Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN PHÂN TÍCH DU LỊCH KHÁM CHỮA BỆNH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.88 KB, 26 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH KHÁM CHỮA BỆNH
1.1.

KHÁI QUÁT CHUNG

1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Theo Luât Du Lịch 2017: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi
của con người ngồi nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên
tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài
ngun du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.
Du lịch dưới góc độ kinh tế: “Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm
vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan giải trí nghỉ ngơi, có hoặc khơng kết hợp với các
hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác”.
1.1.1.2. Khái niệm du lịch khám chữa bệnh
Tại Việt Nam, du lịch khám chữa bệnh được hiểu rộng hơn: “Loại hình du lịch
kết hợp khám chữa bệnh hay phục hồi sức khỏe là loại hình du lịch mà yếu tố chữa
bệnh là mục tiêu phụ cịn mục tiêu chính là giúp cho du khách thư giãn, giảm mệt mỏi
trong và sau chuyến đi, phục hồi phần nào sức khỏe sau một thời gian dài làm việc
căng thẳng nơi công sở hay trong gia đình”.
1.1.1.3. Khái niệm về phát triển du lịch khám chữa bệnh
Trên cơ sở các khái niệm về phát triển đã được giới thiệu ở trên, tác giả đi đến
việc xác lập nội hàm của phát triển du lịch khám chữa bệnh như sau: “Đó là sự gia
tăng sản lượng, doanh thu và mức độ đóng góp của loại hình du lịch khám chữa bệnh
cho nền kinh tế; đồng thời hoàn thiện các sản phẩm du lịch khám chữa bệnh, nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của loại hình du lịch khám chữa bệnh”.
1.1.2. Đặc điểm của du lịch khám chữa bệnh
1.1.2.1. Đối tượng của du lịch khám chữa bệnh
- Nhóm đối tượng thứ nhất là những người đang mang những bệnh lý nhất định,
không phân biệt giới tính và lứa tuổi.
- Nhóm đối tượng thứ hai là nhóm đối tượng do chịu nhiều sức ép của cuộc sống, của


cơng việc và có trạng thái sức khoẻ khơng tốt, cần có thời gian nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
- Nhóm đối tượng thứ ba là nhóm đối tượng có nhu cầu tăng cường sức khoẻ, thử
thách sức mình.
1


- Nhóm đối tượng thứ tư là nhóm đối tượng có mục đích cải thiện tình trạng sức khoẻ
hay hình thức ngoại hình như các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, làm đẹp, thẩm mỹ và
tập trung chủ yếu là các phụ nữ trẻ.
- Nhóm đối tượng thứ năm là nhóm đối tượng người cao tuổi đã nghỉ hưu.
1.1.2.2. Các hình thức của du lịch khám chữa bệnh
- Hình thức thứ nhất, hồn tồn với mục đích trị bệnh.
- Hình thức thứ hai, có mục đích nghỉ dưỡng, hồi phục và phịng bệnh.
- Hình thức thứ ba, có mục đích làm đẹp, hồi phục sức khoẻ, tránh hoặc bỏ những thói
quen xấu có hại cho sức khoẻ.
- Hình thức thứ tư, gần tương tự như loại hình du lịch bình thường nhưng với mục
đích xả stress giảm áp lực trong cuộc sống, chăm sóc sắc đẹp.
- Hình thức thứ năm, có mục đích chính là tăng cường sức khoẻ.
1.1.3. Ý nghĩa kinh tế - xã hội của phát triển du lịch khám chữa bệnh
1.1.3.1. Ý nghĩa kinh tế
- Giúp thúc đẩy phát triển kinh tế
- Thúc đẩy ngành du lịch phát triển mạnh đặc biệt những nơi du lịch chữa bệnh phát
triển
- Giúp ngành du lịch dậ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
1.1.3.2. Ý nghĩa xã hội
- Nâng cao chất lượng phực vụ
- Đáp ứng nhu cầu thannquan nghỉ dưỡng của khách du lịch
- Tận dụng được tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực dồi dào
- Nâng cao trách nghiệm của người dân trong việc bảo tồn văn hoá
1.2. NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN DU LỊCH KHÁM CHỮA BỆNH

1.2.1. Phát triển quy mô khám chữa bệnh
1.2.1.1.

Phát triển các điểm du lịch kết hợp với khám chữa bệnh

Du lịch kết hợp khám chữa bệnh đang là hướng đi mới cho du khách, là dịch vụ
rất được ưa chuộng hiện nay. Vừa giúp khách hàng tiết kiệm được chi phí lại vừa chọn
được dịch vụ uy tín.

2


Đây là yếu tố quan trọng để thu hút sự di chuyển của khách đến với điểm du lịch
khám chữa bệnh, qua đó đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh của khách
du lịch.
1.2.1.2. Phát triển lượng du khách du lịch kết hợp khám chữa bệnh
Gia tăng doanh thu phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có liên quan tới số
lượng du khách tới địa phương.
Theo Tuần báo Đầu tư Việt Nam, tính đến nay, hơn 80.000 người nước ngoài
đã đến Việt Nam để khám chữa bệnh và điều trị y tế. Các du khách này đã đóng góp
hơn 1 tỷ USD vào nguồn thu của Việt Nam, giúp cho ngành y tế Việt Nam tăng trưởng
từ 18-20% mỗi năm.
Cùng với đó, theo dữ liệu của Tổng cục Thống kê, từ tháng 1-7/2019, trên 2,8
triệu lượt khách du lịch Trung Quốc đã đến Việt Nam, trong khi lượng khách du lịch
Hàn Quốc cũng tăng 22%, lên hơn 2,4 triệu lượt, so với cùng kỳ năm 2018. Trung
Quốc và Hàn Quốc là 2 nguồn khách du lịch hàng đầu tới Việt Nam.
Công ty tư vấn kinh doanh Dezan Shira & Associates cũng cho hay, ở những
điểm nghỉ mát ven biển như Phú Quốc và Đà Nẵng, các khu nghỉ dưỡng đã “tìm cách
kết hợp cơ sở vật chất để đáp ứng hiệu quả hơn cho du lịch y tế”.
Ơng Ralf Matthaes, người sáng lập Cơng ty nghiên cứu thị trường Infocus

Mekong Research ở TP. Hồ Chí Minh cho rằng nha khoa đang thu hút “các đoàn” du
khách Australia trong khi phẫu thuật thẩm mỹ thu hút người Hàn Quốc. Một số bác sỹ
nha khoa tốt nghiệp ở nước ngoài đã trở về làm việc ở Việt Nam, trong khi nhiều bác
sĩ phẫu thuật thẩm mỹ là người Hàn Quốc thường trú ở Việt Nam.
Theo lời Giám đốc điều hành của Cơng ty cổ phần chứng khốn SSI Mike
Lynch, chi phí nha khoa ở Việt Nam chỉ bằng 1/10 so với ở Bắc Mỹ và chất lượng của
các bác sĩ đang dần được nâng cao. Ông Lynch dự báo rằng, các công ty dịch vụ y tế
khu vực cuối cùng sẽ thành lập văn phòng tại Việt Nam, nếu họ chưa có mặt ở đây
2. Phát triển các nguồn lực phục vụ du lịch khám chữa bệnh
2.1. Phát triển nguồn tài nguyên phục vụ du lịch khám chữa bệnh
Phát triển nguồn tài nguyên du lịch khám chữa bệnh bao gồm:
- Đất nước ta có tài nguyên thiên nhiên phong phú phục vụ cho các loại hình du lịch
chữa bệnh và nghỉ dưỡng nhằm phục hồi sức khỏe cho con người. Từ cuối thế kỷ thứ
3


XIX - đầu thế kỷ XX, người Pháp đã khảo sát và xây dựng nhiều khu nghỉ dưỡng và
chữa bệnh dựa vào khí hậu và địa hình, đó là các khu nghỉ dưỡng ở vùng núi như:Tam
Đảo, Sa Pa(Miền Bắc), Bạch Mã, Bà Nà(Miền Trung), Đà Lạt(Miền Nam)..;Với trên
3.000km bờ biển với những bãi cát trải dài, nước biển ở một số vùng có tác dụng chữa
bệnh cao.Những khu nghỉ dưỡng và chữa bệnh ở vùng biển như: Đồ Sơn(Hải
Phòng);Sầm Sơn(Thanh Hóa),Nha Trang(Khánh Hịa), Vũng Tầu(Bà Rịa-Vũng Tầu),
đã được hình thành từ đầu thế kỷ XĨ…v.v.Tất cả những nơi này đã trở thành các khu
vừa nghỉ dưỡng, vừa chữa một số bệnh bằng khí hậu và nước biển kết hợp cùng ăn,
uống, thể thao và một số trị liệu khác.
- Đối với nguồn nước khống nóng, người dân nước ta đã coi như một loại thuốc chữa
bệnh từ xa xưa. Đến nay, ngành địa chất của nước ta đã phát hiện khoảng 400 nguồn
nước khống nóng trên cả nước, trong đó đã điều tra, nghiên cứu và phân tích 287
nguồn và phân thành 11 loại khác nhau, vừa có tác dụng chữa bệnh, vừa có thể khai
thác thành nước uống đóng chai phục vụ cho đời sống con người.

Với 11 loại nước khoáng đã được phát hiện, Việt Nam là nơi hội tụ của hầu hết các
loại nước khống chính được biết trên thế giới, nước khoáng của Việt Nam được mở
rộng chữa trị đối với nhiều loại bệnh khác nhau. Ngoài sự đáp ứng yêu cầu chữa bệnh
tập trung tại các bệnh viện và trung tâm điều dưỡng, nhiều nguồn nước khống có
chất lượng tốt (độ khống hố vừa phải, có vị ngon, chứa nhiều ngun tố có ích, ...)
có thể đóng chai thành dược phẩm hoặc thực phẩm chức năng bán ra thị trường, phục
vụ rộng rãi người tiêu dùng, ví dụ: nước khống fluor - dùng để phịng bệnh sún răng,
xốp xương, nước khống iod – phịng chống bệnh bướu cổ, nước khống cacbonic Cr
- có lợi cho đường tiêu hố, .... Ngồi ra, cũng phải kể đến một nguồn tài nguyên quý
thường đi kèm với nước khống - đó là những tích tụ bùn khống hình thành tại nơi có
nguồn nước khống, có tác dụng chữa bệnh rất tốt bằng các liệu pháp chườm đắp,
ngâm vùi, ... đồng thời có thể chế biến thành hàng mỹ phẩm (kem dưỡng da). Loại
bùn này rất phong phú ở các nguồn nguồn nước khống như: Bình Châu, Đảnh Thạnh,
Nghĩa Thuận, ... Có nhiều nguồn nước khống nằm trùng với những danh lam, thắng
cảnh, di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng, có thể khai thác phục vụ du lịch chữa bệnh,
kết hợp du lịch sinh thái.

4


- Khí hậu và thổ nhưỡng ở nước ta đã tạo ra rất nhiều các loại cây, hoa, quả có tác
dụng chữa bệnh. trải qua quá trình phát triển của lịch sử, nền Y học cổ truyền nước ta
đã đạt được những bước tiến đáng kể. Trên cơ sở tiếp thu tinh hoa y học phương Đông
mà cụ thể là từ Y học cổ truyền Trung Quốc, cha ông ta đã xây dựng các phương pháp
chẩn đoán và điều trị để vận dụng trong việc khám, chữa bệnh cũng như phòng bệnh
phù hợp với con người.
Đây là một tài sản quý giá và là một cơ sở vững chắc cho việc phát triển loại hình du
lịch chữa bệnh bằng y học cổ truyền trong tương lai.
2.2. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch khám chữa bệnh
Phát triển nguồn nhân lực du lịch khám chữa bệnh bao gồm cả phát triển về số

lượng và nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực du lịch khám chữa bệnh.
Gắn liền với y tế cơ sở, các năm gần đây đã xây dựng được thêm nhiều các trung tâm
y tế chuyên sâu và từng bước được xây dựng và phát triển ở các thành phố lớn như Hà
Nội, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, TP. HCM. Nhiệm vụ của các trung tâm y tế chuyên
sâu là từng bước mở rộng các chuyên khoa đầu ngành và giúp chuyển giao kỹ thuật
cho tuyến dưới.
Bên cạnh việc chú trọng xây dựng cơ sở vật chất thì hầu hết các bệnh viện,
trung tâm y tế được trang bị các thiết bị y tế hiện đại.
Các thầy thuốc của Việt Nam hiện nay đã làm chủ được rất nhiều kỹ thuật điều trị cao
như: kỹ thuật làm răng, thụ tinh trong ống nghiệm, ghép gan, ghép thận, ghép tim,
chữa khớp, mổ nội soi, phẫu thuật mắt, điều trị đột quỵ…. Cũng chính sự phát triển về
kỹ thuật y tế đó mà đã thu hút được nhiều Việt Kiều, người nước ngoài điều trị tại
nước ta.
Việt nam được cơng nhận một trong số ít các quốc gia làm chủ được công nghệ
sản xuất vắc xin, tự nghiên cứu sản xuất vắc xin như: vắc xin cúm mùa 3 type được
sản xuất và đủ điều kiện thương mại hóa, ứng dụng công nghệ sinh học vào sàng lọc
và chẩn đoán phát hiện nhanh các tác nhân gây ra sốt xuất huyết, sởi… tiền đề để
kiểm sốt tốt tình trạng dịch bệnh bùng phát.
Với đội ngũ nhân viên, bác sĩ dày dặn kinh nghiệm, là những tiến sĩ giáo sư có
trình độ, hiểu biết. Khiến việc thăm, khám chữa bệnh có thể thực hiện dễ dàng, nhanh
chóng, đạt hiệu quả cao. Bệnh sẽ được chữa dứt điểm và hạn chế tái phát nhờ công
5


nghệ chữa bệnh tiên tiến, trang thiết bị bệnh viện hiện đại, dịch vụ chăm sóc y tế thuộc
loại tốt nhất. Nếu như có bất kì biến chứng nào đều sẽ có đội ngũ bác sĩ tư vấn hỗ trợ
nhiệt tình từ xa hữu hiệu, dựa vào hồ sơ bệnh án của bạn dã tạo điều kiện thuận lợi để
Việt Nam phát triển du lịch khám chữa bệnh .
2.3. Phát triển các hình thức du lịch chữa bệnh
Việt Nam có nhiều lợi thế cả về điều kiện tài nguyên, khí hậu, con người và

truyền thống y học để định hình và phát triển những dịch vụ mới, hiện đại, chất lượng
cao và đa tiện ích, trong đó có các sản phẩm du lịch kết hợp làm đẹp, khám chữa bệnh
và nghỉ dưỡng.
Sản phẩm độc đáo của du lịch y tế Việt Nam là việc chăm sóc sức khỏe, chữa
bệnh dựa trên nền tảng khai thác tinh hoa y học phương Đông, lấy châm cứu làm chủ
đạo, đây là tiềm năng lớn về sản phẩm du lịch chữa bệnh ở Việt Nam không thể bỏ
qua, các kỹ thuật châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, vật lý trị liệu đã được cả thế giới biết
đến với những ưu thế rõ nét. Bệnh viện châm cứu Việt Nam có khả năng chữa khỏi 53
bệnh lý, giá cả dịch vụ y tế thấp và hấp dẫn. Do đó chỉ cần làm tốt khâu quảng bá thì
việc du lịch chữa bệnh Việt Nam phát triển mạnh là điều chắc chắn trong tương lai
gần. Những du khách sau khi tham gia vào các tour du lịch chữa bệnh tại Việt Nam về
cơ bản đều có phản hồi tốt, đặc biệt là những phản hồi dành cho dịch vụ y tế của bệnh
viện châm cứu Trung ương. Du khách nước ngồi rất thích được bắt mạch, trị liệu
theo phương pháp cổ truyền phương Đơng.
Bên cạnh đó, trong những năm qua ngành răng hàm mặt Việt Nam đã thu hút
hàng chục nghìn lượt khách nước ngồi đến điều trị bệnh mỗi năm. Ðây là kết quả của
những nỗ lực triển khai thành công nhiều kỹ thuật mới, chuyên sâu, hiện đại, ngang
tầm khu vực và thế giới, như: Phẫu thuật hàm mặt và sọ mặt; phẫu thuật chỉnh hình
xương hàm mặt; cấy ghép nha khoa và nhiều lĩnh vực chuyên sâu nha khoa khác. Việt
Nam đã nghiên cứu, ứng dụng trong dự phòng và điều trị bệnh với kỹ thuật, trình độ
chun mơn cao tại các bệnh viện trung ương, tỉnh và huyện, như: Can thiệp tim
mạch, thụ tinh ống nghiệm, phẫu thuật nội soi, ghép tạng, ghép tế bào gốc đồng loại,
ứng dụng rô-bốt định vị trong phẫu thuật cột sống và nội soi nhi khoa.
Theo nhận định chung của các hãng lữ hành cũng như chuyên gia trong ngành
Du lịch, Việt Nam có một nền y học cổ truyền lâu đời với nhiều bác sỹ giỏi. Trong đó,
6


liệu pháp chữa bệnh khơng dùng thuốc (châm cứu, khí công, yoga) hay chữa bệnh
bằng thuốc nam đang dần được du khách trong và ngoài nước biết đến. Tuy nhiên, để

duy trì và phát triển tinh hoa này của dân tộc trở thành loại hình du lịch kết hợp chữa
bệnh rất cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư, của các cấp, các ngành.
Trong số các loại hình chữa bệnh theo phương pháp cổ truyền, châm cứu là một
trong những thế mạnh của nền y học dân tộc Việt Nam và được nhiều du khách biết
đến nhất tính đến thời điểm hiện tại. Việt Nam đã có các trung tâm châm cứu lớn như
Bệnh viện Châm cứu Trung ương, Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương (đều ở Hà
Nội), Viện Y dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh.
Bên cạnh việc mở những tour du lịch khám chữa bệnh bằng đơng y như châm
cứu, luyện khí cơng thì Việt Nam cũng có điều kiện để khai thác và thực hiện những
tour du lịch nghỉ dưỡng kết hợp chữa bệnh rất lớn tại những khu du lịch nước khống
nóng trải dài từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên, thời gian du khách lưu trú tại những điểm
nghỉ dưỡng này lại rất thấp, thường họ chỉ lưu lại một vài giờ nên hiệu quả kinh tế
chưa cao. Theo như lời chia sẻ của giám đốc kinh doanh một doanh nghiệp du lịch ở
Hà Nội chuyên kinh doanh loại tour du lịch chữa bệnh tại nước ngoài: “Du lịch chữa
bệnh của Việt Nam hiện nay còn yếu so với các nước trong khu vực. Các bác sỹ nước
ngồi ai cũng nói được tiếng Anh trơi chảy, tư vấn tận tình, ln đặt y đức lên hàng
đầu. Nhân viên phục vụ rất chuyên nghiệp. Các địa chỉ khám chữa bệnh hiện đại, lịch
sự. Còn ở Việt Nam hiện thiếu tất cả các điều trên”.
Tháng 11/2006, Chương trình du lịch châm cứu nâng cao sức khỏe và chữa
bệnh đã trình làng đầu tiên trên thị trường du lịch. GS. Nguyễn Tài Thu đã lập đề án
và trực tiếp triển khai. Đây là chương trình ứng dụng tinh hoa y dược học dân tộc,
khai thác phong thủy và văn hóa Việt Nam trong việc chăm sóc, nâng cao sức khỏe và
chữa bệnh cho khách du lịch. Hiện nay, một số du khách nước ngoài chủ yếu đến từ
Thụy Điển, Australia, Đức... mới chỉ biết đến tên tuổi thầy thuốc nhân dân Nguyễn Tài
Thu, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực châm cứu chữa bệnh. Ông đã kết hợp
với Tập đoàn Y học Quốc tế Du lịch, NTT Acupuncture Medical Tourism International
Group (Thụy Điển), quảng bá, tổ chức các tour du lịch châm cứu kết hợp khí cơng để
chữa bệnh tại Việt Nam khi du khách đến Việt Nam. Tuy nhiên, với số lượng vài trăm

7



khách mỗi năm thì doanh thu từ loại hình du lịch chữa bệnh tại Việt Nam cũng không
đáng kể.
Nằm ở thôn Trại Hồ (Sơn Tây, Hà Nội), khu du lịch chữa bệnh Bảo Long thuộc Tập
đoàn Y Dược Bảo Long kết cấu theo mơ hình du lịch kết hợp khám chữa bệnh rất
được yêu thích hiện nay. Du khách được trực tiếp tham quan vườn trồng các cây thuốc
quý hiếm, nơi bào chế thuốc, siêu thị thuốc chứa hàng ngàn sản phẩm Đông dược...
Bên cạnh việc thu hút khách du lịch tới Việt Nam kết hợp khám chữa bệnh theo
phương pháp cổ truyền, trong vài năm trở lại đây Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã xây
dựng một số bệnh viện lớn, trang bị hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế và kinh doanh
theo mơ hình của các bệnh viện trong khu vực để thu hút khách từ các nước lân cận
như Lào, Campuchia...
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến du lịch khám chữa bệnh
1.Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý ảnh hưởng đến quyết định chọn địa điểm khám chữa bệnh, nghỉ
dưỡng của du khách:
• Việt Nam là một quốc gia nằm ở rìa phía đơng Bán đảo Đơng Dương, trung
tâm khu vực Đơng Nam Á, thuận lợi cho việc đi lại
• Giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia, nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa,
dân tộc
• Đường bờ biển dài 3260km, có nhiều bãi biển, bờ biển đẹp thuận lợi cho nghỉ
dưỡng
1.2. Địa hình
Địa hình càng đa dạng, tương phản và độc đáo càng có sức hấp dẫn du khách,
đặc biệt là khách du lịch khám chữa bệnh và nghỉ dưỡng
• Việt Nam có địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng vừa có núi, có cao ngun,
bán bình ngun…
• Địa hình đồi núi là nền tảng cho hình thành các cảnh quan tự nhiên

• Miền núi có điều kiện để phát triển du lịch tham quan nghỉ dưỡng
• Do cấu tạo của địa hình, Việt Nam có những vùng tiểu khí hậu, có nơi có khí
hậu ơn đới như Sapa, Đà Lạt phù hợp phát triển du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh
8


• Địa hình bờ biển dài thích hợp du lịch sức khỏe, nghỉ dưỡng.
1.3. Khí hậu
Khí hậu là một trong những yếu tố có vai trị quan trọng nhất trong việc xây
dựng các khu nghỉ dưỡng, các khu chữa bệnh.
• Điều kiện khí hậu thuận lợi làm cho con người có sức khỏe dồi dào, tinh thần
thoải mái, hiệu quả làm việc cao rất thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng, du lịch chữa
bệnh.
• Địa điểm u thích đối với các du khách tham gia hoạt động nghỉ dưỡng
thường là những nơi có khí hậu mát mẻ, trong lành.
• Có khí hậu thích hợp với sức khỏe, ít nhất trên 3 tháng trong năm khí hậu trong
lành, mát mẻ, khí hậu thích hợp với từng loại nhu cầu điều trị bệnh, đặc biệt như ở
miền biển, miền núi …
• Dựa trên các nguyên tắc sử dụng các yếu tố khí hậu tự nhiên ở các vùng các
khác nhau, đã đưa ra một số phương pháp chữa bệnh căn bản qua các kì nghỉ dưỡng,
điều dưỡng dài ngày cho người bệnh.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự phát triển của du lịch có thể kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác,
nhưng bên cạnh đó bản thân du lịch cũng lệ thuộc vào các ngành này về nhiều mặt
• Với một thị trường du lịch có tốc độ phát triển cao và ngày càng được khách quốc tế
tìm đến như Việt Nam chỉ riêng kết hợp khám chữa bệnh và nghỉ dưỡng chất lượng
cao cho khách hàng có nhu cầu và khả năng thanh tốn đã là một cơ hội tạo nguồn thu
lớn cho đất nước, mặt khác cũng đem tới động lực mới cho ngành y tế nước nhà vươn
lên, hướng tới một hệ thống dịch vụ tích hợp tiện ích, chuyên nghiệp, hiệu quả và
khác biệt, chất lượng cao, bác sĩ giỏi và tận tâm, được "tính đủ, thu đủ" theo chuẩn

quốc tế, lấy sự hài lòng của người bệnh làm mục tiêu và thước đo đánh giá cao nhất.
Ðồng thời, xây dựng hệ thống thơng tin cập nhật, rõ ràng, chính xác danh mục địa chỉ
và giá cả những dịch vụ y tế chất lượng cao; tổ chức những hoạt động xúc tiến du lịch
- y tế rộng rãi cả trong nước và ngoài nước một cách chuyên nghiệp.
• Bên cạnh việc thu hút khách du lịch tới Việt Nam kết hợp khám chữa bệnh theo
phương pháp cổ truyền, trong vài năm trở lại đây Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã xây

9


dựng một số bệnh viện lớn, trang bị hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế và kinh doanh
theo mơ hình của các bệnh viện trong khu vực để thu hút khách từ các nước lân cận .
3.Tài nguyên du lịch khám chữa bệnh
3.1.Tài ngun nước khống và nước nóng
- Theo các nhà nghiên cứu “ Nước khoáng là loại nước thiên nhiên có thành phần và
tính chất đặc biệt , như chứa một số hợp phần muối-ion, khí , chất hữu cơ với hàm
lượng lớn , nhiệt độ và tính phóng xạ cao …có hoạt tính sinh học nên có tác dụng
chữa bệnh hoặc tác động tốt đến sức khỏe con người.
- Có thể nói Việt Nam có nhiều điều kiện nhiều thuận lợi để phát triển loại hình du
lịch chữa bệnh với nhiều địa điểm vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là nơi nghỉ dưỡng lí
tưởng như Sapa, Đà Lạt, Bãi Cháy, Cửa Lò, Nha Trang… nhiều mỏ bùn khoáng, suối
khoáng vừa được sử dụng làm nước uống, nước giải khát, vừa đáp ứng nhu cầu nghỉ
dưỡng, chữa bệnh của con người như Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu), Tháp Bà (Nha
Trang), Kim Bơi (Hịa Bình),
- Nơi có nguồn nước khoáng và được đưa vào khai thác du lịch chữa bệnh tại Việt
Nam:


Suối nước khống nóng Tiên Lãng – Hải Phịng




Suối nước khống nóng Kim Bơi – Hịa Bình



Suối nước khống nóng Kênh Gà – Ninh Bình



Suối nước khống nóng Quang Hanh – Quảng Ninh



Suối nước khống nóng Bình Châu – Bà Rịa Vũng Tàu

3.2. Tài nguyên cây thuốc
Tài ngun cây thuốc đóng vai trị quan trọng trong chăm sóc sức khỏe, chữa
bệnh, đặc biệt ở các nước nghèo, đang phát triển và có truyền thống sử dụng cây cỏ
làm thuốc.
Ngày nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam việc chăm sóc sức khỏe, chữa
bệnh cho con người vấn phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc biệt
là những lồi cây có giá trị sử dụng làm thuốc có sẵn trong tự nhiên.
Xã hội đang có nhu cầu rất lớn trong việc sử dụng các bài thuốc nam và đồng tây y kết
hợp để phục vụ chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh... Tài nguyên cây thuốc mang lại
nhiều giá trị về kinh tế, khoa học và môi trường.
10


Với nguồn tài nguyên dược liệu phong phú, cùng với vốn kinh nghiệm chữa

bệnh của cộng đồng, các dân tộc người Việt chính là tiềm năng to lớn để nghiên cứu,
chiết xuất các hoạt chất và tạo ra những loại thuốc mới từ dược liệu có hiệu lực chữa
bệnh cao.
Đa dạng sinh học cây thuốc mở ra triển vọng cho việc phát triển những loại
thuốc mới, mang lại một tương lai đầy hứa hẹn cho việc chăm sóc sức khoẻ, 4. Nhu
cầu du lịch kết hợp khám chữa bệnh
Nhu cầu về chữa bệnh trị bệnh, phục hồi sức khỏe và sự phát triển toàn diện thể
chất, tinh thần của mỗi thành viên xã hội đã trở thành động lực thúc đẩy mọi người
tìm kiếm và sử dụng các phương tiện thỏa mãn nhu cầu đó .
Đây là xu thế phổ biến hiện nay vì điều này tiết kiệm được thời gian, tiền bạc,
phù hợp với những người quá bận rộn với công việc mà chưa quan tâm đúng mực đến
sức khỏe hoặc đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh mà nền y tế ở nước sở tại chưa đáp
ứng được. Du lịch kết hợp khám chữa bệnh còn tạo tâm lý an tồn vì đội ngũ bác sĩ có
tay nghề cao. Hơn nữa, trong lúc điều trị thì bạn cịn được thưởng thức ẩm thực địa
phương, tìm hiểu văn hóa bản địa, nâng cao trải nghiệm cho bản thân và có tinh thần
thoải mái sau kỳ nghỉ dưỡng. Những sản phẩm du lịch sức khỏe phổ biến trên thế giới
hiện nay là du lịch nghỉ dưỡng đi kèm tham gia các khóa tập thể dục dưỡng sinh,
thiền, yoga, spa, tắm khống nóng phục hồi sức khỏe, cai thuốc lá, giảm cân…
Mỗi năm cũng có tới hơn 14 triệu lượt người tìm kiếm thơng tin của các
chương trình, các tour du lịch y tế tại các nước châu Á, châu Âu và cả Châu Mỹ. Theo
số liệu công bố của Bộ Y tế Việt Nam, chỉ riêng năm 2014, Việt Nam đã ghi nhận tới
hơn 50.000 trường hợp bệnh nhân ra nước ngoài khám và điều trị bệnh kết hợp du lịch
với tổng chi phí lên tới hơn 2 tỉ đơ la Mĩ. Những con số biết nói ấy đã minh chứng cho
sức lan tỏa và sự phổ biến rộng rãi đang ngày càng phát triển của loại hình du lịch này.
Du lịch chữa bệnh đang trở thành xu hướng du lịch “hot” nhất hiện nay không
chỉ của riêng giới trẻ tại các nước Châu Á mà của toàn thế giới. Với hình thức du lịch
mới này, các du khách sẽ nhận được nhiều tiện ích, được thăm quan, vui chơi giải trí
và khám chữa bệnh với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tồn diện và hiện đại ở các
quốc gia lớn trên thế giới.


11


IV. Du lịch khám chữa bệnh trên thế giới và thành phố Hồ Chí Minh
• Du lịch khám chữa bệnh tại 1 số nước phát triển trên thế giới:
+ Hàn Quốc:
Trong nhiều năm qua, mọi người đều biết đến sự phát triển vượt bậc của nền
kinh tế Hàn Quốc, xứ sở kim chi đã vươn lên thành một trong những cường quốc kinh
tế của châu lục, là một con rồng chi phối sự phát triển chung của nền kinh tế châu Á.
Chính nhờ vào sự phát triển vượt bậc về kinh tế, Hàn Quốc cũng có nhiều điều kiện
hơn để đầu tư phát triển khoa học cơng nghệ, trong đó có các cơng nghệ phục vụ phát
triển y tế và du lịch khám chữa bệnh tại Hàn Quốc.
Tại Hàn Quốc, y tế luôn được xem là ưu tiên hàng đầu. Chính phủ Hàn Quốc ln chú
trọng đầu tư trong việc hiện đại hóa các cơ sở y tế, cơ sở khám chữa bệnh cho người
dân, trang bị các thiết bị, máy móc hiện đại bậc nhất cho q trình khám và chữa
bệnh, không những thế Hàn Quốc luôn là quốc gia đi đầu trong việc nghiên cứu, tìm
ra các phương án điều trị bệnh mới, mang lại hiệu quả cao như phẫu thuật thẩm mỹ,
chữa ung thư, chữa vô sinh, … và các loại bệnh hiểm nghèo khác.
Đất nước này có dịch vụ y tế tiên tiến, cung cấp cho khách hàng tất cả hình
thức khám chữa bệnh hiện đại, kết hợp giữa Đông và Tây y. Đặc biệt, các gói phẫu
thuật thẩm mỹ ngắn ngày ở Hàn Quốc đang được ưa chuộng. Theo thống kê, hàng
năm, khoảng 270.000 bệnh nhân nước ngoài tới Hàn Quốc để du lịch khám chữa
bệnh, khám sức khỏe và điều trị kết hợp với du lịch, mua sắm.
Do du lịch kết hợp với y tế cịn mang tính chất dịch vụ nên tại Hàn Quốc, mỗi
bác sĩ, y tá đều được đào tạo như một nhân viên chăm sóc khách hàng. Họ khơng chỉ
giỏi về chun mơn, giao tiếp mà cịn rất thành thạo ngoại ngữ, để bạn yên tâm sử
dụng dịch vụ. Bên cạnh đó, trang thiết bị, dịch vụ chăm sóc trước và sau phẫu thuật và
các chuyến dã ngoại chữa bệnh cũng được cung cấp trọn gói, tiện lợi.
Là một nước phát triển về công nghệ thông tin (CNTT), Hàn Quốc cung cấp
các dịch vụ du lịch y tế một cửa với thông tin trực tuyến đa dạng. Các dịch vụ đăng tải

trực tuyến được cung cấp với ba thứ tiếng (tiếng Anh, tiếng Nhật và tiếng Hoa giản
thể) trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Du lịch Hàn Quốc (KTO) có địa chỉ
www.visitkorea.or.kr. Trang thơng tin điện tử này cung cấp hướng dẫn từng bước về
12


du lịch y tế ở Hàn Quốc, thông tin về việc tham gia khám tại các tổ chức y tế và tư vấn
trực tuyến.
Nếu du khách muốn được nhận thông tin về du lịch y tế ngay khi đặt chân đến
Hàn Quốc, hãy tìm đến Trung tâm Thơng tin Du lịch Y tế tại Sân bay Quốc tế
Incheon. Tại đó có khu vực nghỉ ngơi, thơng tin về các tổ chức y tế, cơ quan lữ hành
và truy cập mạng internet miễn phí. Nếu ở Seoul, hãy đến Trung tâm Xúc tiến Du lịch
Y tế ở tầng trệt tòa nhà của Tổ chức Tổng cục Du lịch Hàn Quốc để có được những tư
vấn y tế chuyên nghiệp. Tại đây, bạn du khách cũng có thể sử dụng máy đo chỉ số khối
cơ thể (BMI), thiết bị đo stress, và máy đo huyết áp miễn phí.
Các du khách quốc tế có kế hoạch nằm viện ở Hàn Quốc để điều trị y tế, phục
hồi sức khỏe hoặc những thành viên trong gia đình muốn đến Hàn Quốc để chăm sóc
cho bệnh nhân được cấp visa G-1. Nhằm cải thiện hơn nữa các dịch vụ y tế, Hàn Quốc
đang nỗ lực áp dụng các biện pháp khác nhau như đào tạo các điều phối viên du lịch y
tế chuyên nghiệp ở cấp quốc gia.
+ Nhật Bản:
Theo ước tính của chính phủ Nhật, năm 2020 sẽ có khoảng 430.000 người đến Nhật
Bản cho mục đích du lịch chữa bệnh. Quy mơ thị trường ước đạt 550 tỷ yên, tương
đương 5 tỷ đô la Mỹ. Đây là một con số vô cùng ấn tượng mà bất cứ nền kinh tế nào
cũng mong muốn. Chính vì lẽ đó, chính phủ và ngành y tế Nhật đang có những bước
tiến lớn trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và các nền tảng y tế để đáp ứng được nhu
cầu ngày càng tăng của du khách, xứng là điểm đến tin cậy cho chương trình du lịch
khám chữa bệnh.
- Bộ Kinh Tế và cục Du Lịch đang kết hợp để tổng điều tra về thị trường, để lập thành
phương án phát triển toàn diện thị trường du lịch khám bệnh tại Nhật.

- Các công ty lữ hành top đầu của Nhật Bản như tập đoàn JTB, tập đoàn Nankai,
Nipponryoko… đã mở bán các tour du lịch khám bệnh và chuẩn bị thêm các cơ sở vật
chất liên quan đến y tế để phục vụ khách hàng.
Các hãng bảo hiểm đã mở bán các gói bảo hiểm tai nạn cho khách nước ngoài, đặt
trung tâm là các bảo hiểm tai biến y khoa.
-Bộ Kinh Tế của Nhật đã thành lập tổ chức Medical Excellence Japan (MEJ) để
chuyên lo về nghiệp vụ inbound hỗ trợ các khách du lịch chữa bệnh.
13


- Bộ Hậu Sinh Lao Động đã đề xuất Chế độ chứng nhận cơ quan y tế cho những nơi
đủ điều kiện cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng để nhận khám chữa bệnh cho khách du
lịch nước ngoài.
- Tổ chức MEJ đã đề xuất chứng nhận Bệnh Viện Quốc Tế Nhật Bản để cấp cho
những bệnh viện có thành quả thực thụ trong việc chữa trị cho khách nước ngoài.
- Tất cả các du khách sang Nhật bản du lịch kết hợp với khám chữa bệnh có thể hồn
tồn n tâm vì đây là loại hình tiết kiệm và rất hiệu quả, việc ăn ở được đảm nhiệm
tốt nhất, đồng thời sẽ có người thường xuyên chăm sóc thăm hỏi, kiểm tra sức khỏe
mà đáp ứng nhu cầu của du khách trong thời gian lưu trú tại Nhật Bản. Khi đi du lịch
chữa bệnh tại Nhật Bản thì có thể trải nghiệm được sản phẩm khám bệnh cho chính
bản thân mình tại một đất nước có nền y học tiên tiến. Tiện ích cho các bệnh nhân là
rất cao vì khi có nhu cầu điều trị bệnh nhanh và sớm thì việc có một chuyến đi để du
lịch kết hợp khám bệnh vừa tiết kiệm được kinh phí vừa có thể thưởng thức được
những nhu cầu mong muốn thiết yếu của quý khách.
+ Malaysia:
Malaysia đã đạt được một bước tiến lớn trong hơn một thập kỷ qua trong lĩnh vực du
lịch y tế. Lịch sử phát triển du lịch y tế ở Malaysia bắt đầu sau khi thoát khỏi thuộc địa
nước Anh vào năm 1957. Qua hơn 60 năm, Malaysia đã cùng với Singapore và Thái
Lan đã lập nên một trong những kỷ lục tốt nhất ở châu Á về du lịch y tế, là những
quốc gia được xếp vào “top 10” các nước trên thế giới thu hút khách du lịch quốc tế,

MCM vừa cho hay.
-Hiện nay, Malaysia thật sự trở thành một trong những chọn lựa hàng đầu về điểm đến
của khách du lịch y tế trên thế giới. Du lịch y tế của Malaysia đã được cả thế giới biết
đến nhờ triển khai thành công chiến lược cạnh tranh điểm đến cho khách du lịch, đó là
cơ sở hạ tầng hiện đại với các chuyên gia y tế giỏi và giá cả cạnh tranh.
-Số lượng khách du lịch y tế nội địa của Malaysia trong năm 2017 đến 2018 liên tục
tăng từ 25.032.708 lên 27.437.315 lượt. Riêng khách du lịch y tế nước ngoài, trung
bình mỗi tháng có từ một đến hai triệu lượt trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến
2016. Du lịch y tế tại Malaysia đã có sự tăng trưởng đáng kể và cao nhất là vào năm
2014. Tuy nhiên, tỷ lệ khách du lịch y tế đã giảm xuống 3,7% trong năm 2015 (so với

14


năm 2014), nhưng điều này không làm thay đổi thực tế rằng Malaysia vẫn là một quốc
gia trong những điểm đến được tìm kiếm nhiều nhất cho du lịch y tế.
Malaysia thật sự bắt đầu thúc đẩy phát triển loại hình du lịch y tế từ sau cuộc khủng
hoảng tài chính xảy ra ở các nước Châu Á vào năm 1997, cuộc khủng hoảng này đã
làm hiệu suất của du lịch y tế giảm mạnh. Đến năm 1998, Chính phủ Malaysia bắt đầu
củng cố phát triển và quảng bá du lịch y tế, được xem là một phân nhánh mới của cả
hai lĩnh vực y tế và du lịch, với sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau cho du lịch y tế phát
triển, nhất là cạnh tranh “điểm đến” tạo sự hấp dẫn cho khách du lịch. Du lịch y tế tại
Malaysia được Bộ Y tế tạo điều kiện phát triển và giám sát.
-Chi phí khám, chữa bệnh tại Malaysia luôn thấp hơn các nước trong khu vực đang
triển khai du lịch y tế. Malaysia ln sẵn có các cơ sở khám, chữa bệnh với chất lượng
cao với giá phải chăng đã thu hút khách du lịch rời khỏi Singapore để chuyển sang
Malaysia, Singapore là nơi mà chi phí y tế thường tăng vọt mặc dù trải nghiệm của
bệnh nhân sau khi sử dụng các dịch vụ y tế tại Singapore luôn được đánh giá là hấp
dẫn nhất. Một ca phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với một chi phí được cho là
tương đối thấp tại một bệnh viện tư nhân ở Singapore là 14.000 USD, trong khi tại

Trung tâm y tế Mahkota ở Malaysia chỉ có giá 8.800 USD.
Kết nối ngành y tế và ngành du lịch, vận dụng hiệu quả cả 3 loại hình của du lịch y tế,
nhất là loại hình “Du lịch y tế Diaspora”: Bên cạnh việc đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại,
nâng cao chất lượng dịch vụ và giá thành cạnh tranh nhằm thu hút khách du lịch y tế
trong nước và quốc tế Malaysia đã vận dụng thành công loại hình du lịch y tế
Diaspora . Đó là thu hút khách du lịch y tế từ các nước Trung Đông đến với thương
hiệu Malaysia như một quốc gia Hồi giáo. Các cơ sở y tế đạt tiêu chí “halal” (Trung
tâm Du lịch Hồi giáo Malaysia - 2017), như đạt chứng nhận JAKIM ‘Halal Hub - một
chứng nhận cho nhiều ngành cơng nghiệp ở các nước Hồi giáo, trong đó có ngành du
lịch y tế.
Chứng nhận Halal là q trình xem xét đánh giá độc lập, khách quan của cơ quan/tổ
chức được cấp phép để xác nhận rằng những sản phẩm/dịch vụ cụ thể được đánh giá
không sử dụng các thành phần Haram (chất cấm theo quy định của luật Hồi giáo) và
điều kiện sản xuất/cung cấp dịch vụ đáp ứng yêu cầu của Kinh Qur’an và luật
Shari’ah và tiêu chuẩn Halal.
15


+ Thái Lan:
- Hiện nay, Thái Lan chính là lựa chọn du lịch chữa bệnh hàng đầu của du khách ở
nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Vừa qua, quốc gia này cũng đã công
bố việc nới lỏng các biện pháp hạn chế nhập cảnh trong thời kỳ dịch bệnh Covid- 19
tồi tệ xảy đến từ đầu năm. Theo đó, có 4 nhóm người được phép nhập cảnh vào Thái
Lan, trong đó có khách du lịch chữa bệnh và họ phải tuân theo mọi quy định cách ly,
phòng ngừa dịch bệnh.
- Với những người lựa chọn Thái Lan trong chuyến du lịch chữa bệnh cần phải có giấy
chứng nhận âm tính với virus SARS-CoV-2 và tuân theo quy định cách ly 14 ngày tại
bệnh viện. Trong thời gian hai tuần này, du khách sẽ được xét nghiệm Covid-19 và chỉ
cho phép đi cùng 3 người thân với điều kiện họ cũng tuân thủ quy định cách ly. Với
những trường hợp cần điều trị y tế gấp sẽ được phép nhập cảnh Thái Lan bất kỳ lúc

nào. Các bệnh viện tư được yêu cầu cung cấp danh sách bệnh nhân và phối hợp với
Bộ Ngoại giao kiểm soát du khách xuất nhập cảnh.
- Du lịch chữa bệnh luôn đóng góp nguồn thu đáng kể cho nền kinh tế Thái Lan. Hình
thức du lịch đặc biệt này hướng tới giới nhà giàu và siêu giàu đến từ Trung Quốc và
các nước trong khu vực. Theo thống kê của Bộ Y tế Thái Lan, năm 2019 ghi nhận mỗi
du khách đã chi trả trung bình 15.000 baht (khoảng 480 USD) cho mỗi liệu trình
chống lão hóa và phục hồi chức năng, 140.000 baht cho các bệnh về tim mạch,
300.000 baht cho điều trị xương khớp, cơ và dây chằng…
- Bộ Y tế Thái Lan dự kiến sẽ đón 160.000 ca điều trị y tế cho khách nước ngoài, thu
về số ngoại tệ tương đương 18 tỷ baht (khoảng 580 triệu USD) từ du lịch chữa bệnh.
Chương trình du lịch chữa bệnh tại Thái Lan sẽ cấp visa 60 ngày và gia hạn thêm 1
tháng trong trường hợp du khách sau khi đã cách ly và xét nghiệm đầy đủ.
2. Kinh nghiệm phát triển du lịch khám chữa bệnh ở nước ta.
Việt Nam có nhiều lợi thế cả về điều kiện tài nguyên, khí hậu, con người và
truyền thống y học để định hình và phát triển những dịch vụ mới, hiện đại, chất lượng
cao và đa tiện ích, trong đó có các sản phẩm du lịch kết hợp làm đẹp, khám chữa bệnh
và nghỉ dưỡng.
Sản phẩm độc đáo của du lịch khám chữa Việt Nam là việc chăm sóc sức khỏe,
chữa bệnh dựa trên nền tảng khai thác tinh hoa y học phương Đông, lấy châm cứu làm
16


chủ đạo, đây là tiềm năng lớn về sản phẩm du lịch chữa bệnh ở Việt Nam không thể
bỏ qua, các kỹ thuật châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, vật lý trị liệu đã được cả thế giới
biết đến với những ưu thế rõ nét. Bệnh viện châm cứu Việt Nam có khả năng chữa
khỏi 53 bệnh lý, giá cả dịch vụ y tế thấp và hấp dẫn. Do đó chỉ cần làm tốt khâu quảng
bá thì việc du lịch chữa bệnh Việt Nam phát triển mạnh là điều chắc chắn trong tương
lai gần. Những du khách sau khi tham gia vào các tour du lịch chữa bệnh tại Việt Nam
về cơ bản đều có phản hồi tốt, đặc biệt là những phản hồi dành cho dịch vụ y tế của
bệnh viện châm cứu Trung ương. Du khách nước ngoài rất thích được bắt mạch, trị

liệu theo phương pháp cổ truyền phương Đơng.
Bên cạnh đó, trong những năm qua ngành răng hàm mặt Việt Nam đã thu hút
hàng chục nghìn lượt khách nước ngoài đến điều trị bệnh mỗi năm. Ðây là kết quả của
những nỗ lực triển khai thành công nhiều kỹ thuật mới, chuyên sâu, hiện đại, ngang
tầm khu vực và thế giới, như: Phẫu thuật hàm mặt và sọ mặt; phẫu thuật chỉnh hình
xương hàm mặt; cấy ghép nha khoa và nhiều lĩnh vực chuyên sâu nha khoa khác. Việt
Nam đã nghiên cứu, ứng dụng trong dự phịng và điều trị bệnh với kỹ thuật, trình độ
chun môn cao tại các bệnh viện trung ương, tỉnh và huyện, như: Can thiệp tim
mạch, thụ tinh ống nghiệm, phẫu thuật nội soi, ghép tạng, ghép tế bào gốc đồng loại,
ứng dụng rô-bốt định vị trong phẫu thuật cột sống và nội soi nhi khoa.
Các bác sĩ có trình độ tại bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh cũng
khơng thua kém trình độ của các đồng nghiệp trên thế giới. Riêng về điều trị bệnh ung
thư, bác sĩ Việt Nam được đánh giá là có nhiều kinh nghiệm trong chữa trị, điển hình
là điều trị ung thư vú. Nhiều bệnh viện như Việt Ðức, Nhi Trung ương, Bạch Mai,
Chợ Rẫy, Đại học Y dược, Từ Dũ,... còn giảng dạy cho nhiều khóa bác sĩ nước ngồi
trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi, hiếm muộn...
Một hướng đi đang được nhiều cơ sở y tế lựa chọn là phát triển loại hình dịch
vụ "2 trong 1": Du lịch tham quan kết hợp khám chữa bệnh. Ðể làm tốt mơ hình này
cần sự thống nhất nhận thức và phối hợp hành động liên ngành giữa các bên liên quan,
trước hết là hai ngành du lịch và y tế. Theo tinh thần đó, mới đây, Sở Y tế và Sở Du
lịch thành phố Hồ Chí Minh đã hợp tác xây dựng các chương trình kết hợp chăm sóc
sức khỏe với du lịch cho du khách, cụ thể hai bên đã xây dựng "Sổ tay du lịch y tế"
song ngữ Anh - Việt để giới thiệu các gói, sản phẩm dịch vụ du lịch kết hợp khám
17


chữa bệnh, tập dưỡng sinh, châm cứu, nâng cao sức khỏe cho du khách tại một số
bệnh viện tự nguyện tham gia (Gồm Viện Tim, Da liễu, Nhi đồng, Răng – Hàm - Mặt,
Tai - Mũi - Họng của thành phố Hồ Chí Minh và một số cơ sở có uy tín khác ở các
tỉnh). Những cơ sở dịch vụ y tế này phải đáp ứng các tiêu chí của y tế và du lịch về cơ

sở vật chất, hoạt động khám chữa bệnh theo quy chế hoạt động, mức giá và chất lượng
dịch vụ thống nhất, phù hợp cho người nước ngoài.
3.Bài học rút ra.
Để phát triển bền vững du lịch khám chữa bệnh tại nước ta cần khắc phục : Thiếu
thơng tin vì chưa chú trọng hoạt động quảng cáo và ngăn chặn tình trạng quảng cáo
khám chữa bệnh giả mạo, sai sự thật. Khi cả ngành du lịch và ngành y tế quan tâm
phát triển các sản phẩm mới về dịch vụ du lịch - khám chữa bệnh, truyền thơng đầy
đủ, chính xác, người dân bớt tâm lý sính ngoại, thì khơng chỉ người dân được lợi, bác
sĩ có cơ hội phát triển nghề nghiệp, mà cịn tạo động lực, cơ hội và vị thế mới cho cả
ngành y và ngành du lịch phát triển, vừa giữ chân được người bệnh trong nước, vừa
tạo thêm sức hút với khách du lịch tiềm năng nước ngồi tìm đến Việt Nam khám phá,
trải nghiệm và gửi gắm niềm tin.
Hiện nay,trong bối cảnh cả thế giới đang hứng chịu và phịng tránh dịch covid thì
nước ta đã và đang thực hiện cơng tác phịng trách dịch và khám chữa bệnh cho những
người nhiễm covid và sars cov2 một cách vô cùng tốt.Tính đến tháng 10/2020 ,sau khi
thực hiện 2 lần kiểm sốt dịch hiệu quả thì Việt Nam khơng ghi nhận thêm ca mắc
bệnh mới trong khi tình hình dịch bệnh trên thế giới vẫn diễn ra hết sức phức tạp và
căng thẳng. Qua đó có thể thấy, ngành y tế của Việt Nam trong những năm qua đã
phát triển khơng ngừng và có những thành tựu vượt bậc. Chính vì vậy, đây có thể
được cho là một cơ hội để Việt Nam quảng bá về nền y tế trong nước với các quốc gia
trên thế giới, góp phần tạo nên một thương hiệu mới cho sự phát triển của du lịch
khám chữa bệnh tại Việt Nam.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH KHÁM CHỮA BỆNH
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I.

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DU LỊCH KHÁM CHỮA BỆNH TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1. Điều kiện tự nhiên
18



a. Vị trí địa lý: TP.Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10 0 10’ – 10
0 38 vĩ độ bắc và 106 0 22’ – 106 054 ’ kinh độ đơng . Phía Bắc giáp tỉnh Bình
Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh , Đơng và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông
Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
b. Địa Hình: Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng
bằng sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang
Đơng. Vùng cao nằm ở phía bắc – Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến
25 mét. Xen kẽ có một số gị đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở Quận
9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía nam – Tây Nam và Ðơng Nam thành phố, có độ
cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một
phần các quận Thủ Đức, Quận 2, tồn bộ huyện Hóc Mơn và Quận 12 có độ cao trung
bình, khoảng 5 tới 10 mét.
c. Khí hậu:
Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam Bộ khác, Thành
phố Hồ Chí Minh khơng có bốn mùa: xn, hạ, thu, đơng. Nhiệt độ cao đều và mưa
quanh năm (mùa khơ ít mưa). Trong năm, Thành phố Hồ Chí Minh có 2 mùa là biến
thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng
11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao mưa nhiều), cịn mùa khơ từ tháng 12 tới tháng
4 năm sau (khí hậu khơ, nhiệt độ cao và mưa ít). Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh
có 160 tới 270 giờ nắng/tháng, nhiệt độ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp
nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới
28 °C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó
năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một
năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5
tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành
phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây Nam – Ðông
Bắc. Các quận nội thành và các huyện phía bắc có lượng mưa cao hơn khu vực cịn
lại.

Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa
Tây – Tây Nam và Bắc – Ðơng Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ
trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðơng Bắc từ biển Đông, tốc độ trung
19


bình 2,4 m/s, vào mùa khơ. Ngồi ra cịn có gió mậu dịch theo hướng Nam – Đơng
Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ
Chí Minh thuộc vùng khơng có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm khơng khí ở
thành phố lên cao vào mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khơ (74,5%). Bình
qn độ ẩm khơng khí đạt 79,5%/năm.
2. Kinh tế - xã hội
a. Kinh tế:
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trị đi đầu trong nền kinh tế Việt Nam. Thành
phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,5% tổng
sản phẩm GDP, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 37,9% dự án nước ngoài.
[91]

Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.966.400 lao động có độ tuổi từ 15 trở

lên, trong đó 139 nghìn người ngồi độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm
việc. Năm 2008, lực lượng lao động có độ tuổi từ 15 trở lên trên địa bàn thành
phố gồm có 3.856.500 người, năm 2009 là 3.868.500 người, năm 2010 đạt 3.909.100
người, đến 2011 con số này đạt 4.000.900 người. Tính chung trong 9 tháng đầu
năm 2012, GDP đạt 404.720 tỷ đồng, tăng khoảng 8,7%. Năm 2012, GDP đạt khoảng
9,2%, trong đó khu vực dịch vụ đạt khoảng 10,8%, công nghiệp và xây dựng đạt
khoảng 9,2%, nông lâm và thủy sản đạt 5%. GDP bình quân đầu người đạt
3.700 USD. Thu ngân sách năm 2012 ước đạt 215.975 tỷ đồng, nếu khơng tính ghi thu
chi là 207.000 tỷ đồng, đạt 92,42% dự toán, bằng 105,40% so với cùng kỳ. Trong đó,
thu nội địa đạt 109.500 tỷ đồng, bằng 88,81% dự toán, thu từ hoạt động xuất nhập

khẩu đạt 70.000 tỷ đồng, bằng 88,72% dự tốn.
Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy
sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh
tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%,
phần cịn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ
chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần cịn lại, cơng nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%,
nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%.
Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước
ngồi với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND. Thành phố cũng
20


đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI,
tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007. Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút
hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, thành phố Hồ Chí Minh xếp ở vị trí thứ 8/63 tỉnh
thành. Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua
sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa
xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây,
nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond
Plaza... Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh
khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội.[101] Sở Giao dịch Chứng khốn
Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành lập vào tháng
7 năm 1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, tồn thị trường đã có 507 loại
chứng khốn được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365
nghìn tỷ đồng.
b. Xã hội
- Dân cư:
Dân số năm 1929 là 123.890 người, trong số đó có 12.100 người Pháp. Gần 40

năm sau, năm 1967, thành phố đã tăng gấp 10 lần với dân số là 1.485.295.
Kể từ sau năm 1976, dân số Sài Gòn gia tăng nhanh, nhất là dân nhập cư.
Theo thống kê chính thức, dân số Sài Gịn năm 1975 là 3.498.120 người. Tính đến
năm 2016, dân số tồn Thành phố Hồ Chí Minh có 8.441.902 người, với diện
tích 2095,39 km², mật độ dân số đạt 4.029 người/km²]. Trong đó dân số sống tại thành
thị đạt gần 6.742.098 người, chiếm 85% dân số tồn thành phố và dân số sống
tại nơng thôn đạt 1.699.804 người, chiếm 15% dân số. Dân số nam đạt 3.585.000
người, trong khi đó nữ đạt 3.936.100 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa
phương tăng 7,4 ‰. Trong các thập niên gần đây, Thành phố Hồ Chí Minh ln có tỷ
số giới tính thấp nhất Việt Nam, luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào Thành phố Hồ
Chí Minh ln có số nữ nhiều hơn số nam. Thành phố Hồ Chí Minh gặp phải tình
trạng quá tải dân số, tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân. Năm 2015,
Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 8.248.000 người, chiếm 9% dân số Việt Nam,
tăng thêm 1 triệu người so với năm 2009 (dân số năm 2019 là 8,993 triệu người).
21


Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Trong khi một
số quận như 4, 5, 10 và 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km², thì huyện ngoại
thành Cần Giờ có mật độ tương đối thấp 98 người/km². Về mức độ gia tăng dân số,
trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 2,5%. Những
năm gần đây, dân số các quận trung tâm có xu hướng giảm, trong khi dân số các quận
mới lập vùng ven tăng nhanh, do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập
cư từ các tỉnh thành khác đến sinh sống. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi
ngày có khoảng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010,
con số này cịn có thể tăng lên tới 2 triệu. Đến năm 2019, dân số của thành phố là
8.993.082 người.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, tồn thành phố có 13 tơn giáo khác nhau
đạt 1.738.411 người, nhiều nhất là Công giáo đạt 845.720 người, tiếp theo là Phật
giáo có 770.220 người, đạo Cao Đài chiếm 56.762 người, đạo Tin lành có 45.678

người, Hồi giáo chiếm 9.220 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 7.220 người, Tịnh độ cư sĩ
Phật hội Việt Nam có 2.267 người. Cịn lại các tơn giáo khác như Ấn Độ giáo có 395
người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 298 người, Minh Sư Đạo có 283 người, đạo
Bahá'í có 192 người, Bửu Sơn Kỳ Hương 89 người và 67 người theo Minh Lý Đạo.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng
4 năm 2009, tồn Thành phố Hồ Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng người
nước ngoài sinh sống.Trong đó, nhiều nhất là người Kinh có 6.699.124 người, các dân
tộc khác như người Hoa có 414.045 người, người Khmer có 24.268 người, người
Chăm 7.819 người, người Tày có 4.514 người, người Mường 3.462 người, ít nhất
là người La Hủ chỉ có một người.
Những khu vực tập trung nhiều người nước ngoài hay Việt kiều sinh sống tại
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những khu chợ, cửa
hàng, dịch vụ, món ăn đặc sản của nước đó. Có thể kể đến: Phố Mã Lai tập
trung người Mã Lai, người Chăm tại đường Nguyễn An Ninh, P. Bến Thành, Quận 1);
chợ Campuchia từ đình chợ Lê Hồng Phong, chạy dọc dài theo đường Hồ Thị
Kỷ, Phường 1, Quận 10 đa phần là Việt kiều trở về từ Campuchia]; phố Hàn Quốc tại
đường Hậu Giang đến các đường lân cận thuộc Phường 4, quận Tân Bình; phố Nhật
Bản tại giao lộ Thái Văn Lung – Lê Thánh Tôn thuộc phường Bến Nghé, quận 1[, khu
22


đô thị Phú Mỹ Hưng (Năm 2018, Phú Mỹ Hưng có trên 30.000 người sinh sống,
chiếm hơn 50% là người nước ngồi đến từ hàng chục quốc gia, đơng hơn cả vẫn là
công dân các nước và vùng lãnh thổ châu Á, nhiều nhất đến từ Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan, Trung Quốc).
- Y tế:
Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng
thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức
khỏe. Các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây
ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến

ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn... hay các bệnh
của những nước công nghiệp phát triển, như tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm
thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuổi thọ trung
bình của nam giới ở thành phố là 73,19, con số ở nữ giới là 77,00.
Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có
3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của
năm 2002. Toàn thành phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5
nhà hộ sinh]. Thế nhưng, mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung
chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với
5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh toàn thành phố ]. Bù lại, hệ thống y tế cộng
đồng tương đối hoàn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có trạm y tế. Bên cạnh hệ thống
nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân,
góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước,
các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên
môn chưa được chặt chẽ .
Sở Y tế Thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện
chuyên khoa. Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngoài để tăng
chất lượng phục vụ.
- Giáo dục:
Về mặt hành chính, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản
lý các cơ sở giáo dục từ bậc mầm non tới trung học phổ thông. Các trường đại
học, cao đẳng phần lớn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm
23


học 2008–2009, tồn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm non, 467 trường cấp I,
239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III. Ngồi ra, theo con số
từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh cịn có 20 trung tâm xóa mù chữ, 139 trung tâm tin
học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của
thành phố có 1.169 cơ sở cơng lập và bán cơng, cịn lại là các cơ sở dân lập, tư thục.

Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố.
Trong khi đó, những cơ sở xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào 4
huyện ngoại thành Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Các trường ngoại ngữ ở
Thành phố Hồ Chí Minh khơng chỉ giảng dạy những ngơn ngữ phổ biến mà còn 1
trường dạy quốc tế ngữ, 1 trường dạy Hán Nôm, 4 trường dạy tiếng Việt cho người
nước ngồi. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh
sự qn, cơng ty giáo dục đầu tư.
Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ
Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học cơng lập (Trường Đại
học Sài Gòn và Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là
thành phố lớn nhất nhì Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục
bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh với 6 trường đại học thành viên thuộc Chính phủ.[130] Nhiều đại học lớn khác của
thành phố như Trường Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Trường Đại học Ngân
hàng, Trường Đại học Luật, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Sư
phạm, Trường Đại học Mở, Trường Đại học Tài chính – Marketing đều là các đại học
quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường
đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia.
Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây, nhưng
giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh vẫn cịn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa
cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ
trẻ em người Hoa khơng biết chữ vẫn cịn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo
dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất
ngành giáo dục thành phố còn kém. Nhiều trường học sinh phải học 3 ca. Thu nhập
của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại thàóng
2: Đặc điểm về tài nguyên DL khám chữa bệnh ở TP. HCM
24


a. Tài ngun nước khống và nước nóng

Theo các nhà nghiên cứu “Nước khống là loại nước thiên nhiên có thành phần
và tính chất đặc biệt, như chứa một số hợp phần muối - ion, khí, chất hữu cơ với hàm
lượng lớn, nhiệt độ và tính phóng xạ cao..., có hoạt tính sinh học nên có tác dụng chữa
bệnh hoặc tác động tốt đến sức khoẻ con người”. qua kết quả phân tích cho thấy
nguồn nước khống này chứa các vi lượng như Bicarbonat, Natri, Kali, Flourid,
Canxi, Magie, Iốt, Kẽm, Sắt...rất tốt cho sức khỏe.
Và ở TPHCM cũng có rất nhiều khu nước khống nóng nhưng nổi tiếng nhất phải kể
đến:
-

Minera Hot Springs Bình Châu:
Địa chỉ: Quốc Lộ 55, Xã Bình Châu, Huyện Xuyên Mộc, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

-

Khu Nghỉ Dưỡng Khống Nóng Thiên Nhiên Bình Châu
Địa chỉ: Cách Sài Gòn khoảng 120 km, nằm trên địa bàn huyện Xuyên Mộc – Bà Rịa
Vũng Tàu

-

Khu nghỉ dưỡng Thiền Tâm
Địa chỉ: Số 80 đường Võ Nguyên Giáp, phường Phước Tân – Biên Hòa.
b. Tài nguyên cây thuốc
- Tài nguyên cây thuốc đóng vai trị quan trọng trong chăm sóc sức khoẻ, chữa bệnh,
đặc biệt ở các nước nghèo, đang phát triển và có truyền thống sử dụng cây cỏ làm
thuốc.
- Gần 300 cây thuốc nam, trong đó có 14 cây nằm trong danh lục đỏ, quý hiếm, đang
được nhân giống và bảo tồn giữa trung tâm TP. HCM.
- Củ Chi là một huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, nằm trên vùng đất

chuyển tiếp từ vùng đất cao của núi rừng miền Đông Nam Bộ xuống vùng đất thấp
của đồng bằng sơng Cửu Long, có tọa độ địa lý từ 10°53’00” đến 10°10’00” vĩ độ Bắc
và từ 106°22’00” đến 106°40’00” kinh độ Đông, gồm 20 xã và 1 thị trấn với diện tích
là ha tự nhiên, bằng 20,74% diện tích tồn thành phố. Đây là vùng có hệ thực vật mà
đặc biệt là thực vật làm thuốc khá phong phú và đa dạng, tập trung chủ yếu ở những
khu rừng cịn sót lại sau chiến tranh. Những kết quả nghiên cứu của chúng tôi nhằm
cung cấp thông tin về nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây, làm cơ sở cho việc bảo tồn,
phát triển và sử dụng bền vững chúng.
25


×