số, như là biến đại diện cho qui mô thành
phố, lẫn tổng sản phẩm nội địa của vùng (GRDP) bình quân đầu người ngoài dầu mỏ và
khí (migas), như là biến đại diện cho cơ sở kinh tế của thành phố.
Phân loại qui mô thành phố của Bộ Nội Vụ đã được dùng để xếp loại các thành
phố theo tổng dân số như sau:
o Thành phố Lớn: > 1.000.000 dân
o Thành phố Trung bình: 200.000 – 1.000.000 dân
o Thành phố Nhỏ < 200.000 dân
Tuy nhiên, Ujung Pandang là một ngoại lệ. Mặc dù dân số của Ujung Pandang
dưới 1 triệu một ít (944.372), nhưng những đặc điểm tổng quát và cơ sở kinh tế của thành
phố này làm cho nó giống với các thành phố lớn khác nhiều hơn là giống các thành phố
qui mô trung bình. Ở đây, thành phố qui mô trung bình lớn nhất có dân số ít hơn 700.000
(Malang). Như thế, việc xếp nhóm cuối cùng các thành phố theo qui mô thành phố (đại
diện bởi tổng dân số) bao gồm 6 thành phố lớn, 19 thành phố qui mô trung bình, và 24
thành phố nhỏ (xem Bảng 2).
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Công Tiến bộ trong việc
Bài đọc tạo nguồn thu ở đô thị
Jay K. Rosengard Biên dịch: Xinh Xinh
2
BẢNG 2
Các thành phố ở Indonesia
được xếp thành các nhóm dựa theo
qui mô thành phố
QUI MÔ THÀNH PHỐ
> 900.000 dân
QUI MÔ THÀNH PHỐ
200.000 - 900.000 dân
QUI MÔ THÀNH PHỐ
< 200.000 dân
Surabaya
Bandung
Medan
Semarang
Palembang
Ujung Pandang
Malang
Bandar Lampung
Padang
Surakarta
Banjarmasin
Yogyakarta
Samarinda
Pekan Baru
Pontianak
Jambi
Balikpapan
Manado
Ambon
Bogor
Cirebon
Kediri
Pekalongan
Tegal
Pematang Siantar
Banda Aceh
Binjai
Probolinggo
Bengkulu
Madiun
Pasuruan
Magelang
Gorontalo
Sukabumi
Blitar
Tebing Tinggi
Pangkal Pinang
Palangkaraya
Tanjung Balai
Pare – Pare
Mojokerto
Salatiga
Payakumbuh
Bukit Tinggi
Sibolga
Solok
Padang Panjang
Sabang
Sawah Lunto
(Tanga Bt. Bara)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Công Tiến bộ trong việc
Bài đọc tạo nguồn thu ở đô thị
Jay K. Rosengard Biên dịch: Xinh Xinh
3
Phân loại thành phố theo tổng sản phẩm nội địa của vùng (GRDP) bình quân đầu
người ngoài dầu mỏ và khí đã cho ra các nhóm thành phố làm nảy sinh những mối nghi
ngờ đáng kể về độ tin cậy của các con số GRDP, xét về chất lượng dữ liệu và tính nhất
quán về mặt phương pháp luận. Thí dụ, thành phố Samarang được xếp hạng nhất và
thành phố Cirebon hạng nhì, trong khi Bandung lại đựơc xếp hạng hai mươi chín và
Palembang được xếp hạng ba mươi lăm. Như thế, cách phân lọai này đã không được
dùng để phân tích thêm.
Các kết quả từ việc phân lọai thành phố theo tổng dân số thật hấp dẫn (Xem các
Hình 14, 15, và 16).
o Các thành phố lớn nhận được hầu như một nửa (47%) tổng thu từ các nguồn thu
địa phương, và các thành phố qui mô trung bình tạo ra một tỷ lệ tương đương
(43%) của tổng thu từ các nguồn thu địa phương, trong khi các thành phố nhỏ
hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn thu bên ngoài địa phương, các thành phố này chỉ
tạo ra được trên một phần năm (22%) tổng thu từ các nguồn thu địa phương.
o Các phí sử dụng chiếm ưu thế trong việc tạo nguồn thu địa phương đối với tất cả
thành phố bất kể qui mô của chúng. Đối với các thành phố lớn và trung bình, phí
sử dụng bằng tổng của tất cả nguồn thu khác ở địa phương, đối với các thành phố
nhỏ phí người sử dụng vào khoảng gấp đôi các nguồn thu khác ở địa phương.
o Vai trò của thuế địa phương giảm sút đáng kể theo qui mô thành phố. Thuế địa
phương chiếm tỷ lệ 15,2% tổng thu đối với các thành phố lớn, con số này giảm
còn 10,8% đối với các thành phố trung bình và 4,0% đối với các thành phố nhỏ.
o Thuế tài sản tạo ra vào khoảng một phần mười của toàn bộ thu nhập đối với các
thành phố lớn và trung bình (thành phố lớn là 9,7% và thành phố trung bình là
9,0%), và ít hơn một nửa tỷ lệ nói trên đối với các thành phố nhỏ (3,8%). Tuy
nhiên, thuế tài sản đóng góp xấp xỉ một phần năm thu nhập địa phương đối với
các thành phố thuộc mọi qui mô.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Công Tiến bộ trong việc
Niên khóa 2003-2004Bài đọc tạo nguồn thu ở đô thị
Jay K. Rosengard Biên dịch: Xinh Xinh
4
HÌNH 14
THÀNH PHẦN TRUNG BÌNH CỦA SỐ THU ĐỐI VỚI
CÁC THÀNH PHỐ LỚN: NĂM TÀI CHÍNH 1990/1991
Thu ngoài
Địa phương
52,6 %
Thu Địa phương
47,4 %
Các phí Sử dụng và
linh tinh
22,5 %
Các Thuế Địa phương
15,2 %
Thuế Tài sản
9,7 %
TỔNG THU
THU ĐỊA PHƯƠNG
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Công Tiến bộ trong việc
Niên khóa 2003-2004Bài đọc tạo nguồn thu ở đô thị
Jay K. Rosengard Biên dịch: Xinh Xinh
5
HÌNH 15
THÀNH PHẦN TRUNG BÌNH CỦA SỐ THU ĐỐI VỚI
CÁC THÀNH PHỐ TRUNG BÌNH: NĂM TÀI CHÍNH 1990/1991
Thu ngoài
Địa phương
57,4 %
Thu Địa phương
42,6 %
Các phí Sử dụng và
linh tinh
22,8 %
Các Thuế Địa phương
10,8 %
Thuế Tài sản
9,0 %
TỔNG THU THU ĐỊA PHƯƠNG
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Công Tiến bộ trong việc
Niên khóa 2003-2004Bài đọc tạo nguồn thu ở đô thị
Jay K. Rosengard Biên dịch: Xinh Xinh
6
Thu ngoài
Địa phương
77,8 %
Thu Địa phương
22,2 %
Các phí Sử dụng
và Linh tinh
14,5 %
Các Thuế Địa phương
4,0 %
Thuế Tài sản
3,8 %
TỔNG THU THU ĐỊA PHƯƠNG
HÌNH 16
THÀNH PHẦN TRUNG BÌNH CỦA SỐ THU ĐỐI VỚI
CÁC THÀNH PHỐ NHỎ: NĂM TÀI CHÍNH 1990/1991
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Công Tiến bộ trong việc
Bài đọc tạo nguồn thu ở đô thị
Jay K. Rosengard Ngi dch: Xinh Xinh
7
IV CÁC NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG VỀ VIỆC
TẠO NGUỒN THU Ở ĐÔ THỊ
Trong mỗi nhóm thành phố cũng có sự khác biệt đáng kể xét về tổng thu địa
phương được tạo ra bình quân đầu người:
o Thí dụ, trong nhóm thành phố lớn, hai thành phố lớn nhất, đó là Surabaya và
Bandung, có thành tích khác nhau một cách đáng ngạc nhiên: Surabaya tạo ra
số thu địa phương bình quân đầu người cao hơn 50% so với Bandung. Tương
tự, hai thành phố có dân số vừa vặn trên một triệu, đó là Semarang và
Palembang, cũng có các kết quả rất khác nhau: Semarang tạo được số thu địa
phương bình quân đầu người gấp hai lần so với Palembang (Hình 17).
o Trong nhóm thành phố qui mô trung bình, tuy ba thành phố Cirebon, Tegal, và
Pekalongan đều có qui mô gần như nhau và có cơ sở kinh tế tương tự, nhưng
Cirebon tạo ra số thu địa phương bình quân đầu người cao hơn 74% so với
Tegal và cao gấp ba Pekalongan (Hình 18).
o Trong nhóm thành phố nhỏ, Bukit Tinggi tạo được hầu như gấp ba lần số thu
địa phương bình quân đầu người so với Tebing Tinggi, và Sukabumi tạo ra
hơn gấp đôi số thu địa phương bình quân đầu người của Blitar, mặc dù trong
cả hai trường hợp các thành phố này có vẻ so sánh được với nhau một cách đại
khái (Hình 19).
Dựa trên những kết quả đã được tìm ra này, một cặp thành phố trong mỗi nhóm
phân theo qui mô nói trên được nghiên cứu thêm để cố gắng hiểu rõ hơn về
khoảng biến thiên rộng thành tích tạo nguồn thu địa phương của các thành phố có
qui mô và các đặc điểm tương tự. Ba cặp thành phố được nghiên cứu là: Surabaya
và Bandung; Cirebon và Tegal; và Bukit và Tebing Tinggi.