Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thu giữ tài sản bảo đảm trong hoạt động xử lý nợ (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.36 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
-------------------------

ĐẶNG KIM HOÀNG

THU GIỮ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TRONG
HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ NỢ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH-NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
-------------------------

ĐẶNG KIM HOÀNG

THU GIỮ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TRONG
HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ NỢ

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60.38.01.03.

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN

TP. HỒ CHÍ MINH-NĂM 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận văn “Thu giữ tài sản bảo đảm trong hoạt động
xử lý nợ” là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả, khơng sao chép của bất kỳ ai.
Các quan điểm, vụ việc được phân tích cũng như các đề xuất kiến nghị được nêu
trong bài nghiên cứu là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ các công trình nghiên cứu nào khác. Việc sử dụng các tài liệu tham khảo trong
luận văn đều được tác giả trích nguồn một cách rõ ràng, đầy đủ, chính xác. Nếu có
dấu hiệu của những cam đoan sai sự thật, tác giả xin chịu hồn tồn trách nhiệm.
TÁC GIẢ

ĐẶNG KIM HỒNG


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô
khoa Luật- trường Đại học Kinh tế -Luật, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
cùng q thầy cơ thỉnh giảng của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
Trường Đại học Cần Thơ đã cùng với những tri thức và tâm huyết của mình để
truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho tác giả trong suốt thời gian học tập tại
Trường.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Nguyễn Ngọc
Điện – người đã trực tiếp và tận tình hướng dẫn cho tác giả hồn thành bài luận văn
này. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên
bài luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được ý
kiến đóng góp q báu của các Thầy, Cơ để có thể học thêm được nhiều kinh
nghiệm nhằm hoàn thành tốt hơn bài luận văn tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng, tác giả xin kính chúc q Thầy, Cơ dồi dào sức khỏe và thành
công hơn nữa trong sự nghiệp trồng người cao q của mình. Kính chúc q nhà

trường đạt được nhiều thành công mới trong công tác giáo dục, đào tạo và nghiên
cứu khoa học
.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THU GIỮ TÀI SẢN BẢO
ĐẢM.................................................................................................................. 6
1.1. Cơ sở lý luận về quyền thu giữ tài sản bảo đảm ........................................ 6
1.1.1. Tài sản bảo đảm ...................................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quyền thu giữ tài sản bảo đảm ........................ 15
1.2. Quy định pháp luật về quyền thu giữ tài sản bảo đảm ............................. 32
1.2.1. Phân loại quyền thu giữ tài sản bảo đảm .............................................. 32
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ các bên ................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 55
CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO
VỆ QUYỀN THU GIỮ TÀI SẢN BẢO ĐẢM .............................................. 56
2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền thu giữ tài sản bảo đảm .............................. 56
2.1.1. Tự bảo vệ quyền .................................................................................... 56
2.1.2. Vai trò của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ...................................... 62
2.2. Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm ........ 66
2.2.1. Chủ thể thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm ................................. 67
2.2.2. Pháp luật điều chỉnh quyền thu giữ tài sản bảo đảm............................. 71


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 77

PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Cách đọc đầy đủ

BLDS

Bộ luật Dân sự

TCTD

Tổ chức tín dụng

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TMCP

Thương mại cổ phần

UBND

Ủy ban nhân dân



1

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách đổi mới và mở của kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam đề
xướng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đem lại nhiều
thành quả kinh tế và xã hội. Sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa, nền kinh tế của
nước ta đã có những chuyển biến tích cực, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập và giao
lưu quốc tế như hiện nay. Các hoạt động kinh tế đều diễn ra một cách sôi động và
ngày càng đa dạng, phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Hiện nay với
một hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) quốc doanh, cổ phần, liên doanh, TCTD
nước ngồi, các hoạt động tín dụng ngày càng có sự cạnh tranh quyết liệt. Điều này
ngồi đem đến sự sơi nổi trong hoạt động ngân hàng thì đồng thời cũng đem lại
những rủi ro nhất định khi các TCTD vừa muốn được phát triển và cũng mong
muốn hạn chế tối đa các rủi ro. Trong cuộc chạy đua về sự phát triển, các TCTD
ngoài việc nâng cao dịch vụ nhằm thu hút khách hàng trước sự cạnh tranh của các
TCTD nước ngồi, thì TCTD trong nước phải tìm cách khắc phục và xử lý những
khoản nợ xấu, nợ tồn đọng, mà một trong những phải pháp để thu hồi nợ là xử lý tài
sản bảo đảm.
Xử lý tài sản bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là biện pháp thu
hồi nợ trong trường hợp người mắc nợ vì lý do nào đó mà khơng thể trả nợ. Chế
định bảo đảm nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tư tưởng
chủ đạo, chủ nợ có bảo đảm, trong trường hợp cần thiết, chủ nợ có thể thu hồi nợ
mà khơng cần sự hợp tác của người mắc nợ. Trong những trường hợp nghĩa vụ bảo
đảm bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản, chủ nợ có bảo đảm cần có hai yếu
tố: thứ nhất, tài sản bảo đảm luôn hiện hữu về phương diện vật chất cũng như trong
phạm vi kiểm sốt pháp lý của mình; thứ hai, chủ nợ có thể “lấy” tài sản để xử lý
khi cần thiết mà không gặp phải sự cản trở, chống đối của bất kỳ ai.



2

Tuy nhiên, hành lang pháp lý trong Bộ Luật dân sự Việt Nam còn lỏng lẻo,
sơ sài, việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, bất cập. Hiểu được vấn đề trên, cơ quan
hành pháp đã ban hành một Nghị định riêng về giao dịch bảo đảm, là Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, để giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong
thực tế, bao gồm về vấn đề xác định đối tượng của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ và
đặc biệt là xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong trường hợp người mắc nợ
không tự nguyện trả nợ. Sau khoản thời gian áp dụng năm năm, Nghị định này được
hoàn thiện thêm bằng sự ra đời của Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012,
tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách thỏa đáng.
Thu giữ tài sản đảm bảo là quyền tự vệ trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của
bên chủ nợ, có nghĩa, chủ nợ có quyền tự mình thu giữ tài sản đảm bảo để xử lý.
Việc thu giữ này cần có sự kết hợp của nhiều lực lượng nhằm đảm bảo cho q
trình thu giữ thực hiện thành cơng. Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu những vấn đề
pháp lý và thực tiễn của việc thu giữ tài sản bảo đảm trong quá trình xử lý nợ tác giả
quyết định lựa chọn nghiên cứu về đề tài "Thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt
động xử lý nợ" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài này dưới góc độ nghiên cứu luật pháp đã có một số
cơng trình nghiên cứu sau đây:
Sách chuyên khảo:
- Lê Thị Thu Thủy, Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ
chức tín dụng, NXB Tư pháp, năm 2006. Nội dung cuốn sách đề cập những vấn đề
lý luận cơ bản về bảo đảm tiền vay và các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay. Bảo đảm tiền vay bằng
tài sản thế chấp của khách hàng vay. Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Bảo đảm
tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.

Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Phương hướng và giải pháp hòan thiện pháp luật về
bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam


3

- Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay của TS Phạm Văn Tuyết
và TSKim Giang.
Cơng trình nghiên cứu:
Luận văn thạc sĩ luật học: Pháp luật về xử lí tài sản bảo đảm tiền vay tại các
tổ chức tín dụng thực trạng và hướng hồn thiện của tác giả Trần Thị Thụy Anh,
Pháp luật về thế chấp trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt
Nam của tác giả Phan Vũ Ánh Nguyệt, Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
tại các tổ chức tín dụng và thực tiễn thi hành trên địa bàn Thành phố Hà Nội của tác
giả Nguyễn Xuân Phương Quỳnh
Các bài viết có liên quan được đăng trên các tạp chí chuyên ngành và
các báo điện tử.
- Quyền tự bảo vệ-điểm mới trong Bộ luật Dân sự năm 2015 của tác giả
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, trên trang mạng thongtinphapluatdansu.edu.vn
- Hoàn thiện các quy định về quản lý và xử lý tài sản thế chấp của tác giả
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, trên trang mạng thongtinphapluatdansu.edu.vn
- Cần xây dựng lại khái niệm “quyền tài sản” trong Bộ luật Dân sự của tác
giả PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, trên trang mạng thongtinphapluatdansu.edu.vn
Các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên đây mới đưa ra những vấn đề về xử
lý tài sản bảo đảm, nhưng chưa đề cập sâu về quyền thu giữ tài sản nói chung và
những khó khăn bất cập nói riêng khi thực hiện vấn đề thu giữ tài sản để xử lý nợ
của các tổ chức tín dụng. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu để tìm hiểu
một cách đầy đủ, tồn diện về những nguyên nhân, những bất cập và định hướng
hoàn thiện pháp luật sát với tình hình hiện nay.
3.Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

- Về mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về thu giữ tài sản bảo đảm tại các tổ
chức tín dụng. Trên cơ sở đó, thấy được những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân


4

của những hạn chế đó, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề
này.
- Về đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và bất cập trong thực tiễn
của quyền thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt động xử lý nợ
- Phạm vi nghiên cứu: Về lý luận theo quy định của pháp luật Dân sự hiện
hành. Về thực tiễn, việc áp dụng pháp luật trong vấn đề thu giữ tài sản đảm bảo
trong hoạt động xử lý nợ tại các tổ chức tín dụng.
4.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về bản chất của
vấn đề thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt động xử lý nợ tại các tổ chức tín dụng và
việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn thu giữ tài sản đảm bảo trong hoạt động xử lý
nợ, là một công trình nghiên cứu chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở lý luận
cho việc hoàn thiện pháp luật về quyền thu giữ tài sản, nhằm tạo ra khung pháp lý
góp phần hạn chế việc tranh chấp, đồng thời làm cơ sở để giải quyết thực trạng thu
hồi nợ của các tổ chức tín dụng.
- Về thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về quyền thu giữ tài
sản bảo đảm và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về vấn đề thu giữ tài sản đảm
bảo trong hoạt động xử lý nợ tại các tổ chức tín dụng, luận văn chỉ ra những bất cập
của pháp luật trước yêu cầu của thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở thực tiễn
cho việc đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền thu giữ tài sản bảo đảm,
đồng thời là tài liệu hữu ích đối với các sinh viên, học viên chuyên ngành luật, ngân
hàng cũng như các nhà hoạch định chính sách, các thẩm phán.
- Về định hướng hoàn thiện: Luận văn đã nêu lên một số giải pháp cụ thể để

hoàn thiện pháp luật về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, dựa trên những định hướng
được căn cứ vào các quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước; các nguyên tắc
và quy luật của kinh tế học và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam với những đòi hỏi từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội.


5

5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp khác nhau như: phương pháp tổng hợp
và phân tích; phương pháp so sánh và đối chiếu; kết hợp nghiên cứu lý luận và thực
tiễn.
Các phương pháp được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận duy
vật lịch sử, duy vật biện chứng; quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn bao gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Chương 2: Quy định của pháp luật về các biện pháp bảo vệ quyền thu giữ tài
sản bảo đảm trong hoạt động xử lý nợ


6

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THU GIỮ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
1.1. Cơ sở lý luận về quyền thu giữ tài sản bảo đảm

1.1.1. Tài sản bảo đảm

Khái niệm và phân loại
Trước khi tìm hiểu về khái niệm tài sản bảo đảm, thì trước hết ta cần hiểu
được pháp luật đã quy định tài sản là gì? Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai1. So với quy định được nêu
tại BLDS năm 2005, thì tài sản tại BLDS 2015 đã ghi nhận tài sản bao gồm bất
động sản và động sản; bất động sản và động sản này có thể là tài sản hiện có hoặc là
tài sản được hình thành trong tương lai; quy định tại BLDS 2005 chỉ ghi nhận rằng
tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản2 mà không hề đề cập
đến về loại tài sản là động sản hay bất động sản. Theo đó, quy định của pháp luật về
khái niệm tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm, căn cứ theo khoản 7, Điều 3 Nghị Định
163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 quy định về giao dịch bảo đảm (gọi
tắt là Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
Tài sản bảo đảm là tài sản của khách hàng, của bên bảo lãnh để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành
trong tương lai và được phép giao dịch3. So sánh với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì
Bộ luật Dân sự năm 2015 được các nhà làm luật soạn thảo theo kỹ thuật tách nhỏ
vấn đề và quy định một cách chi tiết, cặn kẽ hơn, đó là đặc điểm khá dễ để nhận
dạng. Rất hiếm khi xảy ra trường hợp các nhà làm luật lại quy định theo hướng gộp

1

Điều 105 Bộ luật Dân sự ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015

2

Điều 163 Bộ luật Dân sự ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2005

3


Điều 295 Bộ luật Dân sự ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015


7

chung, khái quát hóa, tổng quát hóa. Tuy vậy quy định tại Điều 295 BLDS năm
2015 này là một trong những quy định hiếm hoi đó. Cùng là quy định về tài sản
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng BLDS năm 2015 chỉ dùng đúng một
Điều 295 này để quy định một cách chung nhất, trong khi đó BLDS năm 2005 tách
ra quy định thành ba Điều luật riêng biệt tương ứng với từng loại tài sản theo Điều
320, Điều 321 và Điều 322 BLDS năm 2005.
Nội dung của Điều 295 BLDS năm 2015 bao gồm có tất cả bốn khoản và
cũng chính là những mơ tả cũng như yêu cầu về tài sản được dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ. Trong đó, điều kiện tiên quyết đầu tiên để một tài sản có thể được
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì tài sản đó phải thuộc sở hữu của bên bảo
đảm. Riêng đối với hai biện pháp là cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu thì
khơng đặt ra u cầu này, nói cách khác đối với hai biện pháp bảo đảm mới được bổ
sung này, người thực hiện nghĩa vụ bảo đảm khơng nhất thiết là chủ sở hữu. Đây có
thể nói là điểm mới nổi bật nhất về mặt nội dung so với quy định cũ tại BLDS năm
2005. (khoản 1 Điều 295 BLDS năm 2015). Ngoài quy định trên thì căn cứ theo
khoản 1 Điều 4 NĐ 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy định về “tài sản
bảo đảm” như sau “Tài sản bảo đảm do các bên thỏa thuận và thuộc sở hữu của
bên có nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài
sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền.”
Như vậy, tài sản bảo đảm có thể thuộc sở hữu của bên bảo đảm hoặc thuộc sở hữu
của người thứ ba.
Một yêu cầu nhất thiết phải có đó chính là tài sản dùng để bảo đảm phải
được mơ tả. Nhà làm luật không yêu cầu việc mô tả này phải cụ thể chi tiết, các bên
có thể có những mô tả chung nhưng bắt buộc là phải xác định được tài sản đó là gì.

Việc này cực kỳ quan trọng trong việc xác định được tài sản, đặc biệt trong trường
hợp phải xử lý tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nếu việc các định này khơng
được thực hiện tốt sẽ dẫn đến rất nhiều khó khăn trong khâu xử lý tài sản và mang
đến những rắc rối không cần thiết. Nhưng ngược lại, nếu việc yêu cầu mô tả tài sản
quá chi tiết và mang tính khắt khe sẽ lại tạo nên những phiền tối nhất định, đôi khi


8

là làm khó cho các bên tham gia. Vì vậy, các nhà làm luật u cầu có thể mơ tả
chung, nhưng phải xác định được là một quy định hợp lý (khoản 2 Điều 295 BLDS
năm 2015)
Về tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, cũng có thể là tài sản hình thành
trong tương lai và giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá
trị nghĩa vụ được bảo đảm.(khoản 3 và khoản 4 Điều 295 BLDS năm 2015). Với
quy định này thì các nhà làm luật hồn tồn khơng có yêu cầu về giá trị tài sản bảo
đảm phải bằng hoặc lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm. Pháp luật hiện hành đã quy
định nội dung về “tài sản bảo đảm” trong Điều 295 BLDS năm 2015, đây là một
điểm mới trong Bộ luật Dân sự năm 2015, qua những phân tích, so sánh với quy
định trong luật cũ (BLDS năm 2005) đã làm rõ được tính mới của quy định về tài
sản đảm bảo tại Điều 295 BLDS năm 2015 đã nêu.
Xử lý tài sản bảo đảm
Xử lý tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là biện pháp thu hồi nợ
trong trường hợp người mắc nợ vì lý do gì đó mà khơng thể trả nợ bằng tiền. Đây
cũng là biện pháp cuối cùng mà chủ nợ có thể sử dụng để thực hiện quyền địi nợ
của mình, trong điều kiện những biện pháp khác đều không thể thực hiện được.Vấn
đề xử lý tài sản bảo đảm được đặt ra như một biện pháp thu hồi nợ trong các trường
hợp bảo đảm đối vật, nghĩa là các giao dịch bảo đảm trong đó, chủ nợ thừa nhận có
quyền ưu tiên thanh tốn bằng giá trị của tài sản bảo đảm. Trên thực tế, vấn đề được
đặt ra bị giới hạn trong phạm vi hẹp hơn, hầu hết chỉ liên quan đến tài sản thế chấp

của khách hàng, vì tài sản cầm cố, theo luật định thì đã và đang nằm trong tay của
chủ nợ ở thời điểm xử lý, ngoài vấn đề được ưu tiên của chủ nợ có bảo đảm thì chủ
nợ cầm cố cịn có thêm lợi thế tự nhiên của người cầm giữ tài sản một cách hợp
pháp. Như vậy, trong khuôn khổ của pháp luật hiện hành thì chủ nợ có thể n tâm
địi nợ mà khơng lo lắng về rủi ro xảy đến, đặc biệt là từ các chủ nợ khác của người
cầm cố tài sản.


9

Xử lý tài sản bảo đảm được nêu trong Bộ Luật dân sự (BLDS) năm 2015 tại
Điều 303 và Điều 304 trong cả hai trường hợp cầm cố và thế chấp. Ngồi quy định
của BLDS 2015 thì các quy định được cụ thể và chi tiết hơn trong Nghị định
163/2006/NĐ-CP và được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày
22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2016/NĐ-CP (gọi là
Nghị định 11/2012/NĐ-CP). Để hướng dẫn rõ hơn về các điều luật được quy định
trong hai nghị định này, các cơ quan có thẩm quyền như Bộ Tư pháp, Bộ Tài
nguyên Môi trường và Ngân hàng Nhà nước cho ra đời những thông tư hướng dẫn
chi tiết các điều khoản này là Thông tư số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN
ban hành ngày 06 tháng 06 năm 2014 (gọi tắt là Thông tư 16/2014/TTLT-BTPBTNMT-NHNN). Liên quan đến vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, tác giả có tham khảo
bài viết “Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong Nghị định 163/2006/NĐ-CP và
những vấn đề cần giải quyết tại thông tư liên tịch hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm”
của nhà nghiên cứu PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, được in ấn trên tạp chí khoa học
pháp lý số 4.2012, trong bài viết này nhà nghiên cứu PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện đã
nêu ra những quy tắc cần có khi thực hiện xử lý tài sản bảo đảm như sau:
Đặt tài sản bảo đảm dưới thẩm quyền xử lý của chủ nợ
Bảo đảm nghĩa vụ về bản chất là biện pháp cho phép chủ nợ có thể thu hồi
được nợ mà không cần sự hợp tác của người mắc nợ. Tác dụng tích cực của biện
pháp bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận trong tình huống xấu nhất đặc trưng bởi sự
bế tắc trong việc tìm kiếm các phương sách thu hồi nợ dựa vào vai trò chủ động của

người mắc nợ.
Ở các nước, một khi người mắc nợ vì lý do gì đó mà tự mình khơng trả được
nợ khi đến hạn dù đã được chủ nợ đôn đốc, thúc giục thì người mắc nợ khơng cần
phải làm gì cả, mà chủ nợ có bảo đảm có quyền cho tiến hành kê biên, bán đấu giá,
nói chung làm mọi việc cần thiết để làm bật ra giá trị kinh tế của tài sản bảo đảm,


10

rồi trích giá trị đó để thanh tốn nợ4. Trong q trình xử lý tài sản, vai trị của người
mắc nợ khơng được đặt ra, có thể nói, khi nợ đến hạn mà người mắc nợ không thể
trả nợ một cách tự nguyện thì khi tài sản bảo đảm được xử lý bằng cách này hay
cách khác thì người mắc nợ khơng phải là chủ sở hữu và khơng cịn tồn tại quyền
hạn gì đối với tài sản đó.
Trong pháp luật Việt Nam, chủ nợ có bảo đảm vẫn phải lệ thuộc vào sự hợp
tác của người mắc nợ để thực hiện các quyền của chủ nợ có bảo đảm mà pháp luật
đã trao cho mình. Ví dụ trong trường hợp, chủ nợ cần xử lý tài sản bảo đảm nhưng
tài sản vẫn đang được người mắc nợ giữ thì pháp luật đã đưa ra Điều 301 BLDS
năm 2015 về “Giao tài sản bảo đảm để xử lý”, tuy nhiên, khơng phải lúc nào người
mắc nợ cũng “ngoan ngỗn” giao tài sản cho chủ nợ, trong trường hợp như trên,
người mắc nợ khơng chịu giao tài sản thì chủ nợ chỉ còn mỗi cách là kiện ra tòa và
chờ vụ việc được giải quyết theo thủ tục chung về tố tụng dân sự.Với quy định của
Điều luật trên, thì chủ nợ đang bị chịu thiệt thòi trong mối quan hệ với người mắc
nợ. Chính vì vậy, các nhà làm luật đã đề ra một biện pháp gọi là thu giữ tài sản bảo
đảm, được quy định tại Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP. Theo nội dung được
thể hiện trong Điều 63 thì chủ nợ có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không
cấm để đặt tài sản dưới quyền xử lý của mình mà khơng lo lắng về việc người mắc
nợ có thể gây trở ngại hoặc khơng hợp tác. Tuy nhiên, để thực hiện được quyền mà
pháp luật đã trao cho mình, chủ nợ cũng gặp khơng ít những khó khăn khi thật sự
chưa có một khung pháp lý đủ vững chắc. Trên thực tế, khi người mắc nợ không

hợp tác, từ chối giao tài sản cho chủ nợ và thậm chí cịn có thái độ phản kháng,
ngồi việc dùng vũ lực để trấn áp nhưng điều này không được pháp luật cho phép.
Trong Điều 63 được nêu trên, các nhà làm luật cũng đề cập đến vai trò của Ủy ban
4

Ở Pháp, hợp đồng thế chấp tài sản phải được cơng chứng mới có giá trị và
bản thân chứng thư công chứng về thế chấp tài sản có đầy đủ hiệu lực rang buộc
như bản án. Bởi vậy, trong trường hợp con nợ không được trả một cách tự nguyện,
chủ nợ có quyền yêu cầu các cơ quan có chức năng thi hành phán quyết của tịa án
cưỡng chế việc trả nợ chiếu theo chứng thư công chứng, mà khơng cần đưa vụ việc
ra tịa.


11

nhân dân (UBND) cấp cơ sở địa phương sở tại hỗ trợ cho chủ nợ trong việc thu giữ
tài sản, có thể hiểu rằng, chủ nợ có quyền này như một trong nhiều phương án mà
pháp luật cho phép hoặc ít nhất là không cấm. Sau khi BLDS 2005 hết hiệu lực, thì
quyền thu giữ tài sản bảo đảm vẫn khơng được ghi nhận trong BLDS năm 2015, mà
nó được ghi nhận một cách rõ ràng và chi tiết hơn tại Điều 7 Nghị quyết số
42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức
tín dụng (sau đây gọi là Nghị quyết 42/2017/QH14), nội dung của Nghị quyết cũng
quy định rõ ràng về nghĩa vụ giao tài sản cho người xử lý tài sản và vai trò của
UBND các cấp và cơ quan Công an các cấp trong việc hỗ trợ thực hiện quyền thu
giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm, trong trường hợp bên nhân bảo đảm yêu
cầu khi nhận thấy có sự phản kháng hay khơng hợp tác của con nợ.
Bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con nợ
Cần khẳng định rằng vi phạm nghĩa vụ không đồng nhất với vi phạm pháp
luật. Trong rất nhiều trường hợp, người mắc nợ vi phạm nghĩa vụ trả nợ không phải
do cố ý bội ước, mà do những khó khăn riêng khơng tự tháo gỡ được. Việc thu hồi

nợ trong hoàn cảnh ấy cần phải được thực hiện một cách có lý, có tình để khơng đầy
người mắc nợ vào hoàn cảnh bế tắc. Ngay cả trong trường hợp người mắc nợ thiếu
thiện chí hợp tác, thì việc cưỡng chế trả nợ cũng phải được thực hiện một cách có tổ
chức theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, chứ khơng phải vì để khắc
phục rủi ro, chủ nợ tiến hành thu hồi nợ của người mắc nợ bằng mọi giá. Nói chung,
việc xử lý nợ trong thực tế phải được dung hòa, một mặt chủ nợ có thể thu hồi được
khoản nợ, nhưngt 42/2017/QH14 ban hành ngày 21 tháng 06 năm 2017
và Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP ban hành ngày 15 tháng 05 năm 2018


64

tụng dân sự (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 thì theo nội dung quy định của
Bộ luật này, điều kiện để một vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn là “vụ án có
tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài
liệu chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tịa án sẽ khơng
phải thu thập tài liệu chứng cứ”. Đối chiếu những quy định trên với bản chất vụ
việc con nợ khơng chịu giao tài sản bảo đảm thì có thể thấy được là con nợ sẽ
khơng hợp tác để thừa nhận nghĩa vụ, nhiều khi vụ án lại phát sinh nhiều tài liệu,
chứng cứ dẫn đến không thỏa mãn các quy định pháp luật tố tụng dân sự. Thậm chí,
đã khơng ít trường hợp, ban án quyết định theo thủ tục rút gọn của Tòa án cấp sơ
thẩm vẫn bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dẫn đến việc kéo dài thời
gian giải quyết vụ việc. Ngoài cách giải quyết nêu trên, phương án bán tài sản hoặc
nhận tài sản thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ cũng đã được các TCTD tính đến.
Cụ thể, theo Điều 303 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bên nhận bảo đảm được quyền
bán tài sản bảo đảm hoặc quyền quyền nhận chính tài sản để thay thế_tức là tổ chức
tín dụng (sau khi đã đăng ký giao dịch bảo đảm) có quyền bán tài sản bảo đảm cho
bên thứ ba là công ty thu mua nợ và bên thứ ba đó có quyền kiện địi tài sản với tư
cách là chủ sở hữu.
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm là một bước tiến đột phá trong luật dân sự nói

chung và trong mối quan hệ giao dịch bảo đảm nói riêng, quyền này khơng chỉ giúp
cho chủ nợ có bảo đảm hạn chế được rủi ro trong giao dịch với con nợ mà đây còn
là bước tiếp cận với sự phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới. Điển hình như
Pháp, hợp đồng thế chấp tài sản phải được cơng chứng mới có giá trị và bản thân
chứng thư công chứng về thế chấp tài sản có đầy đủ hiệu lực ràng buộc như bản án.
Bởi vậy, trong trường hợp con nợ không được trả một cách tự nguyện, chủ nợ có
quyền yêu cầu các cơ quan có chức năng thi hành phán quyết của tòa án cưỡng chế
việc trả nợ chiếu theo chứng thư công chứng, mà không cần đưa vụ việc ra tòa. Còn
đối với nước Anh, Luật ngân hàng Anh cho phép một bên thực hiện quyền được
quy định trong văn bản thỏa thuận về biện pháp bảo đảm mà đã thống nhất việc cần
hoặc không cần tới phán quyết của Tịa án. Như vậy, ngồi việc xử lý tài sản bảo


65

đảm theo phán quyết của tịa án, các bên có thể được trao quyền tự xử lý tài sản bảo
đảm mà không cần thực hiện thủ tục khởi kiện ra tịa. Pháp luật của Thái Lan, thì
khơng có quy định đặc thù áp dụng cho xử lý tài sản đảm bảo trong lĩnh vực ngân
hàng, việc xử lý tài sản bảo đảm được áp dụng chung cho mọi chủ thể dân sự.
Trước đây, pháp luật Thái Lan yêu cầu việc xử lý tài sản bảo đảm phải thực hiện
theo thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/07/2016, sau khi
Luật Biện pháp bảo đảm trong Kinh doanh (Business Collateral Act 2015) có hiệu
lực thi hành, trong một số trường hợp quy định tại Luật thì chủ nợ có quyền tự xử lý
tài sản bảo đảm và thông thường, việc ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm thơng qua
Tịa án có thể kéo dài hơn một năm.
Pháp luật ở nước Mỹ, nếu con nợ trả nợ trễ hạn, ngân hàng sẽ gửi thư thông
báo đề nghị thanh toán trong một số ngày nhất định. Nếu con nợ không tuân thủ,
ngân hàng sẽ gửi thư lần hai, thông báo sẽ xử lý tài sản bảo đảm bằng cách đấu giá.
Lá thư thứ ba, ngân hàng sẽ loan báo việc đấu giá: tổ chức ở đâu, vào thời gian
nào... Khi đấu giá như thế, tất cả mọi người đều có quyền tham gia, kể cả ngân

hàng. Giá đấu giá khởi đầu luôn tuân theo nguyên tắc là số nợ + 1 USD. Nếu khơng
có ai đấu giá cao mức này thì ngân hàng thu giữ một cách đương nhiên. Cịn nếu ai
đấu giá cao hơn thì tài sản bảo đảm thuộc về người đó, ngân hàng sẽ dùng tiền thu
được thanh tốn cho món nợ và số dư sẽ trả lại cho khách hàng. Quy trình như vậy
rất đơn giản, dễ hiểu cho cả con nợ và ngân hàng, so với nước ta thì tài sản sẽ được
đấu giá đợt 1, đợt 2 rồi đợt 3 và ln có tâm lý lo lắng rằng giá khởi đầu quá thấp.
Trong trường hợp như ở bên Mỹ, giá khởi đầu luôn là số nợ + 1 USD và ngân hàng
phải đấu giá thì sẽ khơng về giá của tài sản bị thấp, khi Nghị quyết 42/2017/QH14
đã có hướng mở cho phía chủ nợ có bảo đảm nhưng chưa tạo ra một hành lang pháp
lý vững vàng. Việt Nam vẫn vướng mắc trong vấn đề phải bảo vệ quyền lợi cho
người dân, là người đi vay. Ở Mỹ người ta khơng quan tâm vấn đề này, dĩ nhiên họ
có điều kiện tiên quyết là công ty đấu giá rất chun nghiệp, chỉ có lợi ích dựa trên
phần trăm hoa hồng chứ khơng có quyền lợi gì trong việc đấu được cho ai, bán
được cho ai. Việc quy định ngân hàng cũng tham gia đấu giá với giá khởi đầu là số


66

nợ + 1 USD đảm bảo rằng ngân hàng không thể thâu tóm tài sản với giá thấp hơn số
nợ của người đi vay. Cịn tất nhiên nếu có người đấu mức giá cao hơn thì sau khi
cấn trừ nợ, người đi vay cũng được nhận khoản tiền chênh lệch. Như vậy, với cơ
chế này, chắc chắn người đi vay không bị thiệt và cũng không cần phải đưa vụ việc
đi qua q trình giải quyết của cơ quan Tịa án.
Có lẽ là do kinh tế của Việt Nam mới đi vào kinh tế thị trường có 20 năm
nay, mình vẫn còn non trẻ và chưa theo kịp nền cơ chế của nền kinh tế thị trường
hoàn thảo. Nhưng nếu nhà nước bảo vệ một cách khơng hợp lý thì điều ấy sẽ tạo ra
một sự mất cân bằng giữa quyền lợi của người cho vay và người đi vay. Pháp luật
cần điều chỉnh hài hòa giữa mối quan hệ con nợ và chủ nợ, rõ ràng rằng, khi con nợ
không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã thỏa thuận trước đó thì trong trường hợp này đối
tượng đang chịu thiệt thịi khơng phải là con nợ mà chính là chủ nợ. Con nợ trây ỳ

không trả khoản nợ mà cịn khơng chịu giao tài sản bảo đảm cho chủ nợ xử lý hay
thậm chí cịn chống đối với chủ nợ, nếu pháp luật không bảo vệ cho chủ nợ quả thật
không công bằng và làm mất cân đối trong việc cân bằng quyền lợi giữa hai bên.
2.2. Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Trong xu thế phát triển, mọi nguồn lực đều dựa vào dòng vốn để phát triển
nền kinh tế, nguồn vốn đưa vào doanh nghiệp không được “đứng im” mà phải ln
ln vận động. Chính vì sự vận động liên tục của dòng vốn mà dẫn đến sự thiếu hụt
nguồn vốn tạm thời của các cá nhân, tổ chức. Như vậy, việc bù đắp các khoản thiếu
hụt này là vô cùng quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển. Đây cũng chính là một
cơ hội kinh doanh cho các TCTD, đặc biệt trong môi trường cạnh tranh khốc liệt
giữa các TCTD trong thị trường Việt Nam hiện nay. Trong khi đó, việc cho vay thế
chấp, cầm cố tài sản là giao dịch điển hình của các TCTD, là giao dịch cho vay có
tài sản bảo đảm, khi thực hiện điều kiện giao dịch này, cả hai đều thỏa thuận cam
kết các khoản xử lý tài sản bảo đảm trong hợp đồng. Tuy nhiên khi xảy ra tranh
chấp, pháp luật chỉ đưa ra những nguyên tắc và điều kiện để thực hiện mà chưa thể
giải quyết được tất cả các tình huống phát sinh trên thực tế. Một điều hiện hữu ngày


67

nay là kinh tế đất nước phát triển thì xung đột và tranh chấp trong kinh doanh tất
yếu gia tăng. Tuy nhiên, phần lớn các tranh chấp đó được giải quyết mà khơng cần
sự giúp đỡ từ phía Tịa án. Niềm tin của doanh nhân vào hệ thống Tòa án dường
như có dấu hiệu suy giảm, trong khi đó, tình trạng xử lý tranh chấp bằng “luật
rừng” thì ngày càng gia tăng như thuê xã hội đen đòi nợ, xiết nợ… mà báo chí đã
khơng ít lần cảnh báo.
Theo ngun tắc vận hành, khi đến hạn trả nợ mà con nợ khơng có khả năng
chi trả mà cũng khơng được đề xuất thay đổi cơ cấu nợ như điều chỉnh kỳ hạn trả nợ
hoặc gia hạn nợ và khơng có nguồn trả nợ thì bên nhận bảo đảm_các TCTD có
quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng

vào theo đúng quy định của pháp luật. Trong đó, tác giả muốn nói đến quyền thu
giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm vì đây là quyền mà pháp luật đã trao cho
bên nhận bảo đảm có thể chủ động thực hiện thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm khi
đáp ứng đủ điều kiện mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, để thực hiện được hoàn
chỉnh quy định của pháp luật trên thực thế quả không phải là điều dễ dàng. Nhằm
thúc đẩy các giao dịch dân sự phát triển theo hướng tích cực, hạn chế các tranh chấp
kéo dài triền miên, tiết kiệm tiền bạc và thời gian cho tất cả các bên, tránh sự xử lý
chưa hợp lý từ phía các cơ quan tư pháp, dưới đây tác giả nêu ra sự bất cập, khó
khăn cho các cán bộ của TCTD khi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm nói
riêng, điều chưa hợp lý trong hệ thống pháp luật nói chung và hướng giải pháp hoàn
thiện cho những thực trạng hiện hữu này.

2.2.1. Chủ thể thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm đang là điều mới mẻ cho các TCTD vì thế các
chủ thể thực hiện quyền gặp khơng ít bỡ ngỡ, lúng túng khi áp dụng quy định này
vào trong thực tiễn. Tuy nhiên, tác giả cho rằng thực trạng đầu tiên cần nhắc đến đó
chính là từ phía các TCTD, cụ thể đó chính là trình độ, tư duy kinh nghiệm của các
cán bộ của TCTD khi nhận và xử lý tài sản bảo đảm. Trên thực tế, nhiều TCTD
hiện này không thực hiện các chính sách nhằm quản lý chặt chẽ về quy định bảo


68

đảm, cũng như công cụ quản lý thông qua hệ thống quy định của pháp luật, tuân thủ
quy trình đúng, hợp đồng, biểu mẫu rõ ràng, không chú trọng về đào tạo nghiệp vụ,
chuyên môn nâng cao cho cán bộ dẫn tới khi nhận tài sản bảo đảm không thẩm định
được nguồn gốc của tài sản cũng như nhận định rủi ro mang lại.
Phân tích từ nguồn gốc của vấn đề, khi mà cán bộ của TCTD được
đào tạo một chắc chặt chẽ, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn thường xuyên và luôn
cập nhật được những điểm mới của pháp luật thì khi tiếp xúc với một hồ sơ phê

duyệt cho vay và nhận tài sản bảo đảm, các bộ TCTD sẽ đánh giá, phân tích những
quyền lợi cũng như lường trước những rủi ro tiêu cực của hợp đồng thế chấp đó,
nếu có đầy đủ chun mơn cũng như được bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao chất
lượng công tác định giá tài sản bảo đảm thì sẽ hạn chế được những rủi ro nhất định
cho TCTD.
Ngay khi nhận thế chấp, cầm cố tài sản các TCTD cần thực hiện việc đăng
ký giao dịch bảo đảm theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định
của pháp luật. Trên thực tế, thỏa thuận giữa con nợ và các TCTD đều đưa điều
khoản thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý trong trường hợp bên bảo đảm không thực
hiện nghĩa vụ trả nợ, tuy nhiên, không phải mọi trường hợp các TCTD đều tổ chức
thu giữ tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, tùy vào từng vụ việc, các bộ TCTD cần đánh
giá tình trạng của hồ sơ đó, nếu thấy việc thu giữ tài sản bảo đảm có tỷ lệ thành
cơng cao thì TCTD mới tiến hành thực hiện, cịn những vụ việc khơng bảo đảm
thành cơng thì các TCTD sẽ cần tới sự can thiệp và xử lý từ phía cơ quan tư pháp,
đó chính là khởi kiện vụ việc ra Tịa theo đúng trình tự tố tụng dân sự. Thực tế xảy
ra khơng ít khó khăn khi cán bộ TCTD thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm,
như sự cản trở từ phía người thân của khách hàng hay sự hỗ trợ không nhiệt tình từ
phía chính quyền địa phương. Tuy theo quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 thì
UBND các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong
phạm vi chức năng quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an
toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của TCTD, nhưng,
hiện nay các TCTD vẫn gặp phải sự e dè, chưa thật sự nhiệt tình từ phía các bên


69

được đề nghị hỗ trợ thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Phải đồng ý rằng, các
TCTD đều thành lập một đội ngũ các bộ đầy đủ chuyên mơn cao, đánh giá tình hình
chính xác, tâm lý vững chắc để có thể tiến hành thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo
đảm này nhưng vì sao phải cần sự hỗ trợ, tham gia từ phía chính quyền địa phương?

Theo tác giả, đó chính là yếu tố mang tính cưỡng chế và thể hiện sự răn đe của Nhà
nước, vì với sự hỗ trợ, tham gia từ phía cơ quan nhà nước_đại diện cho công
quyền_ chứng tỏ rằng, việc thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm này là hợp pháp và
buộc bên bảo đảm phải chấp hành theo đúng thỏa thuận với TCTD.
Kiến nghị hoàn thiện tổ chức, triển khai thu giữ tài sản bảo đảm
Thứ nhất, tăng cường vai trị của cơng tác kiểm tra, kiểm sốt nội bộ
Trước hết, các TCTD cần tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ
phải thực hiện cả định kỳ và đột xuất để kịp thời phát hiện các sai sót và cảnh báo
các dấu hiệu vi phạm liên quan đến hoạt động tín dụng nói chung và nhận thế chấp,
xử lý tài sản bảo đảm nói riêng. Hạn chế được những sai sót đồng thời sẽ đề xuất
những biện pháp xử lý kịp thời và hợp tình hợp lý đối với từng vụ việc, việc kiểm
tra nội bộ này nhằm bảo đảm được sự vận hành trơn tru của TCTD và nếu kịp thời
phát hiện những điểm bất hợp lý sẽ được xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, các TCTD
phải ban hành các quy định về quy trình cho vay, mơ hình quản lý rủi ro, trong đó
có quản lý rủi ro của tài sản bảo đảm. Các rủi ro của tài sản bảo đảm gồm rủi ro
pháp lý, rủi ro thanh toán, rủi ro quản lý, rủi ro hư hỏng, giảm giá trị của tài sản bảo
đảm… cần được nhận diện, đo lường, giám sát và quản lý một cách chặt chẽ để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TCTD.
Nghị quyết 42/2017/QH14 được ban hành và thực hiện tính đến nay được
được hai năm, để chứng minh được rằng Nghị quyết này được ban hành thực sự
đem lại hiệu quả, thì các TCTD cần phải thúc đẩy xử lý nhanh những vướng mắc đã
được Nghị quyết đề xuất thao gỡ, đồng thời, cũng cần đưa ra những thống kê,
những báo cáo, những dữ liệu chính xác về dự án, tài sản bảo đảm được giải quyết
thơng qua nội dung của Nghị quyết này. Ngồi ra, các TCTD cần phải hoàn thiện


70

quy trình, hệ thống cơ chế chính sách, cơng cụ quản lý tài sản bảo đảm trong nội bộ,
không nên dựa hoàn toàn vào các văn bản pháp luật quy định vì thực tế diễn giải và

quy nạp các vấn đề pháp luật phụ thuộc vào các chính sách, quy trình, mẫu biểu của
TCTD. Cần nhận thức các cơng cụ pháp luật đôi khi không theo kịp diễn biến thực
tế, TCTD nên xác định các chính sách quản trị rủi ro tín dụng và tài sản bảo đảm
theo khẩu vị rủi ro của ngân hàng.
Thứ hai, nâng cao công tác bồi dưỡng cán bộ
Hằng năm, các TCTD cần xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại các bộ,
tập trung trước hết vào các nội dung chủ yếu như nghiệp cụ quản lý rủi ro tín dụng,
khung pháp lý về giao dịch bảo đảm, tổ chức thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo
đảm, phổ biến các kiến thức pháp lý, kinh nghiệm thực tế cho đội ngũ cán bộ nhân
viên làm công tác quản lý cho vay, nhận tài sản bảo đảm của ngân hàng để phòng
tránh các rủi ro pháp lý tiềm ẩn trong nhận và xử lý tài sản bảo đảm…Song song
với đó là chính sách thu hút và giữ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm về nghiệp vụ
ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh TCTD nước ngoài thâm nhập và mở rộng hoạt
động tại Việt Nam. TCTD cần xây dựng hệ thống khuyến khích vật chất và tinh
thần cho cán bộ nhân viên, phù hợp với yêu cầu kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu
lợi nhuận để có thể thu hút và giữ chân những các bộ tác nghiệp, các bộ quản lý có
năng lực.
Ngồi ra, cần có sự phối hợp liên thơng giữa các TCTD với các chuyên gia
nhiều kinh nghiệm đến từ hệ thống các cơ quan tư pháp không chỉ trong hoạt động
tư vấn, phối hợp xử lý vụ việc mà cịn hỗ trợ đào tạo thơng qua việc thường xuyên
tổ chức các khóa đào tại và bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành nhằm nâng cao năng
lực đánh giá, đo lường , phân tích, kiểm sốt rủi ro và cơng tác xử lý tài sản bảo
đảm cho cán bộ.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa các TCTD với các cơ quan tư pháp
Nhằm tạo cơ sở pháp lý và tăng cường sự phối hợp giữa các TCTD và cơ
quan tư pháp trong vệc xử lý tài sản bảo đảm nói chung và thực hiện quyền thu giữ


×