ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
ĐẶNG KIM HOÀNG
THU GIỮ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TRONG
HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ NỢ
•••
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••
TP. HỒ CHÍ MINH-NĂM 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
ĐẶNG KIM HOÀNG
THU GIỮ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TRONG
HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ NỢ
•••
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60.38.01.03.
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN
TP. HỒ CHÍ MINH-NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận văn “Thu giữ tài sản bảo đảm trong hoạt động xử
lý nợ” là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả, không sao chép của bất kỳ ai. Các
quan điểm, vụ việc được phân tích cũng như các đề xuất kiến nghị được nêu trong
bài nghiên cứu là hồn tồn trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ các
cơng trình nghiên cứu nào khác. Việc sử dụng các tài liệu tham khảo trong luận văn
đều được tác giả trích nguồn một cách rõ ràng, đầy đủ, chính xác. Nếu có dấu hiệu
của những cam đoan sai sự thật, tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
TÁC GIẢ
ĐẶNG KIM HOÀNG
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô khoa
Luật- trường Đại học Kinh tế -Luật, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cùng
q thầy cơ thỉnh giảng của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Trường
Đại học Cần Thơ đã cùng với những tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt
vốn kiến thức quý báu cho tác giả trong suốt thời gian học tập tại Trường.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Nguyễn Ngọc
Điện - người đã trực tiếp và tận tình hướng dẫn cho tác giả hoàn thành bài luận văn
này. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn cịn hạn chế nên
bài luận văn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được ý kiến
đóng góp q báu của các Thầy, Cơ để có thể học thêm được nhiều kinh nghiệm
nhằm hoàn thành tốt hơn bài luận văn tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng, tác giả xin kính chúc q Thầy, Cơ dồi dào sức khỏe và thành
công hơn nữa trong sự nghiệp trồng người cao q của mình. Kính chúc q nhà
trường đạt được nhiều thành công mới trong công tác giáo dục, đào tạo và nghiên
cứu khoa học
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1.1.1.....................................................................................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................. 77
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BLDS
Cách đọc đầy đủ
Bộ luật Dân sự
TCTD
Tổ chức tín dụng
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TMCP
Thương mại cổ phần
UBND
Ủy ban nhân dân
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách đổi mới và mở của kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng
tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đem lại nhiều thành quả
kinh tế và xã hội. Sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa, nền kinh tế của nước ta đã có
những chuyển biến tích cực, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập và giao lưu quốc tế như
hiện nay. Các hoạt động kinh tế đều diễn ra một cách sôi động và ngày càng đa dạng,
phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Hiện nay với một hệ thống các tổ
chức tín dụng (TCTD) quốc doanh, cổ phần, liên doanh, TCTD nước ngồi, các hoạt
động tín dụng ngày càng có sự cạnh tranh quyết liệt. Điều này ngồi đem đến sự sơi
nổi trong hoạt động ngân hàng thì đồng thời cũng đem lại những rủi ro nhất định khi
các TCTD vừa muốn được phát triển và cũng mong muốn hạn chế tối đa các rủi ro.
Trong cuộc chạy đua về sự phát triển, các TCTD ngoài việc nâng cao dịch vụ nhằm
thu hút khách hàng trước sự cạnh tranh của các TCTD nước ngồi, thì TCTD trong
nước phải tìm cách khắc phục và xử lý những khoản nợ xấu, nợ tồn đọng, mà một
trong những phải pháp để thu hồi nợ là xử lý tài sản bảo đảm.
Xử lý tài sản bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là biện pháp thu
hồi nợ trong trường hợp người mắc nợ vì lý do nào đó mà không thể trả nợ. Chế định
bảo đảm nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tư tưởng chủ
đạo, chủ nợ có bảo đảm, trong trường hợp cần thiết, chủ nợ có thể thu hồi nợ mà
không cần sự hợp tác của người mắc nợ. Trong những trường hợp nghĩa vụ bảo đảm
bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản, chủ nợ có bảo đảm cần có hai yếu tố:
thứ nhất, tài sản bảo đảm luôn hiện hữu về phương diện vật chất cũng như trong
phạm vi kiểm sốt pháp lý của mình; thứ hai, chủ nợ có thể “lấy” tài sản để xử lý khi
cần thiết mà không gặp phải sự cản trở, chống đối của bất kỳ ai.
Tuy nhiên, hành lang pháp lý trong Bộ Luật dân sự Việt Nam còn lỏng lẻo, sơ
8
sài, việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, bất cập. Hiểu được vấn đề trên, cơ quan hành
pháp đã ban hành một Nghị định riêng về giao dịch bảo đảm, là Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, để giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong thực
tế, bao gồm về vấn đề xác định đối tượng của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ và đặc biệt
là xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong trường hợp người mắc nợ không tự
nguyện trả nợ. Sau khoản thời gian áp dụng năm năm, Nghị định này được hoàn
thiện thêm bằng sự ra đời của Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012, tuy
nhiên vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách thỏa đáng.
Thu giữ tài sản đảm bảo là quyền tự vệ trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của
bên chủ nợ, có nghĩa, chủ nợ có quyền tự mình thu giữ tài sản đảm bảo để xử lý.
Việc thu giữ này cần có sự kết hợp của nhiều lực lượng nhằm đảm bảo cho quá trình
thu giữ thực hiện thành cơng. Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu những vấn đề pháp lý
và thực tiễn của việc thu giữ tài sản bảo đảm trong quá trình xử lý nợ tác giả quyết
định lựa chọn nghiên cứu về đề tài "Thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt động xử lý
nợ" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài này dưới góc độ nghiên cứu luật pháp đã có một số cơng
trình nghiên cứu sau đây:
Sách chun khảo:
- Lê Thị Thu Thủy, Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ
chức tín dụng, NXB Tư pháp, năm 2006. Nội dung cuốn sách đề cập những vấn đề lý
luận cơ bản về bảo đảm tiền vay và các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Bảo
đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
thế chấp của khách hàng vay. Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Bảo đảm tiền vay
bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay. Xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay. Phương hướng và giải pháp hòan thiện pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam
- Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay của TS Phạm Văn Tuyết
9
và TSKim Giang.
Cơng trình nghiên cứu:
Luận văn thạc sĩ luật học: Pháp luật về xử lí tài sản bảo đảm tiền vay tại các
tổ chức tín dụng thực trạng và hướng hoàn thiện của tác giả Trần Thị Thụy Anh,
Pháp luật về thế chấp trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt
Nam của tác giả Phan Vũ Ánh Nguyệt, Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
tại các tổ chức tín dụng và thực tiễn thi hành trên địa bàn Thành phố Hà Nội của tác
giả Nguyễn Xuân Phương Quỳnh
Các bài viết có liên quan được đăng trên các tạp chí chuyên ngành và các
báo điện tử.
- Quyền tự bảo vệ-điểm mới trong Bộ luật Dân sự năm 2015 của tác giả
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, trên trang mạng thongtinphapluatdansu.edu.vn
- Hoàn thiện các quy định về quản lý và xử lý tài sản thế chấp của tác giả
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, trên trang mạng thongtinphapluatdansu.edu.vn
- Cần xây dựng lại khái niệm “quyền tài sản” trong Bộ luật Dân sự của tác giả
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, trên trang mạng thongtinphapluatdansu.edu.vn
Các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên đây mới đưa ra những vấn đề về xử
lý tài sản bảo đảm, nhưng chưa đề cập sâu về quyền thu giữ tài sản nói chung và
những khó khăn bất cập nói riêng khi thực hiện vấn đề thu giữ tài sản để xử lý nợ
của các tổ chức tín dụng. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu để tìm hiểu
một cách đầy đủ, toàn diện về những nguyên nhân, những bất cập và định hướng
hồn thiện pháp luật sát với tình hình hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Về mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về thu giữ tài sản bảo đảm tại các tổ chức
tín dụng. Trên cơ sở đó, thấy được những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của
những hạn chế đó, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
10
-
Về đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và bất cập trong thực tiễn của
quyền thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt động xử lý nợ
-
Phạm vi nghiên cứu: Về lý luận theo quy định của pháp luật Dân sự hiện
hành. Về thực tiễn, việc áp dụng pháp luật trong vấn đề thu giữ tài sản đảm
bảo trong hoạt động xử lý nợ tại các tổ chức tín dụng.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
-
Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về bản chất của vấn
đề thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt động xử lý nợ tại các tổ chức tín dụng
và việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt
động xử lý nợ, là một công trình nghiên cứu chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu
sẽ là cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về quyền thu giữ tài sản,
nhằm tạo ra khung pháp lý góp phần hạn chế việc tranh chấp, đồng thời làm
cơ sở để giải quyết thực trạng thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng.
-
Về thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về quyền thu giữ tài
sản bảo đảm và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về vấn đề thu giữ tài sản
đảm bảo trong hoạt động xử lý nợ tại các tổ chức tín dụng, luận văn chỉ ra
những bất cập của pháp luật trước yêu cầu của thực tiễn. Kết quả nghiên cứu
sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
thu giữ tài sản bảo đảm, đồng thời là tài liệu hữu ích đối với các sinh viên, học
viên chuyên ngành luật, ngân hàng cũng như các nhà hoạch định chính sách,
các thẩm phán.
-
Về định hướng hoàn thiện: Luận văn đã nêu lên một số giải pháp cụ thể để
hoàn thiện pháp luật về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, dựa trên những định
hướng được căn cứ vào các quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước; các
nguyên tắc và quy luật của kinh tế học và nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những đòi hỏi từ thực tiễn phát triển kinh tế xã hội.
11
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp khác nhau như: phương pháp tổng hợp và
phân tích; phương pháp so sánh và đối chiếu; kết hợp nghiên cứu lý luận và thực
tiễn.
Các phương pháp được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận duy vật
lịch sử, duy vật biện chứng; quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn bao gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Chươngthu
quyền
2: giữ
Quy tài
địnhsản
củabảo
pháp
đảm
luật
trong
về hoạt
các biện
độngpháp
xử lý
bảo
nợvệ
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THU GIỮ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
Cơ sở lý luận về quyền thu giữ tài sản bảo đảm
1.1.
1.1.1.
Tài sản bảo đảm
Khái niệm và phân loại
Trước khi tìm hiểu về khái niệm tài sản bảo đảm, thì trước hết ta cần hiểu
được pháp luật đã quy định tài sản là gì? Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai 15. So với quy định được nêu tại
BLDS năm 2005, thì tài sản tại BLDS 2015 đã ghi nhận tài sản bao gồm bất động
sản và động sản; bất động sản và động sản này có thể là tài sản hiện có hoặc là tài
sản được hình thành trong tương lai; quy định tại BLDS 2005 chỉ ghi nhận rằng tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản 16 mà không hề đề cập đến
về loại tài sản là động sản hay bất động sản. Theo đó, quy định của pháp luật về khái
niệm tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên nhận bảo đảm, căn cứ theo khoản 7, Điều 3 Nghị Định
163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 quy định về giao dịch bảo đảm (gọi tắt
là Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
Tài sản bảo đảm là tài sản của khách hàng, của bên bảo lãnh để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành
trong tương lai và được phép giao dịch 17. So sánh với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì
Bộ luật Dân sự năm 2015 được các nhà làm luật soạn thảo theo kỹ thuật tách nhỏ vấn
đề và quy định một cách chi tiết, cặn kẽ hơn, đó là đặc điểm khá dễ để nhận dạng.
Rất hiếm khi xảy ra trường hợp các nhà làm luật lại quy định theo hướng gộp chung,
khái quát hóa, tổng quát hóa. Tuy vậy quy định tại Điều 295 BLDS năm 2015 này là
một trong những quy định hiếm hoi đó. Cùng là quy định về tài sản dùng để bảo đảm
15
16
17
Điều 105 Bộ luật Dân sự ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015
Điều 163 Bộ luật Dân sự ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2005
Điều 295 Bộ luật Dân sự ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015
thực hiện nghĩa vụ nhưng BLDS năm 2015 chỉ dùng đúng một Điều 295 này để quy
định một cách chung nhất, trong khi đó BLDS năm 2005 tách ra quy định thành ba
Điều luật riêng biệt tương ứng với từng loại tài sản theo Điều 320, Điều 321 và Điều
322 BLDS năm 2005.
Nội dung của Điều 295 BLDS năm 2015 bao gồm có tất cả bốn khoản và
cũng chính là những mô tả cũng như yêu cầu về tài sản được dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ. Trong đó, điều kiện tiên quyết đầu tiên để một tài sản có thể được
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì tài sản đó phải thuộc sở hữu của bên bảo
đảm. Riêng đối với hai biện pháp là cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu thì
khơng đặt ra yêu cầu này, nói cách khác đối với hai biện pháp bảo đảm mới được bổ
sung này, người thực hiện nghĩa vụ bảo đảm không nhất thiết là chủ sở hữu. Đây có
thể nói là điểm mới nổi bật nhất về mặt nội dung so với quy định cũ tại BLDS năm
2005. (khoản 1 Điều 295 BLDS năm 2015). Ngồi quy định trên thì căn cứ theo
khoản 1 Điều 4 NĐ 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy định về “tài sản
bảo đảm” như sau “Tài sản bảo đảm do các bên thỏa thuận và thuộc sở hữu của bên
có nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản
đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền.” Như
vậy, tài sản bảo đảm có thể thuộc sở hữu của bên bảo đảm hoặc thuộc sở hữu của
người thứ ba.
Một yêu cầu nhất thiết phải có đó chính là tài sản dùng để bảo đảm phải được
mô tả. Nhà làm luật không yêu cầu việc mô tả này phải cụ thể chi tiết, các bên có thể
có những mơ tả chung nhưng bắt buộc là phải xác định được tài sản đó là gì. Việc
này cực kỳ quan trọng trong việc xác định được tài sản, đặc biệt trong trường hợp
phải xử lý tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nếu việc các định này không được
thực hiện tốt sẽ dẫn đến rất nhiều khó khăn trong khâu xử lý tài sản và mang đến
những rắc rối không cần thiết. Nhưng ngược lại, nếu việc yêu cầu mô tả tài sản quá
chi tiết và mang tính khắt khe sẽ lại tạo nên những phiền tối nhất định, đơi khi là
làm khó cho các bên tham gia. Vì vậy, các nhà làm luật u cầu có thể mơ tả chung,
nhưng phải xác định được là một quy định hợp lý (khoản 2 Điều 295 BLDS năm
2015)
Về tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, cũng có thể là tài sản hình thành
trong tương lai và giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá
trị nghĩa vụ được bảo đảm.(khoản 3 và khoản 4 Điều 295 BLDS năm 2015). Với quy
định này thì các nhà làm luật hồn tồn khơng có u cầu về giá trị tài sản bảo đảm
phải bằng hoặc lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm. Pháp luật hiện hành đã quy định nội
dung về “tài sản bảo đảm” trong Điều 295 BLDS năm 2015, đây là một điểm mới
trong Bộ luật Dân sự năm 2015, qua những phân tích, so sánh với quy định trong luật
cũ (BLDS năm 2005) đã làm rõ được tính mới của quy định về tài sản đảm bảo tại
Điều 295 BLDS năm 2015 đã nêu.
Xử lý tài sản bảo đảm
Xử lý tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là biện pháp thu hồi nợ
trong trường hợp người mắc nợ vì lý do gì đó mà không thể trả nợ bằng tiền. Đây
cũng là biện pháp cuối cùng mà chủ nợ có thể sử dụng để thực hiện quyền địi nợ của
mình, trong điều kiện những biện pháp khác đều không thể thực hiện được.Vấn đề
xử lý tài sản bảo đảm được đặt ra như một biện pháp thu hồi nợ trong các trường hợp
bảo đảm đối vật, nghĩa là các giao dịch bảo đảm trong đó, chủ nợ thừa nhận có
quyền ưu tiên thanh toán bằng giá trị của tài sản bảo đảm. Trên thực tế, vấn đề được
đặt ra bị giới hạn trong phạm vi hẹp hơn, hầu hết chỉ liên quan đến tài sản thế chấp
của khách hàng, vì tài sản cầm cố, theo luật định thì đã và đang nằm trong tay của
chủ nợ ở thời điểm xử lý, ngoài vấn đề được ưu tiên của chủ nợ có bảo đảm thì chủ
nợ cầm cố cịn có thêm lợi thế tự nhiên của người cầm giữ tài sản một cách hợp
pháp. Như vậy, trong khuôn khổ của pháp luật hiện hành thì chủ nợ có thể n tâm
địi nợ mà khơng lo lắng về rủi ro xảy đến, đặc biệt là từ các chủ nợ khác của người
cầm cố tài sản.
Xử lý tài sản bảo đảm được nêu trong Bộ Luật dân sự (BLDS) năm 2015 tại
Điều 303 và Điều 304 trong cả hai trường hợp cầm cố và thế chấp. Ngồi quy định
của BLDS 2015 thì các quy định được cụ thể và chi tiết hơn trong Nghị định
163/2006/NĐ-CP và được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày
22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2016/NĐ-CP (gọi là
Nghị định 11/2012/NĐ-CP). Để hướng dẫn rõ hơn về các điều luật được quy định
trong hai nghị định này, các cơ quan có thẩm quyền như Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên
Môi trường và Ngân hàng Nhà nước cho ra đời những thông tư hướng dẫn chi tiết
các điều khoản này là Thông tư số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ban hành
ngày 06 tháng 06 năm 2014 (gọi tắt là Thông tư 16/2014/TTLT-BTP- BTNMTNHNN). Liên quan đến vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, tác giả có tham khảo bài viết
“Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong Nghị định 163/2006/NĐ-CP và những vấn
đề cần giải quyết tại thông tư liên tịch hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm ” của nhà
nghiên cứu PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, được in ấn trên tạp chí khoa học pháp lý số
4.2012, trong bài viết này nhà nghiên cứu PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện đã nêu ra
những quy tắc cần có khi thực hiện xử lý tài sản bảo đảm như sau:
Đặt tài sản bảo đảm dưới thẩm quyền xử lý của chủ nợ
Bảo đảm nghĩa vụ về bản chất là biện pháp cho phép chủ nợ có thể thu hồi
được nợ mà không cần sự hợp tác của người mắc nợ. Tác dụng tích cực của biện
pháp bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận trong tình huống xấu nhất đặc trưng bởi sự bế
tắc trong việc tìm kiếm các phương sách thu hồi nợ dựa vào vai trò chủ động của
người mắc nợ.
Ở các nước, một khi người mắc nợ vì lý do gì đó mà tự mình khơng trả được
nợ khi đến hạn dù đã được chủ nợ đôn đốc, thúc giục thì người mắc nợ khơng cần
phải làm gì cả, mà chủ nợ có bảo đảm có quyền cho tiến hành kê biên, bán đấu giá,
nói chung làm mọi việc cần thiết để làm bật ra giá trị kinh tế của tài sản bảo đảm, rồi
trích giá trị đó để thanh tốn nợ 18. Trong q trình xử lý tài sản, vai trị của người
mắc nợ khơng được đặt ra, có thể nói, khi nợ đến hạn mà người mắc nợ không thể trả
nợ một cách tự nguyện thì khi tài sản bảo đảm được xử lý bằng cách này hay cách
18
Ở Pháp, hợp đồng thế chấp tài sản phải được cơng chứng mới có giá trị
và bản thân chứng thư công chứng về thế chấp tài sản có đầy đủ hiệu lực rang buộc
như bản án. Bởi vậy, trong trường hợp con nợ không được trả một cách tự nguyện,
chủ nợ có quyền yêu cầu các cơ quan có chức năng thi hành phán quyết của tịa án
cưỡng chế việc trả nợ chiếu theo chứng thư công chứng, mà khơng cần đưa vụ việc
ra tịa.
khác thì người mắc nợ khơng phải là chủ sở hữu và khơng cịn tồn tại quyền hạn gì
đối với tài sản đó.
Trong pháp luật Việt Nam, chủ nợ có bảo đảm vẫn phải lệ thuộc vào sự hợp
tác của người mắc nợ để thực hiện các quyền của chủ nợ có bảo đảm mà pháp luật đã
trao cho mình. Ví dụ trong trường hợp, chủ nợ cần xử lý tài sản bảo đảm nhưng tài
sản vẫn đang được người mắc nợ giữ thì pháp luật đã đưa ra Điều 301 BLDS năm
2015 về “Giao tài sản bảo đảm để xử lý”, tuy nhiên, không phải lúc nào người mắc
nợ cũng “ngoan ngoãn” giao tài sản cho chủ nợ, trong trường hợp như trên, người
mắc nợ không chịu giao tài sản thì chủ nợ chỉ cịn mỗi cách là kiện ra tòa và chờ vụ
việc được giải quyết theo thủ tục chung về tố tụng dân sự. Với quy định của Điều
luật trên, thì chủ nợ đang bị chịu thiệt thịi trong mối quan hệ với người mắc nợ.
Chính vì vậy, các nhà làm luật đã đề ra một biện pháp gọi là thu giữ tài sản bảo đảm,
được quy định tại Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP. Theo nội dung được thể hiện
trong Điều 63 thì chủ nợ có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm để
đặt tài sản dưới quyền xử lý của mình mà khơng lo lắng về việc người mắc nợ có thể
gây trở ngại hoặc không hợp tác. Tuy nhiên, để thực hiện được quyền mà pháp luật
đã trao cho mình, chủ nợ cũng gặp khơng ít những khó khăn khi thật sự chưa có một
khung pháp lý đủ vững chắc. Trên thực tế, khi người mắc nợ không hợp tác, từ chối
giao tài sản cho chủ nợ và thậm chí cịn có thái độ phản kháng, ngồi việc dùng vũ
lực để trấn áp nhưng điều này không được pháp luật cho phép. Trong Điều 63 được
nêu trên, các nhà làm luật cũng đề cập đến vai trò của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp
cơ sở địa phương sở tại hỗ trợ cho chủ nợ trong việc thu giữ tài sản, có thể hiểu rằng,
chủ nợ có quyền này như một trong nhiều phương án mà pháp luật cho phép hoặc ít
nhất là không cấm. Sau khi BLDS 2005 hết hiệu lực, thì quyền thu giữ tài sản bảo
đảm vẫn khơng được ghi nhận trong BLDS năm 2015, mà nó được ghi nhận một
cách rõ ràng và chi tiết hơn tại Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6
năm 2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (sau đây gọi là Nghị
quyết 42/2017/QH14), nội dung của Nghị quyết cũng quy định rõ ràng về nghĩa vụ
giao tài sản cho người xử lý tài sản và vai trò của UBND các cấp và cơ quan Công an
các cấp trong việc hỗ trợ thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo
đảm, trong trường hợp bên nhân bảo đảm yêu cầu khi nhận thấy có sự phản kháng
hay khơng hợp tác của con nợ.
Bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con nợ
Cần khẳng định rằng vi phạm nghĩa vụ không đồng nhất với vi phạm pháp
luật. Trong rất nhiều trường hợp, người mắc nợ vi phạm nghĩa vụ trả nợ không phải
do cố ý bội ước, mà do những khó khăn riêng khơng tự tháo gỡ được. Việc thu hồi
nợ trong hồn cảnh ấy cần phải được thực hiện một cách có lý, có tình để khơng đầy
người mắc nợ vào hồn cảnh bế tắc. Ngay cả trong trường hợp người mắc nợ thiếu
thiện chí hợp tác, thì việc cưỡng chế trả nợ cũng phải được thực hiện một cách có tổ
chức theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, chứ khơng phải vì để khắc
phục rủi ro, chủ nợ tiến hành thu hồi nợ của người mắc nợ bằng mọi giá. Nói chung,
việc xử lý nợ trong thực tế phải được dung hịa, một mặt chủ nợ có thể thu hồi được
khoản nợ, nhưng mặt khác, người mắc nợ khơng bị đẩy vào hồn cảnh kiệt quệ và
khơng có khả năng tiếp tục sinh sống. Quan trọng hơn, phải bảo đảm rằng việc đòi
nợ nhằm mục tiêu bảo vệ công bằng xã hội chứ không phải chủ yếu để phục vụ lợi
ích của bên mạnh hơn trong quan hệ nghĩa vụ. Khi người mắc nợ vẫn còn tài sản bảo
đảm, tài sản này có thể được xử lý để thanh tốn nghĩa vụ, bởi vì trên lý thuyết, tài
sản chỉ được chủ nợ chấp nhận dùng làm vật bảo đảm một khi có giá trị cao hơn giá
trị của khoản nợ được bảo đảm. Nếu rõ ràng giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn nhiều so
với giá trị của khoản nợ được bảo đảm, để tránh việc người mắc nợ chịu thiệt thịi thì
người này phải nhận được phần cịn lại, sau khi đã thanh tốn xong tất cả những món
nợ đến hạn của mình19.
Ngun tắc xử lý tài sản bảo đảm
Nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận
Bản chất của việc xử lý tài sản bảo đảm là sự thực hiện những thỏa thuận dân
19
Nguyễn Ngọc Điện (2012), “Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong
Nghị định 163/2006/NĐ-CP và những vấn đề cần giải quyết tại thông tư liên tịch
hướng dẫ xử lý tài sản bảo đảm”, tạp chí khoa học pháp lý số 4/2012
sự. Khơng ai có thể bắt buộc khách hàng mang tài sản của mình đến thể chấp tại các
TCTD. Họ tự nguyện mang tài sản của mình đi thế chấp cho các TCTD để nhận
được khoản vay. Hai bên thỏa thuận các điều khoản của hợp đồng, trong đó các các
điều khoản về xử lý tài sản bảo đảm và tiến hành ký kết. Pháp luật sẽ bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của tất cả các bên trong giao dịch đó.
Xử lý tài sản theo thỏa thuận của các bên đã trở thành nguyên tắc của quá
trình xử lý tài sản bảo đảm20. Trong trường hợp tài sản bảo đảm để thực hiện một
nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Trường
hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản bảo
đó đó được thực hiện theo thỏa của các bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm.
Thỏa thuận này thể hiện sự thống nhất ý chí giữa các bên nhận bảo đảm và bên bảo
đảm về điều kiện, thời điểm xử lý tài sản bảo đảm, phương thức xử lý tài sản bảo
đảm...Trường hợp một nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bằng nhiều giao dịch bảo đảm,
các bên ịn có quyền thỏa thuận về việc khi đến hạn bên có nghĩa vụ khơng thực hiện
đúng nghĩa vụ thì bên nhận bảo đảm có quyền chọn giao dịch bảo đảm để xử lý hoặc
xử lý tất các các giao dịch bảo đảm21.
Nói chung mọi vấn đề trong xử lý tài sản bảo đảm đều có thể được các bên
thỏa thuận dưới sự bảo trợ của pháp luật nhằm bảo đảm lợi ích của các bên tham gia
giao dịch bảo đảm đó. Trong trường hợp phải xử lý tài sản của bên bảo lãnh, thì các
bên cũng thỏa thuận về tài sản, thời gian, địa điểm và phương thức xử lý, nếu khơng
thỏa thuận được thì các TCTD mới kiện ra tịa22.
Ngun tắc thỏa thuận, bình đẳng ln được tôn trọng trong mọi quy định về
xử lý tài sản bảo đảm. BLDS năm 2015 đã khẳng định việc xử lý tài sản thế chấp,
cầm cố đều phải theo phương thức các bên đã thỏa thuận23.
20
12 năm 2006
21
2006
22
2006
23
Khoản 1 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29 tháng
Điều 7 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29 tháng 12 năm
Điều 47 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29 tháng 12 năm
Điều 303 BLDS năm 2015 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015
Ngun tắc cơng khai, minh bạch
Vì nội dung của thỏa thuận giữa các bên tham gia quan hệ xử lý tài sản bảo
đảm là cơ sở để thực hiện hoạt động xử lý tài sản bảo đảm, nên pháp luật đã có
những quy định rất chặt chẽ nhằm bảo đảm sự cơng khai, minh bạch của các thỏa
thuận đó.
Về hình thức thỏa thuận: các thỏa thuận thế chấp tài sản, xử lý tài sản bảo
đảm giữa các TCTD và khách hàng phải được thực hiện bằng văn bản, thường tồn tại
dưới dạng hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản. Về nội dung của thỏa
thuận: các bên có thể thỏa thuận về tài sản bảo đảm, các trường hợp xử lý tài sản bảo
đảm, phương thức xử lý, thời hạn xử lý... về điều kiện để thỏa thuận có hiệu lực: các
hợp đồng thế chấp bất động sản phải được công chứng. Đối với các loại tài sản thông
thường, các giao dịch bảo đảm không bắt buộc phải đăng ký, nhưng có chỉ có giá trí
pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký 24.Tài sản bảo đảm là quyền sử
dụng đất, quyền sử dụng rừng, máy bay, tàu biển hoặc một tài sản bảo đảm nhiều
nghĩa vụ thì giao dịch bảo đảm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp 25.
Thứ tự ưu tiên thanh toán đối với các chủ nợ được các định theo thứ tự đăng ký tại
các cơ quan có thẩm quyền26.
Khi các thỏa thuận về giao dịch bảo đảm vô hiệu, bị hủy bỏ hoặc đơn phương
chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác 27. Pháp luật đã dự liệu được những trường hợp sự
thỏa thuận về giao dịch bảo đảm của các bên có thể khơng được thực hiện do không
phù hợp với quy định của pháp luật hoặc vì những lý do bất khả kháng khác, các
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vẫn được pháp luật bảo
vệ. Như vậy, việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện dựa trên thỏa thuận của các
24
Điều 11 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29 tháng 12 năm
25
Điều 10 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29 tháng 12 năm
26
27
Điều 308 BLDS năm 2015 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015
Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29 tháng 12 năm
2006
2006
2006
bên, nhưng không phải mọi sự thỏa thuận của các bên đều được chấp nhận một cách
vô điều kiện, mà các thỏa thuận đó phải hợp pháp, hợp đạo lý, bảo đảm được quyền
lợi của các bên tham gia.
Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm không phải là hoạt động kinh doanh tài sản
của TCTD
Hoạt động của các TCTD là những hoạt động kinh doanh tiền tệ nhằm mục
đích thu lợi nhuận. Tuy nhiên, việc xử lý tài sản bảo đảm không phải là một nghiệp
vụ ngân hàng, mà nó chỉ là biện pháp dự phịng, bổ sung cho nghiệp vụ cấp tín dụng
của các TCTD. Biện pháp này chỉ được sử dụng nhằm mục đích thu hồi nợ khi bên
có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Tiền bán tài sản bảo đảm được
sử dụng để thanh toán nghĩa vụ cho bên nhận bảo đảm, sau khi thanh toán nợ gốc,
lãi, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại(nếu có) và các chi phí cần thiết khác để xử lý
tài sản bảo đảm, nếu còn thừa phải trả lại cho bên thế chấp tài sản28.
Như vậy, hoạt động xử lý tài sản bảo đảm là một dạng hoạt động đặc biệt của
các TCTD nhằm bảo tồn vốn chứ hồn tồn đây khơng phải là một nghiệp vu kinh
doanh có lãi của các TCTD.
1.12. Khái niệm và đặc điểm quyền thu giữ tài sản bảo đảm
1.12.1.
Khái niệm quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Theo các tài liệu khảo cổ, tại Điều 115 Bộ luật Hammurabi quy định: “Nếu
dân tự do là chủ nợ của một người dân tự do khác, và giữ con tin của người này, mà
người làm con tin vì số mệnh mà chết ở nhà người giữ mình làm con tin, thì việc đó
khơng thể làm căn cứ để tố cáo 29” và tại Điều 117 Bộ luật Hammurabi quy định:
“Nếu dân tự do vì mắc nợ phải bán vợ, con trai hoặc con gái, hoặc làm nơ lệ vì nợ
thì họ phải phục dịch ở nhà người mua hoặc người chủ nợ 3 năm, đến năm thứ 4 họ
được trả tự do30”. Qua quy định của hai điều luật trong Bộ luật Hammurabi cho thấy,
28
Điều 307 BLDS năm 2015 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015
29
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Tập bài giảng lịch sử
nhà nước và pháp luật thế giới, tr.176.
30
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Tập bài giảng lịch sử
nhà nước và pháp luật thế giới, tr.177.
từ thời xa xưa đã gián tiếp thừa nhận việc bắt giữ con tin, bắt phục dịch để trừ nợ.
Bên cạnh đó, trong bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều có những quy
định ít nhiều liên quan đến việc bắt đồ đạc, của cải và người thân của người mắc nợ hay còn gọi là bắt nợ. Về nguyên tắc, từ khi có xã hội văn minh, nguyên tắc tự xử bị
hạn chế, bởi vậy chủ nợ khơng được tự tiện chiếm đoạt tài sản của cịn nợ để trừ vào
khoản nợ. “Người địi nợ khơng thưa quan mà bắt đồ đạc của người mắc nợ, quá số
tiền trong văn tự thì phạt 80 trượng”. Chủ nợ cũng không được tự tiện bắt vợ, con
của người vay để trừ nợ, trái luật thì phạt 100; nếu chủ nợ ép lấy và thông dâm, phải
tội giáo, người bị bắt được trả tự do và số tiền nợ sẽ khơng được địi nữa. Trong thực
tiễn thì khơng rõ những điều luật nêu trên diễn ra như thế nào, song hai bộ luật nhà
Lê và nhà Nguyễn đều không quy định cương quyết cấm bắt nợ một cách tuyệt đối,
bởi lẽ nếu chủ nợ đã bắt đồ đạc thì pháp luật chỉ buộc họ hoàn lại cho người mắc nợ
những tài sản dư sau khi bù trừ khoản nợ. Như vậy, có thể thấy rằng, một cách gián
tiếp thì việc chiếm đoạt tài sản để trừ nợ được luật cho phép trong một chừng mực
nhất định. Tuy những quy định của pháp luật từ thời khảo cổ cho đến bộ luật của nhà
Lê hay nhà Nguyễn thì pháp luật đã bảo vệ quyền của chủ nợ bằng cách hình sự hóa
các quan hệ dân sự. Trong đó, chủ nợ có quyền bắt đồ đạc, hay là bắt người hoặc lấy
tài sản để cấn trừ khoản nợ.
Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa về quyền thu giữ tài sản
bảo đảm nhưng trong một số văn bản pháp luật đã sử dụng thuật ngữ về quyền thu
giữ tài sản bảo đảm như tại Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, chương 4 về xử lý
tài sản bảo đảm tỏng cầm cố, thế chấp và tại Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Bên cạnh đó, chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại mục 3, Chương
XV, Phần thứ ba về nghĩa vụ và hợp đồng, thì quyền thu giữ tài sản bảo đảm là một
phương thức xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp. Ngoài ra, thu giữ tài sản
bảo đảm để thu hồi nợ là một trong những phương thức xử lý tài sản bảo đảm nhằm
thực hiện quyền địi nợ của chủ nợ.
Tóm lại, quyền thu giữ tài sản bảo đảm là quyền mà chủ nợ sẽ chủ động tiến
hành thu lại tài sản của người mắc nợ, nhằm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người này.
1.122. Đặc điểm của quyền thu giữ tài sản đảm bảo
Thứ nhất, quyền thu giữ tài sản bảo đảm được xây dựng dựa vào thuyết vật
quyền
Quyền đối vật hay còn gọi là vật quyền được hiểu là quyền cho phép người có
quyền thực hiện các hành vi thể hiện quyền năng một cách trực tiếp trên tài sản,
không cần đến vai trò hợp tác hoặc giúp sức của người khác. Ví dụ như chủ sở hữu
có quyền cư ngụ trong chính ngơi nhà của họ, hay họ cho th mà không cần hỏi ý
kiến bất kỳ ai. Quan hệ vật quyền chỉ gồm hai yếu tố: chủ thể - người có quyền và tài
sản - đối tượng của quyền31. Đối lập với vật quyền là trái quyền (còn gọi là quyền đối
nhân) là quyền được trái chủ thực hiện nhằm đòi hỏi một người khác (thụ trái), thõa
mãn yêu cầu nào đó của mình. Ví dụ đối với quan hệ trái quyền tiêu biểu là quyền
đòi nợ, khác với vật quyền, trái quyền cần sự hợp tác giữa các chủ thể.
Quyền đối vật có đối tượng là một động sản hoặc bất động sản. Tính chất của
quyền đối vật được xác định tùy theo tính chất vật lý của đối tượng. Ta có: quyền sở
hữu nhà là một bất động sản; quyền sở hữu xe máy là một động sản. Quyền thế chấp
quyền sử dụng đất là một bất động sản; nhưng quyền thế chấp tàu biển là một động
sản. Quyền hưởng hoa lợi là một động sản, nếu tài sản sinh lợi là động sản; là một
bất động sản, nếu tài sản sinh lợi là một bất động sản 32. Quyền đối vật được bảo đảm
thực hiện bởi tính tuyệt đối và hai quyền đặc biệt là quyền theo đuổi (hay cịn gọi là
quyền kiểm sốt lưu thơng tài sản) và quyền ưu tiên. Trong đó, quyền theo đuổi là
việc người có quyền đối vật có thể thực hiện quyền của mình đối với tài sản, bất kể
tài sản đang nằm trong tay người nào và trong bất kỳ hồn cảnh nào. Quyền ưu tiên
là việc người có quyền đối vật có thể loại tất cả những người có quyền đối nhân và
những người có quyền đối vật xếp sau mình trong thứ tự đăng ký trong việc thực
hiện các quyền đối với tài sản liên quan. Quyền ưu tiên thể hiện rõ nhất trong trường
31
TS. Đoàn Thị Phương Diệp & PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, “Sự cần
thiết vận dụng lý thuyết vật quyền vào pháp luật dân sự - Trường hợp hoàn thiện chế
định thế chấp tài sản”
32
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện (1999), “Động sản và bất động sản”,
Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh. Tr.32
hợp quyền đối vật mang tính chất của một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ:
người nhận thế chấp hoặc cầm cố có quyền ưu tiên thanh tốn bằng số tiền bán tài
sản thế chấp hoặc cầm cố so với các chủ nợ khơng có bảo đảm của người thế chấp
hoặc cầm cố33.
33
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện (1999), “Các quyền đối với tài sản”,
Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh. Tr.124-126
24
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm là quyền đối vật mang tính phụ trợ. Gọi là vật
quyền phụ trợ những quyền cho phép người có quyền tác động khơng phải vào bản
thể của tài sản mà vào giá trị kinh tế của tài sản. Các vật quyền này hình thành từ các
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản như thế chấp, cầm cố. Tính chất phụ trợ
được ghi nhận, do tính hỗ trợ của vật quyền này đối với việc thu hồi nợ của chủ nợ
có bảo đảm. Trong trường hợp nợ khơng được trả, thì chủ nợ có thể xử lý tài sản bảo
đảm bằng cách tổ chức kê biên và bán, rồi nhận tiền thanh toán trước các chủ nợ
khác của người mắc nợ. Chủ nợ có bảo đảm được phép thực hiện quyền này, bất kể
tài sản bảo đảm đang nằm trong tay ai và khơng ai có quyền ngăn cản20.
Chếlý
vụ
nói
định
riêng
thế
chấp
nói
xây
chung
dựng
theo
hay
các
pháp
biện
luật
pháp
hiện
bảo
hành
đảm
trong
nghĩa
khn
nghĩa
khổ
chế
vụ
được
độ
pháp
ghi
lý
nhận
về
nghĩa
ba
yếu
vụ
hợp
tố:
đồng.
bên
bảo
Quan
đảm;
hệ
bên
bảo
nhận
bảo
trường
đảm
và
hợp
nội
cần
dung
thiết
bảo
có
đảm.
thể
Theo
thu
hồi
đó,
nợ
chủ
mà
nợ
khơng
có
bảo
cần
đảm
sự
hợp
thuyết
tác
vật
của
quyền
người
khi
mắc
xây
nợ.
dựng
Tuy
nhiên,
pháp
luật
do
khơng
nên
các
áp
nhà
dụng
làm
lý
luật
khơng
thiết
tạo
nhằm
ra
thực
đủ
các
hiện
cơng
hóa
cụ
được
để
tư
giải
tưởng
quyết
này.
các
Chủ
vấn
nợ
đề
nhận
cần
thế
chấp
phương
diện
hai
vật
điều:
chất;
thứ
thứ
nhất,
hai,
tài
sản
bảo
có
đảm
thể
ln
“lấy”
hiện
tài
hữu
sản
về
xử
luật
Việt
mà
khơng
Nam,
gặp
thì
phải
thế
chấp
sự
cản
là
trở
một
của
trường
bất
hợp
lỳ
ai.
của
Trong
quan
hệ
pháp
trái
bảo
quyền,
được
khơng
hai
điều
được
kiện
xây
dựng
của
chủ
trên
nợ
thuyết
nhận
thế
vật
chấp
quyền,
thì
vậy
điều
để
kiện
trong
cần
thời
thiết
gian
nhất
bảo
là
đảm.
tài
Với
sản
lý
bảo
do
đảm
trên,
khơng
các
được
nhà
làm
dịch
luật
chuyển
đã
đảm
cấm
chuyển
chủ
nợ
nhượng
có
được
tài
tài
sản
sản
trong
thế
chấp
thời
để
gian
xử
thế
lý,
chấp
theo
nhằm
BLDS
bảo
20
TS. Đồn Thị Phương Diệp & PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, “Sự cần thiết
vận dụng lý thuyết vật quyền vào pháp luật dân sự - Trường hợp hoàn thiện chế
định thế chấp tài sản”
25
năm 2015 khoản 8 Điều 32034 và khoản 4 Điều 321 35 thì người thế chấp khơng được
bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, nếu không được sự đồng ý của bên nhận thế
chấp. Với những quy định trên thì quan hệ thế chấp đang trao cho người nhận thế
chấp chức năng “cảnh sát” đối với người thế chấp về vấn đề sử dụng, định đoạt tài
sản. Người nhận thế chấp trở thành người canh giữ tài sản trong thời gian thế chấp,
giám sát hành vi của chủ sở hữu đối với tài sản trong thời gian đó.
Tuy đã để tài sản luôn được giữ bởi người thế chấp, nhưng khi đến hạn trả nợ
nhưng người thế chấp khơng trả được nợ, thì liệu tài sản được có được nằm dưới
quyền xử lý của chủ nợ mà không phải gặp bất kỳ cản trở nào của người thế chấp
hay không? Ở các nước tiên tiến, một khi người mắc nợ khơng chịu trả nợ đúng hạn,
thì chủ nợ có quyền xúc tiến thủ tục kê biên và bán tài sản của người này, bao gồm
tài sản thế chấp, rồi ưu tiên nhận tiền thanh tóan từ tiền bán tài sản. Ở Việt Nam, theo
khoản 5 Điều 323 thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bên thế chấp hoặc người
thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. “Yêu cầu” có nghĩa là chủ nợ phải
chủ động lên tiếng và phải chờ sự đáp ứng tích cực của người được yêu cầu, nếu
người yêu cầu không đáp ứng u cầu đó, thì các nhà làm luật vẫn chưa có hướng
giải quyết cho chủ nợ. Nếu vậy, chỉ còn một cách là chủ nợ sẽ kiện ra Tòa án thụ lý
và giải quyết. Với sự bất hợp lý đó, các nhà làm luật trong khn khổ hướng dẫn
thực hiện các quy định về bảo đảm nghĩa vụ trong BLDS, đã ghi nhận một biện pháp
ít nhiều mang ý nghĩa hành chính, gọi là thu giữ tài sản tại Điều 63 Nghị định
163/2006/NĐ-CP, sau này là Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về
thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Vậy với chức năng hỗ trợ cho chủ nợ thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm
khi đến hạn thanh toán mà người mắc nợ không trả được, quyền thu giữ tài sản là
một công cụ mà pháp luật trao cho chủ nợ để chủ nợ có thể chủ động hơn trong quá
trình xử lý tài sản bảo đảm.
34
35
Điều 320 BLDS 2015 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015
Điều 321 BLDS 2015 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015