Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.28 KB, 17 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Nam Định trong kháng chiến chống thực dan Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội 16:46' 19/10/2011 Thuận lợi cơ bản nhất đối với chính quyền cách mạng non trẻ là được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng. Trong mọi hoàn cảnh, các tầng lớp nhân dân Nam Định nói riêng và cả nước nói chung luôn vững tin vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Minh, sẵn sàng đem tính mạng và của cải để bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ chế độ mới.. 1. KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-4954) Đấu tranh giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng (9-1945 đến 12-1946). Với cuộc Cách mạng Tháng Tám, chính quyền mới đã được thiết lập, nhân dân ta đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Nhưng nằm trong tình hình chung của cả nước, sau khi chính quyền cách mạng được thành lập, Đảng bộ và nhân dân Nam Định cũng phải đối phó với nhiều khó khăn phức tạp. Thù trong giặc ngoài đe dọa, tình hình đất nước ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Về kinh tế, mọi ngành sản xuất đều sút kém, đình đốn. Sản xuất nông nghiệp suy giảm, ruộng đất hoang hóa nhiều. Hàng hóa khan hiếm, nạn đầu cơ tích trữ phát triển. Về tài chính, ngân quỹ, kho bạc nói chung không còn gì. Giữa lúc đó, các thế lực đế quốc núp dưới danh nghĩa quân Đồng minh để tước vũ khí quân đội Nhật cũng tràn vào từ hai đầu đất nước. Thực chất là chúng muốn lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ. Về phía chủ quan, Đảng bộ Nam Định còn thiếu kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo chính quyền. Các tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang địa phương, tổ chức đảng ở cơ sở nhất là ở xã còn ít, trang bị nghèo nàn chưa đáp ứng được yêu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong giai đoạn mới. Thuận lợi cơ bản nhất đối với chính quyền cách mạng non trẻ là được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng. Trong mọi hoàn cảnh, các tầng lớp nhân dân Nam Định nói riêng và cả nước nói chung luôn vững tin vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Minh, sẵn sàng đem tính mạng và của cải để bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ chế độ mới. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần phải làm ngay. Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, khẳng định “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập”. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách và quan trọng hàng đầu của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh là dồn toàn lực vào việc xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân trước sự tiến công thâm độc của những kẻ thù có tiềm lực quân sự lớn mạnh, tàn ác và nguy hiểm. Nhờ sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I và Hội đồng nhân dân các cấp diễn ra một cách tốt đẹp. Ngày 6-1-1946, gần 100% số cử tri đã đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội, trong số 36 vạn cử tri có tới 33 vạn cử tri bỏ phiếu tín nhiệm cho những người Mặt trận Việt Minh giới thiệu. Ngày 20-1-1946, cử tri Nam Định nô nức đi bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân cấp xã vào ngày 18-3-1946. Ngày 10-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nam Định, Chiều ngày 10-1-1946, Chủ tịch đã nói chuyện với thân mật với đại biểu các tâng lớp nhân dân, đại biểu các tôn giáo và cán bộ các ngành, các giới trong tỉnh. Bảy giờ sáng ngày 11-1-1946, trước hơn một vạn cán bộ, bộ đội và nhân dân Bác ân cần nhắc nhở mọi người phải đoàn kết, thương yêu nhau, chăm lo, mọi mặt công tác, ủng hộ Chính phủ. Đây là lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nam Định. Những lời chỉ bảo ân cần của Người đã để lại ấn tượng sâu sắc và cổ vũ Đảng bộ, nhân dân Nam Định đoàn kết, phấn đấu, khắc phục những khó khăn trở ngại, tiếp tục đi lên trong giai đoạn mới của cách mạng. Với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và quân dân trong tỉnh, những khó khăn bước đầu đã dần được khắc phục, đời sống nhân dân ổn định, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở được củng cố, giữ vững; quân và dân Nam Định có điều kiện bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến đấu giam chân địch trong thành phố, chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cũng trong tháng 12-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị toàn dân kháng chiến, vạch ra những nét lớn về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. 24h ngày 19-12-1946, cả thành phố Nam Định rền vang tiếng súng mở đầu cuộc kháng chiến chống xâm lược. Cuộc chiến đấu của ta nhằm kiềm chế, tiêu hao sinh lực địch trong thành phố diễn ra dài ngày và mỗi lúc một ác liệt hơn. Ta và địch đánh lấn, giành nhau từng căn nhà, góc phố từng nhà máy, xí nghiệp. Trong.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> cuộc chiến đấu không cân sức ấy đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, không sợ hy sinh, quyết tâm giết giặc lập công. Điển hình là Đoàn Bạch Hạc - Chính trị viên trung đội (thuộc Tiểu đoàn 69), Triệu Hàn - Chính trị viên trung đội (thuộc Tiểu đoàn 69), Phạm Sơn - công nhân vận chuyển, tự vệ Nhà máy sợi mới tình nguyện vào bộ đội thuộc Tiểu đoàn 75, nữ chiến sĩ cứu thương Nguyễn Thị Ca ... Trong trận cuối cùng địch đánh giải vây thành phố (10-3-1947) có bốn anh em ruột cùng chiến hào đã anh dũng hi sinh khi chiến đấu đến viên đạn cuối cùng là Tạ Quang Khải, Tạ Hồng Quang, Tạ Quang Thuấn, Tạ Quang Đức. Ngày 6-1-1947, quân dân Nam Định đánh thắng cuộc hành quân chi viện quy mô lớn của địch, chiến thắng to lớn này đã được Hồ Chủ Tịch thay mặt Quốc hội và Chính phủ điện khen ngợi và quyết định tặng Trung đoàn 34 danh hiệu Trung đoàn tất thắng. Hội nghị quân sự toàn quốc (họp từ ngày 12 đến ngày 16 – 1 -1947) đã khen ngợi chiến công của nhân dân Nam Định và nêu gương anh dũng chống thuỷ, lục, không quân địch. Sau 86 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân dân Nam Định đã kìm chế, giam chân một lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp, giết và làm bị thương 400 tên, trong đó có nhiều sĩ quan và lính Âu - Phi, bắt sống sáu tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Cùng với Hà Nội, và một số thành phố, thị xã khác ở Bắc Bộ, cuộc chiến đấu của quân dân Nam Định đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, góp phần cùng cả nước có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Qua chiến đấu ác liệt, lực lượng kháng chiến tại Nam Định vẫn được bảo toàn và ngày càng trưởng thành. Xây dựng làng chiến đấu, củng cố hậu phương, chống địch lấn chiếm (1947 tới 10-1949) Sau khi chiếm được mấy thành phố trống rỗng, thực dân Pháp tiếp tục xua quân sang Đông Dương. Mục tiêu của chúng trong thời gian này là chiếm lấy những đường giao thông chính, lập vành đai bảo vệ thành phố, thị xã, trên cơ sở đó đánh nống ra tiêu diệt lực lượng kháng chiến và nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Ở Nam Định, thực hiện âm mưu mở rộng chiếm đóng theo chiến thuật vết dầu loang, địch đã mở nhiều cuộc càn quét xung quanh thành phố để khủng bố nhân dân, phá cơ sở, gây tâm lý cầu an; dụ dỗ, thúc ép dân hồi cư và đẩy lực lượng ta ra ngoài. Từ tháng 4 đến tháng 6-1947, chúng đã đóng thêm một số vị trí ngoài thành phố như Đò Quan, Vạn Diệp (Nam Phong, Nam Trực), Đệ Nhất (Mỹ Trung), Bảo Long (Mỹ Hà), Lê Xá (Mỹ Thịnh) thuộc huyện Mỹ Lộc và Xuân Mai (Bình Lục, Hà Nam). Cũng trong thời gian này, địch còn tổ chức một số trận đánh ra vùng tự do để khủng bố tinh thần nhân dân, cướp bóc lương thực, thực phẩm và để vây quét lực lượng của ta, nhưng đều bị đánh trả đích đáng như các trận chợ Dần (Vụ Bản) ngày 313-1947, trận Lê Xá (Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc), Núi Ngăm (huyện Vụ Bản) ngày 2-5-1947, trận Đại Đê (Vụ Bản) ngày 1-6-1947, trận Quang Sán (Mỹ Lộc) tháng 7-1947… Vừa cơ động chiến đấu, các đơn vị bộ đội vừa đưa một bộ phận lực lượng về các địa phương hỗ trợ, phát triển chiến tranh du kích. Năm 1947, bộ đội chủ lực đánh 75 trận, bộ đội địa phương đánh 24 trận, dân quân, du kích đánh 40 trận.Tiêu biểu cho thành tích chiến đấu là đội du kích Mai Mỹ (Thành Mỹ) đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh biểu dương. Nhân dân các vùng bị địch uy hiếp tổ chức triệt phá cầu, đường, đắp ụ ngăn cơ giới của địch thực hiện khẩu hiệu vườn không, nhà trống khi địch tới. Việc rào làng kháng chiến chống địch càn quét cũng được tiến hành ở nhiều địa phương. Đến tháng 10-1949, toàn tỉnh đã xây dựng được 90 làng chiến đấu. Đến tháng 9-1949, du kích toàn tỉnh có hơn 45.000 người; cuối năm 1949, đã có 20 trung đội du kích. Phong trào tòng quân giết giặc cứu nước sôi nổi khắp các địa phương. Năm 1949, có gần 9.000 người ghi tên tòng quân, bộ đội địa phương đến tháng 3-1948 từ một Đại đội Đề Thám đã xây dựng thêm tiểu đoàn Duyên Hải. Từ phong trào thi đua ái quốc, Đảng bộ đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc, tự cấp. Hai vụ lúa chiêm – mùa năm 1948 đều khá tốt, tổng sản lượng 227.000 tấn thóc (năm 1947 là 222.000 tấn). Sản lượng muối tăng tương đối nhanh, đáp ứng yêu cầu lớn của kháng chiến. Công nghiệp và thủ công nghiệp cũng được đẩy mạnh như các nghề kéo sợi, dệt vải, dệt lụa ở Vụ Bản, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, nghề làm giấy, thuỷ tinh, thuộc da, đúc gang, đồng, làm ngòi bút ở Ý Yên, Hải Hậu, Trực Ninh… Trong khói lửa chiến tranh, phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển mạnh. Đến tháng 10-1949, toàn tỉnh đã có 250.908 người thoát nạn mù chữ. Toàn tỉnh có 341 trường tiểu học với 16.789 học sinh. Ngoài trường trung học Nguyễn Khuyến đã có thêm sáu trường tư thục. Năm 1948, tỉnh đã thành lập các ban y tế xã, tám trạm cứu thương, 30 nhà hộ sinh, duy trì tốt hoạt động khám chữa bệnh cho nhân dân và bộ đội, năm 1948 đã chữa cho 1.740 người bệnh. Những kết quả trên đã làm cho đời sống kinh tế văn hoá, xã hội của nhân dân trong tỉnh được cải thiện từng bước trong quá trình kháng chiến kiến quốc, động viên mọi người hăng hái sản xuất và phục vụ chiến đấu. Từng bước phát triển lực lượng, chống địch mở rộng chiếm đóng, giải phóng quê hương (10-1949 – 7-1954). Thắng lợi của cách mạng Việt Nam cùng với những thắng lợi của quân, dân Lào, Camphuchia trên chiến trường Đông Dương năm 1949 đã đẩy quân Pháp vào thế sa lầy, đế quốc Mỹ lợi dụng can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương. Ngày 18-10-1949, quân Pháp cho 6 tàu chiến, 2 canô chở hai tiểu đoàn theo sông Hồng đổ quân lên Hạc Châu, Liêu Đông (Xuân Trường) đánh chiếm Hành Thiện, Bùi Chu (nơi có toà giám mục). Chúng cấu kết.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> với bọn cầm đầu phản động đội lốt đạo Thiên Chúa để bọn này tiếp tay đắc lực cho chúng. Từ tháng 101949 đến đầu năm 1952, nhân dân sáu huyện phía nam Nam Định bước vào thời kỳ “Hai năm, bốn tháng” đầy đau thương và uất hận. Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Liên khu 3, Tỉnh uỷ Nam Định đã chỉ đạo các địa phương nghiêm túc rút kinh nghiệm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, đề ra các phương án củng cố, xây dựng lực lượng và tác chiến phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới.Các Đảng bộ kịp thời uốn nắn nhgững nhận thức không đúng đắn, cử cán bộ trở về cơ sở bán đất, xây dựng lại phong trào, từng bước vạch rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo, chia rẽ lương-giáo của kẻ thù; củng cố, phát triển lực lượng vũ trang địa phương, dân quân, du kích, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc. Cuối tháng 4-1951, theo chủ trương của Đảng, Bộ Tổng tư lệnh mở Hội nghị tổng kết chiến dịch Hoàng Hoa Thám và quyết định mở chiến dịch Quang Trung (tức chiến dịch Hà – Nam – Ninh) nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá một mảng nguỵ quân nguỵ quyền, tạo điều kiện cho việc phục hồi cơ sở, phát triển chiến tranh du kích và bảo vệ tài sản, tính mạng, mùa màng của nhân dân. Đêm 28 rạng 29-51951, Đại đoàn 308 cùng bộ đội địa phương, dân quân, du kích nổ súng tiến công cứ điểm Đại Phong và Non Nước (Thị xã Ninh Bình) mở màn chiến dịch. Tại hướng Nam Định, vừa đánh địch, vừa rút kinh nghiệm, khắc phục những khó khăn, yếu kém, Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Định xác định quyết tâm xốc mạnh phong trào, bắt kịp thời cơ, đặt lên hàng đầu là công tác khuếch trương thắng lợi sâu rộng trong quần chúng cùng với việc phá rã ngụy quyền của địch. Bằng sự kiên trì, vượt mọi gian khổ, hy sinh, quân dân ta đã từng bước chiến đấu giành giật với địch từng vùng đất, làm thất bại âm mưu chia rẽ lương - giáo của kẻ thù, giành lại thế chủ động. Ngày 23-2-1952, địch bỏ Hoà Bình rút chạy. Cùng với thất bại ở Hoà Bình, việc bình định của địch trong năm 1951 bị phá vỡ. Từ giữa năm 1952, ngoài việc thường xuyên tổ chức càn quét cỡ đại đội, tiểu đoàn, địch còn tổ chức nhiều cuộc hành quân quy mô lớn, dài ngày với cường độ vô cùng ác liệt trên địa bàn Nam Định. Mặc dù lực lượng không cân sức, quân và dân trong tỉnh vẫn kiên cường chiến đấu để bảo vệ khu du kích làm cho địch tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, như trận tập kích Trại huấn luyện Vạn Bảo ở thành phố Nam Định ngày 28-4-1953, diệt gọn một tiểu đoàn, bắt 500 tên địch. Trận tập kích địch ở Đỗ Xá (Nam Trực) tháng 7-1953 tiêu diệt 160 tên trong đó có tên thiếu tướng Ginlơ chỉ huy cuộc càn. Như vậy trước cuộc chiến đông - xuân 1953 - 1954, quân dân Nam Định đã tạo được thế và lực mới cho cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn quyết liệt nhất. Theo thống kê chưa đầy đủ, thời gian này quân dân Nam Định đã đánh địch gần 1.600 trận, tiêu diệt 9.000 tên địch, phá huỷ 76 xe cơ giới, bắn cháy 2 máy bay, 8 tàu chiến, thu gần 1.000 súng và nhiều quân trang, quân dụng khác. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, đêm ngày 25-5-1954, tại Nam Định, bộ đội chủ lực đã phối hợp với bộ đội địa phương tiêu diệt hoàn toàn vị trí Thức Khoá (Giao Thuỷ) bắt 650 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Ngày 4-6-1954, quân ta tiếp tục tiến công vị trí Đông Biên (Hải Hậu). Sau 12 giờ chiến đấu, ta đã giành thắng lợi, tiêu diệt một số tên, bắt sống 500 tên. Trong vòng nửa đầu năm 1954, bộ đội địa phương và dân quân, du kích Nam Định đã đánh trên 1.600 trận (du kích đánh 800 trận), diệt và làm bị thương trên 3.000 tên, thu hàng trăm súng các loại, phá huỷ gần 100 xe cơ giới. Trong khi Hội nghị Giơnevơ chưa kết thúc, thì trung tuần tháng 6-1954 địch đã rục rịch rút khỏi Nam Định. Và đến 9 giờ ngày 1-7-1954, thực dân Pháp đã rút toàn bộ các vị trí còn lại ở Ngô Đồng, Hành Thiện, Bùi Chu, Lạc Quần, Cổ Lễ và cuối cùng là thành phố Nam Định. Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền còn non trẻ và kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng đã giành thắng lợi vẻ vang. Với nhũng thành công đã đạt được, những kinh nghiệm và cả thử thách tôi luyện trong chiến tranh cách mạng, Đảng bộ và quân, dân Nam Định càng thêm vững tin cùng cả nước bước vào một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc. 2. KHÔI PHỤC KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ - XÃ HỘI, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1954-1965). Cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư, hoàn thành cải cách ruộng đất và phục hồi kinh tế (1954-1957) Ngày 21-7-1954, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau nhiều năm bị địch chiếm đóng, đến ngày 1-7-1954, địa bàn Nam Định hoàn toàn sạch bóng quân thù. Chiến tranh kết thúc, nhưng để lại cho nhân dân Nam Định những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Để ổn định giá cả, phục vụ đời sống nhân dân, chính quyền cách mạng ở Nam Định đã thực hiện các biện pháp kinh tế tích cực như bãi bỏ các loại thuế, đảm phụ quốc phòng, an ninh… Tại thành phố Nam Định, ngày 3-7-1954, Uỷ ban quân quản được thành lập, đã công bố 8 chính sách và 10 điều kỷ luật đối với vùng mới giải phóng. Nhờ tinh thần chủ động, tích cực của các cấp, các ngành và tinh thần hăng hái của cán bộ, nhân dân trong tỉnh, không khí lao động sản xuất ở các địa phương được đẩy mạnh, đời sống của nhân dân từ thành thị đến nông thôn sớm được ổn định. Nhờ những biện pháp kiên quyết, kịp thời, cuộc đấu tranh chống dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam đã đạt được kết quả khá tốt: các trại tập trung di cư lập ra trái phép đã bị giải tán. Từ tháng 8-1954 đến.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> tháng 5-1955, ta đã tuyên truyền, vận động hàng trăm gia đình và hơn 3.000 người tự nguyện rút đơn, trả giấy thông hành, yên tâm ở lại quê hương. Song song với việc tiếp quản vùng mới giải phóng, chống địch cưỡng ép đồng bào di cư, Đảng bộ Nam Định đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ lớn là cải cách ruộng đất và phục hồi phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội. Tuy nhiên, trong cải cách ruộng đất đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng. Khi phát hiện sai lầm, Đảng đã kịp thời có chính sách sửa sai, nhưng cũng phải tới tháng10 -1957, nhiệm vụ sửa chữa mới cơ bản hoàn thành. Đây là một kinh nghiệm xương máu đối với Đảng bộ và nhân dân Nam Định. Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công nghiệp tư bản tư doanh (1958-1960) Ngày 13-8-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự hội nghị sản xuất nông nghiệp của tỉnh được tổ chức tại xã Yên Tiến huyện Ý Yên, là nơi thí điểm đầu tiên xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Nam Định. Người chỉ thị cho cán bộ và nhân dân địa phương phải quyết tâm thực hiện vụ mùa thắng lợi, tránh chủ quan, tích cực chăm bón, phòng trừ sâu bệnh cho lúa. Ngày 15-9-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại về kiểm tra tình hình chống hạn ở Nam Định. Người căn dặn cán bộ, nhân dân trong tỉnh phải quyết tâm chống hạn. Mọi người phải đoàn kết, giúp đỡ nhau chiến thắng thiên tai, đẩy mạnh sản xuất, ngày càng làm ra nhiều của cải, vật chất, đem lại hạnh phúc cho mọi nhà, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, khi mà cả nước đang tập trung sức cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân trong phạm vi cả nước, thì thắng lợi của công cuộc tập thể hoá nông nghiệp có một ý nghĩa chính trị rất quan trọng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Nam Định cũng như ở nhiều địa phương khác đã mắc phải một số sai lầm. Nhiều nơi cán bộ tỏ ra nóng vội, duy ý chí, chạy theo thành tích nên đã không tôn trọng đầy đủ cả ba nguyên tắc cơ bản của tập thể hoá nông nghiệp xã hội chủ nghĩa là: tự nguyện, cùng có lợi và từ thấp đến cao. Đối với công nghiệp và thủ công nghiệp, sau ba năm khôi phục kinh tế (1955-1957), công nghiệp quốc doanh mới được phục hồi và phát triển. Từ cuối năm 1958, Nam Định triển khai cuộc vận động cải tiến quản lý xí nghiệp. Trong quá trình này, phong trào thi đua hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước được liên tục phát động. Đặc biệt, năm 1960, phong trào phát triển mạnh, liên tục và mang tính tập thể đậm nét, quan tâm tới vấn đề cải tiến kỹ thuật, áp dụng thao tác tiên tiến vào sản xuất. Nổi bật nhất là Nhà máy Dệt Nam Định, trong ba năm (1958 - 1960), công nhân đã phát huy được 485 sáng kiến, góp phần quan trọng làm cho giá trị sản lượng của nhà máy bình quân hàng năm tăng 23%. Nhiều đơn vị và cá nhân đạt danh hiệu tiên tiến, chiến sĩ thi đua. Bốn công nhân được tuyên dương là Anh hùng lao động. Đến cuối năm 1960, Nam Định hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội. Thắng lợi đó đã đem lại những chuyển biến to lớn trong đời sống kinh tế, chính trị của nhân dân trong tỉnh. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở địa phương (1961-1965) Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Từ ngày 15 đến 21-5-1963, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V được tiến hành, ngày 21-5-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm, chỉ đạo đại hội và Người đã đến thăm Nhà máy Liên hợp dệt Nam Định, thăm bệnh viện tỉnh, gặp gỡ, nói chuyện với hơn năm vạn nhân dân, cán bộ dự mít tinh chào mừng thành công của Đại hội. Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp được quan tâm đầu tư xây dựng. Năng suất lúa từ 3,5 tấn/ha (năm 1960) tăng lên 3,9 tấn/ha năm 1965. Số hợp tác xã đạt 5 tấn/ha ngày càng nhiều. Sản xuất công nghiệp phát triển với giá trị tổng sản lượng hàng năm tăng 6%, những lĩnh vực được chú trọng phát triển trong thời kỳ này là điện lực, vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, dược liệu và đặc biệt là ngành cơ khí… Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đang thực hiện có kết quả thì bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Tuy chỉ thực hiện được 4 năm, nhưng với những thành tựu đạt được, Nam Định bước đầu đã khắc phục được tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cải thiện một bước đời sống của nhân dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đẩy mạnh sản xuất, chi viện cho tiền tuyến lớn (1965-1975). Thất bại trong chiến lược Chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ phải trực tiếp đưa quân vào miền Nam thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ, đồng thời leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng không quân và hải quân. Thực hiện Quyết định số 103-QĐ/TVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 21-4-1965 và Nghị quyết số 111-NQ/TW về việc hợp nhất hai tỉnh Nam Định và Hà Nam; ngày 4-6-1965, Ban chấp hành Đảng bộ hai tỉnh họp liên tịch. Hội nghị xác định nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng bộ lúc này là đoàn kết toàn quân, toàn dân Nam Hà thực hiện thắng lợi nghị quyết của Trung ương Đảng trong thời kỳ mới..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Quân dân Nam Hà phối hợp với trung đoàn 250 pháo cao xạ, đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ người, tài sản, huyết mạch giao thông chi viện cho tiền tuyến đồng thời duy trì, giữ vững sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự, bắn rơi 42 máy bay Mỹ. Đơn vị tự vệ thành phố và trung đoàn 250 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất. Tự vệ khu phố 4, khu phố 6, Nhà máy Liên hợp Dệt và Chi cục xăng dầu được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Ngày 10-7-1965, quân và dân Nam Hà long trọng mít tinh đón nhận cờ thưởng luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua gần bốn năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, tính đến ngày 8-11-1968, các lực lượng vũ trang Nam Hà đã bắn rơi 86 máy bay phản lực Mỹ (dân quân, tự vệ bắn rơi 10 chiếc), góp phần bắn chìm một tàu biệt kích, bắn cháy một tàu chiến và một tàu biệt kích khác, bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển quê hương. Ngày 1-11-1968, Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, chấp nhận ngồi vào đàm phán ở Hội nghị Pari. Từ năm 1969, quân và dân Nam Định đã tranh thủ thời gian hoà bình, từng bước khắc phục khó khăn, gian khổ, khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá bom mìn, bảo đảm an toàn cho các tuyến giao thông vận tải, đẩy mạnh mọi mặt sản xuất. Ngày 16-4-1972, Mỹ lại cho một lực lượng lớn máy bay, có cả B52, ồ ạt đánh phá Hải Phòng và Thủ đô Hà Nội. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ kéo dài 188 ngày đêm, không quân Mỹ đã đánh phá 633 trận vào 893 mục tiêu khác nhau, số máy bay tham gia đánh phá thành phố Nam Định lên tới 1.345 lượt chiếc. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai này, lực lượng vũ trang trong tỉnh bắn rơi 28 máy bay, hai tàu chiến. Riêng lực lượng vũ trang địa phương lập công lớn, hiệu suất chiến đấu cao gấp hai lần trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ. Bước vào năm đầu cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại (1965) với khí thế thi đua Tay búa, tay súng, Tay cày, tay súng sản xuất nông nghiệp cũng đạt thắng lợi lớn, công nghiệp địa phương vẫn được duy trì, phát triển. Chiến tranh ác liệt nhưng sự nghiệp y tế, giáo dục và văn hoá phục vụ đời sống nhân dân vẫn được duy trì và củng cố. Các phong trào Tiếng hát át tiếng bom, Dạy tốt học tốt, … được phát động khắp nơi và ngày càng sôi nổi. Bị thất bại nặng nề, đầu năm 1973 đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam, quân đội Mỹ và đồng minh của Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Nhưng ở miền Nam, chúng vẫn ngoan cố thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, tăng cường củng cố nguỵ quân, nguỵ quyền, tiếp tục chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, quân và dân Nam Hà đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đoàn kết thống nhất ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn, sản xuất và chiến đấu giỏi góp phần bảo vệ vững chắc quê hương và miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong niềm vui chung của cả nước, quân dân Nam Hà rất phán khởi tự hào vì đã tích cực góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc. (violet.vn). In bài này. Gửi bài này. Các tin trước (19/10/2011) Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1997-2000). Theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, Nam Hà tách thành hai tỉnh Nam Định và Hà Nam. Sau 32 năm phát triển với tư cách là một bộ phận trong cơ cấu tỉnh hợp nhất, ngày 1-1-1997, Nam Định được tái lập là một sự kiện quan trọng trong tiến trình phát triển của tỉnh. Thực hiện phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XV Đảng bộ Tỉnh, toàn tỉnh đã tập trung phấn đấu, cố gắng đến mức cao nhất để phát triển kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp trở thành một nhiệm vụ cấp bách nhằm đảm bảo yêu cầu HTX là chủ thể kinh tế ở nông thôn, hộ xã viên tự chủ trong sản xuất; đồng thời tách chức năng sản xuất - kinh doanh với quản lý nhà nước ở nông thôn, giữa HTX nông nghiệp và Uỷ ban nhân dân xã. Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tỉnh xác định mục tiêu trọng điểm để đầu tư đẩy mạnh hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng cường đầu tư cho thuỷ lợi, thực hiện kiên cố hoá kênh mương và cấp I hoá giống lúa, chuyển đổi mạnh cơ cấu mùa vụ…nhằm thúc đẩy sản xuất một cách cơ bản, vững chắc hơn. Với những nỗ lực chỉ đạo của các cấp tỉnh, huyện và sự cố gắng vượt bậc của nông dân lao động, từ năm 1997 đến năm 200, sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã vươn lên giành kết quả toàn diện. Sản xuất lương thực luôn đạt những đỉnh cao mới về năng suất và tổng sản lượng, năm sau lại phá kỷ lục của năm trước. Nam Định trở thành một trong những tỉnh có năng suất.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> lúa vụ chiêm xuân đứng đầu cả nước. Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp từng bước được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng giá trị sản phẩm. Cùng với sản xuất lương thực, chăn nuôi tiếp tục phát triển tạo ra sản phẩm hàng hoá như tập trung nuôi lợn nái, lợn siêu nạc và chăn nuôi gia cầm có qui mô lớn theo mô hình VAC. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân trên 1 ha canh tác đạt khoảng 28 triệu đồng. đời sống nông dân có bước cải thiện rõ. Đây là một trong những thành tựu kinh tế nổi bật của Nam Định từ sau khi tái lập tỉnh. Phát triển kinh tế vùng biển là một trong ba mục tiêu phát triển kinh tế theo vùng của tỉnh. Tỉnh có đề án phát triển kinh tế vùng biển toàn diện trên các lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt xa bờ, chế biến hải sản, phát triển du lịch, dịch vụ biển…Tuy mới là những kết quả ban đầu, nhưng trên thực tế, kinh tế biển đã được khẳn định và đang mở ra một hướng mới về phát triển kinh tế của Nam Định trong những năm tới. Từ khi có qui hoạch định hướng phát triển, ngành du lịch, dịch vụ vùng biển đã khởi sắc. Cơ sở hạ tầng ở hai khu nghỉ mát Hải Thịnh và Quất Lâm được đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện thu hút được khách trong và ngoài tỉnh. Đây là một trong những tiền đề quan trọng cho ngành du lịch của Nam Định phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI. Sau khi tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, từ năm 1999, tỉnh chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch. Mở đầu đã có 26/34 doanh nghiệp trong kế hoạch được cổ phần hoá. Nam Định là tỉnh có tốc độ cổ phần hóa nhanh. Nhiều doanh nghiệp đã khắc phục được khó khăn trong sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ thiết bị, do đó, giá trị sán xuất công nghiệp trên địa bàn ngày một tăng. Thời kỳ này xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến như Công ty đóng tàu Sông Đào, Công ty Dược, Xí nghiệp Mạ Điện, Công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu, Công ty TNHH Trường Thành …Công nghiệp dệt may với sự hỗ trợ của trung ương và cố gắng của địa phương đã dần được ổn định và có bước phát triển. Trong lĩnh vực công nghiệp, doanh nghiệp tư nhân phát triển năng động và tăng nhanh giá trị tổng sản lượng. Từ năm 1997, tỉnh đã tập trung xây dựng đề án qui hoạch, sắp xếp lại khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, đồng thời khuyến khích tạo điều kiện cho làng nghề phát triển sản xuất kinh doanh. Nhìn chung các làng nghề phát triển năng động trong cơ chế thị trường. Nhiều mặt hàng truyền thống đã được khôi phục, có uy tín trên thị trường như mỹ nghệ sơn mài, thêu ren, đan cói, đồ gỗ, cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp, rèn, đúc… Hoạt động sản xuất - kinh doanh và đời sống nhân dân ở các làng nghề, phố nghề được cải thiện rõ nét, tiêu biểu là làng La Xuyên, Tống Xá (huyện Ý Yên); Xuân Tiến, Xuân Bắc (huyện Xuân Trường); Nam Giang, Hồng Quang (huyện Nam Trực); Trực Chính, Trực Đông (huyện Trực Ninh) và thành phố Nam Định. Kết hợp phát huy nội lực với mở rộng liên kết tạo nguồn cho đầu tư phát triển, vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh te - xã hội đạt khá, chiếm khoảng 35% tổng nguồn vốn đầu tư. Cơ cấu đầu tư ưu tiên theo hướng tập trung vào những nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm của tỉnh, trước hết là mục tiêu phát triển công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Các công trình đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, cây xanh, công viên, nhà ở, các công trình văn hoá, lịch sử củ thành phố được xây dựng và hoàn thành như tượng đài Trần Hưng Đạo, Nhà văn hoá 3-2, tu sửa đền Trần, công viên Tức Mặc, Cột Cờ… Hệ thống giao thông đường bộ bao gồm cả quốc lộ trên địa bàn tỉnh và tỉnh lộ, các trục giao thông nông thôn đều được nâng cấp cải tạo, xây dựng. Năm 2000, tỉnh hoàn thành xây dựng cầu Lạc Quần phục vụ tốt cho phát triển kinh tế - xã hội. Cầu cáp treo qua sông Đào cũng hoàn thành, dự án xây dựng quốc lộ 10 qua tỉnh, cầu Tân Đệ đã được xây dựng kiên cố và hiện đại. Với những thành tích nổi bật về giao thông, Nam Định được Chính phủ tặng cờ luân lưu toàn quốc về giao thông nông thôn. Thành phố Nam Định có đề án mở rộng quy hoạch và được Chính phủ quyết định nâng cấp thành đô thị loại II. Ngành bưu điện với chiến lược tăng tốc, hiện đại hoá mạng bưu chính, viễn thông được trang bị bằng các thiết bị công nghệ hiện đại ở cả thành thị và nông thôn. Sự phát triển của mạng lưới bưu chính, viễn thông đã tạo sự năng động trong sản xuất kinh doanh và giao lưu xã hội cả trong nước và quốc tế, đồng thời cũng là tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thế kỷ XXI. Hệ thống ngân hàng, kho bạc đi vào đổi mới phương thức hoạt động tạo được nguồn vốn đảm bảo phục vụ doanh nghiệp cà cho nhân dân vay để phát triển sản xuất. Vốn đầu tư tín dụng đã bước đầu phát huy được hiệu quả trong các dự án đầu tư. Tổng giá trị mức lưu chuyển hàng hoá trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 3.400 tỷ đồng trong năm 2000. Lĩnh vực xuất khẩu đang mở rộng được thị trường và kinh doanh. Giá trị xuất khẩu bình quân trên đầu người tăng từ 18USD năm 1997 lên 27,2 USD năm 2000.Khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng như: thịt đông lạnh, gạo, sợi các loại, hàng dệt kim, may mặc, hàng thủ công, mỹ nghệ… Hoạt động du lịch đã xây dựng đề án phát triển và mở tuyến lữ hành du lịch đền Trần, Phủ Dầy, Hải Thịnh, Quất Lâm thu hút được nhiều khách tham quan từ nhiều miền trong nước. Các khách sạn đang được đầu tư, nâng cấp, cải tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành và nhu cầu của khách du lịch. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo bám sát nhu cầu thực tiễn xã hội, phát triển cả về quy mô và chất lượng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ dạy và học được cải tạo nâng cấp, không còn tình trạng học ca ba. Nhiều năm liền là tỉnh dẫn đầu cả nước về phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Sự nghiệp y tế của tỉnh trong bốn năm qua có tiến bộ. Hầu hết các bệnh viện, trung tâm y tế cấp được cải tạo, xây dựng mới, trang thiết bị y tế khá đầy đủ, có thêm thiết bị hiện đại Đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn. Sự nghiệp y tế được xã hội hoá mở rộng. Các hoạt động văn hoá – văn nghệ, thông tin báo chí được duy trì, phát triển. Toàn tỉnh có trên 100 làng và 70 cơ quan, đơn vị được công nhận là làng văn hoá. Huyện Hải Hậu được công nhận 20 năm liên tục là điển hình văn hoá cả nước. Báo Nam Định phát hành đều hai kỳ mỗi tuần ở tất cả các cơ sở đảng. Hệ thống truyền thanh phủ kín 100% số xã, có 85% số hộ dân trong tỉnh được xem truyền hình. Phong trào thể dục, thể thao phát triển rộng. Một số môn thể thao thành tích cao đã đạt giải quốc gia ở thứ bậc cao. Quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tỉnh đã thường xuyên chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân đảm bảo sẵn sàng chiến đấu. Hằng năm, tỉnh đều hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu gọi thanh niên nhập ngũ. Tỉnh uỷ đã chú trọng tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, thông qua việc quán triệt các nghị quyết của Đảng, đặc biệt thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá VIII). Chất lượng tổ chức cơ sở đảng được nâng cao, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chính quyền từng bước nâng cao hiệu lực điều hành, quản lý nhà nước. Hội đồng nhân dân các cấp tăng cường giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật và các nghị quyết. Qua các kỳ họp đã ra được các quyết sách tương đối sát với tình hình thực tế ở địa phương. Uỷ ban nhân dân từng bước cải cách lề lối làm việc có hiệu quả, giảm bớt phiền hà cho nhân dân, tiến hành sắp xếp lại bộ máy, bước đầu thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, viên chức. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội đã có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động hướng về cơ sở, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, bồi dưỡng huấn luyện cán bộ, phát triển đoàn viên, hội viên… Bước sang thế kỷ XXI, cùng với cả nước, Nam Định đang ra sức đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu. nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong hành trang đi tới tương lai, lịch sử đấu tranh gìn giữ và xây dựng quê hương là một trong những di sản vô giá mà người dân Nam Định luôn trân trọng và phát huy. (violet.vn). In bài này. Gửi bài. Vùng đất Nam Định từ thế kỷ XI-XV 15:58' 19/10/2011 Trên mảnh đất này đã sản sinh ra những nhân vật lịch sử mà sự nghiệp của họ đã đi vào huyền thoại với những sự kỳ tích chẳng những bao trùm lên toàn bộ vùng đất Nam Định thời Lý mà còn là hiện tượng mang tầm vóc quốc gia. Đó là các vị thiền sư Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không và Giác Hải.. TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XV Lộ Hải Thanh, phủ Ứng Phong thời Lý Các triều Ngô - Đinh và Tiền Lê đã có công lớn lao trong sự nghiệp bảo vệ nền độc lập còn non trẻ, thống nhất đất nước và khẳng định vị thế của một quốc gia tự chủ, nhưng để đất nước tiếp tục đi lên cần có những cải cách toàn diện và sâu sắc. Triều Lý thành lập năm 1009 không chỉ đơn giản là sự thay thế vương triều mà thực sự là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam, mở ra thời kỳ phát triển mới cho dân tộc. Là một vương triều thực thi những chính sách cởi mở, triều Lý đã đưa quốc gia Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ. Cùng với sự chuyển mình của cả nước, Nam Định vốn từng là vùng đất căn bản dưới thời Ngô, Đinh và Tiền Lê đã nhanh chóng trở thành một vùng trọng yếu của quốc gia Đại Việt thời Lý. Nằm trong lộ Hải Thanh, phủ Ứng Phong, về đại thể, vùng đất này tương đương với đất của các huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Nam Trực và một phần của hai huyện Trực Ninh, Nghĩa Hưng hiện nay. Trên mảnh đất này đã sản sinh ra những nhân vật lịch sử mà sự nghiệp của họ đã đi vào huyền thoại với những sự kỳ tích chẳng những bao trùm lên toàn bộ vùng đất Nam Định thời Lý mà còn là hiện tượng mang tầm vóc quốc gia. Đó là các vị thiền sư Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không và Giác Hải. Không Lộ là một thiền sư tài trí hơn người đã có công lao giúp dân mở mang đất đai, chấn hưng văn hoá và nhất là đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nghề đúc đồng, một kỹ thuật có vai trò to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hoá không chỉ riêng cho Nam Định mà cả quốc gia Đại Việt khi đó. Sự tích và công lao của ông đã in sâu trong ký ức của nhân dân địaphương. Hầu như ngôi chùa cổ nào trên đất Nam Định có nguồn gốc kiến tạo từ thời Lý đều thờ ông. Hơn thế, về sau này, ở tất cả những nơi có nghề đúc đồng.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> truyền thống đều tôn ông lên thành Tổ nghề để thờ phụng. Tại chùa Phổ Minh, Nam Định từng có một vạc đồng được xếp vào hàng đại khí, tương truyền đều do Không Lộ chế ra. Minh Không vốn là người Đàm Xá, Đại Hoàng (nay thuộc Ninh Bình) nhưng sự nghiệp của ông hưng vượng từ đất Giao Thuỷ. Ông từng nhiều năm theo học thiền sư Từ Đạo Hạnh và nhận pháp danh là Minh Không. Sau khi đã chứng ngộ Chân không Bát nhã, Minh Không về trụ trì chùa Giao Thuỷ. Ông nổi tiếng là một thiền sư không chỉ thông kinh bác quyển mà còn giỏi nghề thuốc, có thể chữa được các bệnh nan y. Do có công chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông mà được triều Lý phong làm Quốc sư. Thiền sư Giác Hải cũng là người lộ Hải Thanh. Tài danh của Thiền sư sớm đồn vang khắp thiên hạ, trong giới sư tăng cũng như dân chúng đều hết sức khâm phục, mến mộ. Vua Lý Nhân Tông mỗi khi về hành cung Ứng Phong đều ghé về chùa thăm ông trước và thường “Lấy lễ tiếp đãi như thầy” (Thiền Uyển tập anh, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1990, tr 139). Cảm phục hai Thiền sư Giác Hải và Thông Huyền, vua Nhân Tông đã từng làm bài thơ khen ngợi: Giác Hải lòng như biển Thông Huyền đạo rất huyền Thần thông kiêm biến hoá Một Phật, một thần tiên. (Thơ văn Lý - Trần, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, t.1, tr77). Vùng đất Giao Thuỷ có các vị Pháp sư như Không Lộ, Minh Không và Giác Hải, những người thường xuyên được vua mời vào Kinh hoặc đến chùa vấn kế, chứng tỏ đây là nơi hội tụ đủ những điều kiện để sản sinh ra những nhân tài danh tiếng được cả nước biết đến. Một trong những thành tựu lớn của vương triều Lý là ổn định cương giới phía Nam. Tại chùa Cổ Chất (Phổ Quang tự) thuộc xã Phương Định (gần Cổ Lễ) hiện còn thờ 3 người thời Lý Nhân Tông có công đánh Chiêm Thành, mở mang đất đai xây dựng làng xóm. Đó là Nguyễn Công Tham, Nguyễn Công Văn và Nguyễn Công Phạm. Dưới thời Lý, Nam Định không những là một cửa ngõ của cả vùng châu thổ sông Hồng mà còn là một trung tâm kinh tế quan trọng. Các vua Lý đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vùng đất này. Qua các tư liệu lịch sử, ta biết trên đất Nam Định xưa, nhà Lý đã cho xây ít nhất hai hành cung làm nơi cho vua dừng chân nghỉ lại trong những lần đi kinh lý vùng đất này đó là Hải Thanh và Ứng Phong. Các vua Lý, đặc biệt là Lý Nhân Tông trong suốt 56 năm trị vị đất nước, sử chép 19 lần vua ngự giá tới các hành cung thì 11 lần ông tới xem cày hoặc xem gặt tại hành cung Ứng Phong. Dấu hiệu suy vong của triều Lý bắt đầu bộc lộ từ thời vua Lý Cao Tông (1176-1210) lên nắm quyền, nhất là từ sau khi Thái uý Tô Hiến Thành qua đời vào năm 1179. Đúng lúc triều Lý bất lực trong việc điều hành đất nước, vùng đất Nam Định lại là nơi hưng khởi của nhà Trần, một triều đại đầy sức sống đã đưa quốc gia Đại Việt phát triển lên một tầm cao mới. Nhà Trần hưng nghiệp Quê gốc hoàng tộc họ Trần ở hương Tức Mặc, xã Lộc Vượng (nay thuộc ngoại thành Nam Định), là một vùng đất có vị thế đẹp, sông lớn bao bọc ba mặt. Từ thời Lý, đây đã là một trung tâm kinh tế, văn hoá phát triển. Ngay tại Tức Mặc, thời Lý đã có chùa Phổ Minh, một danh lam nổi tiếng với đỉnh đồng kỳ vĩ được xếp vào hàng “tứ đại khí” của nước Đại Việt. Năm 1209, khi trong triều Lý có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hoá, Thái tử Sảm chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) giúp đỡ. Trong thời gian này, Thái tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung, con gái thứ hai của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc (thuộc tướng của Phạm Bỉnh), đưa vua Lý trở lại Kinh đô. Trần Lý được phong làm Minh tự, cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Sau khi Trần Lý bị một phe phái nổi loạn giết hại, người con thứ là Trần Tự Khánh được vua Lý phong tước Thuận Lưu bá. Năm 1211 Thái tử Sảm lên ngôi, lấy hiệu là Lý Huệ Tông, đón Trần Thị Dung về cung lập làm nguyên phi. Lúc này, Tô Trung Từ được phong Thái uý phụ chính. Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị thái hậu họ Đàm khống chế, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông, người chức cao, quyền lớn nhưng “không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày càng đổ nát” (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđđ, t I, tr 336). Năm 1216, lấy cớ Nguyên phi Trần thị làm phản, Đàm thái hậu buộc bà tự vẫn. Trước tình thế bức bách, không còn cách nào khác, Lý Huệ Tông đã phải bí mật rời khỏi Hoàng cung, cùng Trần thị trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Năm 1217, Lý Huệ Tông phát bệnh cuồng, không còn làm chủ được bản thân, các danh y trong nước được mời đến nhưng không thể chữa nổi, mọi việc vua đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ khi ấy là Chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Trần Thủ Độ đã sắp đặt để Lý Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh lấy hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và một năm sau đó vào tháng 12 năm 1225, Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần khởi nghiệp đế. Kế nghiệp nhà Lý khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng, họ Trần đã phải chống trọi với bao thử thách, khó khăn. Khi đất nước tạm yên, vào mùa thu năm 1231 vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) mới có.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> dịp chính thức về cố hương Tức Mặc, dâng lễ miếu, mở yến tiệc thết đãi và ban lụa cho các bô lão trong hương. Đầu năm 1258, quân Nguyên Mông ào ạt vượt qua biên giới, tiến công vào nước ta. Sau trận đầu thất lợi ở Bình Lệ Nguyên, nhà Trần quyết định rút lui khỏi Kinh thành Thăng Long, xuôi theo sông Hồng về đóng giữ ở Thiên Mạc. Trong khi đó, Linh Từ Quốc mẫu đưa Thái tử và vợ con các tướng tá về lánh nạn ở khu vực hành cung Tức Mặc. Không chỉ lo việc chăm sóc hoàng tộc, bà còn đi thu thập tất cả những vũ khí còn cất trong các thuyền đi lánh nạn để gửi ra cho quân đội đang trực tiếp chiến đấu. Hành cung Tức Mặc trở thành một hậu cứ lợi hại của nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất. Năm 1262, Thượng hoàng Trần Thái Tông đích thân đến Tức Mặc để xem xét việc mở rộng hành cung, nhà Trần đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường và cho xây dựng thêm một cung điện mới là cung Trùng Quang dành cho Thượng hoàng. Lại xây riêng một khu dành cho các vua nối ngôi về chầu gọi là cung Trùng Hoa. Ngôi chùa có từ thời Lý ở phía Tây cung Trùng Quang được tu tạo và mở rộng gọi là chùa Phổ Minh. Đầu năm 1285, hai cánh quân bộ của giặc Nguyên vượt qua biên giới của Đại Việt. Trước sức tiến công ào ạt của quân địch, nhà Trần một mặt triển khai lực lượng trấn giữ những nơi hiểm yếu và bố trí một trận đánh chặn bước tiến của địch trên sông Hồng, mặt khác chủ động tổ chức cuộc rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng. Hành cung Thiên Trường và Trường Yên trở thành nơi tập kết và củng cố lực lượng. Ngày 7-6-1285, quân ta do đích thân Thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông chỉ huy đã tiến công đánh tan quân địch ở Trường Yên. Chưa đầy một tháng sau, ngày 9-7-1285, quân Nguyên bị quét sạch khỏi bờ cõi nước ta. Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai của dân tộc ta toàn thắng. Sau thất bại thảm hại năm 1285, đế quốc Mông - Nguyên vẫn không cam tâm từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta, nhà Nguyên đã huy động tới 50 vạn quân không kể phu phục dịch cùng 500 chiến thuyền cho cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ ba. Với những kinh nghiệm tích luỹ được qua hai cuộc kháng chiến trước, một mặt nhà Trần chủ động tổ chức một cuộc rút lui chiến lược khiến quân địch không biết được bộ chỉ huy kháng chiến và đại quân ta ở đâu, mặt khác thực hiện kế hoạch tiêu diệt đoàn thuyền chở 17 vạn thạch lương do Trương Văn Hổ chỉ huy và bí mật xây dựng trận địa bãi cọc trên sông Bạch Đằng, chuẩn bị chiến trường cho một trận quyết chiến chiến lược. Hết hi vọng đánh nhanh, thắng nhanh và sợ bị tiêu diệt, ngày 30-03-1288, Thoát Hoan ra lệnh cho đại quân rút lui về nước, nhưng kế hoạch rút chạy của chúng đã không thành công. Đoàn binh thuyền của địch đã đã bị đánh tan trên sông Bạch Đằng ngày 9-4-1288. Ý chí xâm lược Đại Việt của nhà Nguyên hoàn toàn bị đè bẹp. Vua Trần đã để lại đời sau hai câu thơ bất hủ: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã; Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng) Năm 1305, vua Trần Anh Tông cho xây tháp Phổ Minh. Toà tháp có 13 tầng xây trên một bệ kiệu bằng đá trang trí viền cánh sen cao tới gần 20m. Đây là một công trình kiến trúc đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao và có giá trị nghệ thuật. Toà tháp đã tạo thêm vẻ bề thế cho quần thể kiến trúc chùa Phổ Minh. Tức Mặc không chỉ gắn bó với các Thái Thượng hoàng mà còn là nơi sinh ra và nuôi dưỡng khí chất cho nhiều hoàng thân quốc thích nhà Trần, mà trong số đó nhiều người trở thành những nhân vật kiệt xuất. Tiêu biểu trong số đó là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Gắn bó với khu vực hành cung Thiên Trường còn phải kể đến những nhân vật lịch sử lỗi lạc như Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải và Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật. Có một vị trí như kinh đô thứ hai sau Thăng Long, hành cung Thiên Trường sớm trở thành một trung tâm văn hoá, đất Nam Định đã nổi lên một nhân tài kiệt xuất, đỗ Trạng nguyên khi tròn 13 tuổi đó là Nguyễn Hiền. Triều Trần bắt đầu bước vào thời kỳ suy vi từ sau khi thượng hoàng Minh Tông qua đời vào năm 1357 và buộc phải rời bỏ vũ đài chính trị vào năm 1400. Trị vì đất nước 175 năm, triều Trần đã có những đóng góp hết sức lớn lao với lịch sử dân tộc. Với hào khí Đông A, nhà Trần đã đưa đất nước vào một thời kỳ thịnh trị bằng những thành tựu đặc sắc trên mọi phương diện quân sự, kinh tế và văn hoá. Những người con ưu tú của đất Nam Định thời Trần mà tiêu biểu là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, nhưng ông vua anh hùng như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông... đã trở thành những vị thánh trong lòng dân, được thờ phụng ở khắp mọi miền của đất nước. NAM ĐỊNH TRONG THẾ KỶ XV Dưới thời thuộc Minh. Năm 1407, sau khi đánh bại cuộc kháng kháng chiến của nhà Hồ, giặc Minh bắt đầu thiết lập chính quyền đô hộ trên đất nước ta, chúng chia nước ta làm 15 phủ. Phần đất Nam Định lúc ấy thuộc phủ Kiến Bình và Phụng Hoá..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Cùng với cả nước, đất Nam Định trong suốt thời kỳ quân Minh đô hộ chưa khi nào nguôi tắt ngọn lửa đấu tranh dưới nhiều hình thức của nhân dân chống quân xâm lược. Ngay trong những ngày tháng đầu tiên, người Nam Định đã tiến hành khởi nghĩa chống giặc Minh mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi. Nhân dân Nam Định trong khởi nghĩa Lam Sơn. Gia phả, truyền thuyết ở các làng Tương Loát (Ý Yên), Bách Cốc (Vụ Bản), Vân Tràng (Nam Trực) phản ánh phần nào việc tham gia của nhân dân Nam Định vào công cuộc khácg chiến chống Minh dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Lê Lợi - Nguyễn Trãi những năm 1417-1427.Những người thợ rèn Vân Tràng đã cung cấp dao, giáo mác, thiết lệnh, phi lao cho nghĩa quân Lam Sơn. Tại làng Tương Loát có anh em Ngô Quý Dật, Ngô Ái Tường cùng nổi dậy chống Minh. Bùi Ư Đài, người làng Bách Cốc theo nghĩa quân được Lê Lợi phong làm Thượng thư bộ Lễ... Đặc biệt theo tương truyền việc đánh thành Cổ Lộng là vô cùng gian khổ. quyết liệt; trong đó có công lớn của bà Lương Minh Nguyệt, sau được vua Lê Lợi phong là Kiến Quốc công trinh liệt phu nhân, cấp cho 100 mẫu ruộng... Sắc phong năm Hồng Đức nguyên niên thời Lê Thánh Tông có ghi: ”...Bà ngang tiếng với vua Trưng Vương”. Nam Định trong sự nghiệp xây dựng nước Đại Việt thời Lê sơ (1428 - 1527). Vùng đất nam sông Hồng - trong đó địa bàn chủ yếu là Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình ngày nay, từ nửa cuối thế kỷ XV, được triều đình nhà Lê quan tâm đặc biệt. Trên vùng ven biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả to lớn của nhân dân Đại Việt đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ. Trong vòng 100 năm của thời Lê sơ, Nam Định có đến 22 tiến sĩ (chiếm gần 1/4 tổng số đại khoa của Nam Định trong suốt lịch sử thi cử Nho học 1075-1919). Đại bộ phận số đại khoa này đều đỗ vào nửa sau thế kỷ XV, cho nên có thể nói Nho học ở Nam Định đã thực sự có bước phát triển mới từ sau sự kiện Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên (1463).. Vùng đất Nam Định từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX 16:7' 19/10/2011 Trong bối cảnh rối ren, loạn lạc ấy đại diện cho tập đoàn phong kiến vùng ven biển Đông Bắc là Mạc Đăng Dung đã giành được ngôi vua, thiết lập một vương triều mới vào năm 1527. Tuy có ban hành được một số chính sách tích cực, nhưng nhà Mạc vẫn không đưa được đất nước ra khỏi tình trạng hỗn loạn.. TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII Những biến động chính trị Sau thời kỳ phát triển toàn thịnh của Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền dưới thời Lê Thánh Tông, đến đầu thế kỷ XVI, triều Lê sơ bước vào thời kỳ suy yếu, khủng hoảng. Các ông vua Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông rồi đến Cung Hoàng đều là những người hèn yếu, lười biếng, ham mê hưởng lạc, nhưng lại tham lam, tàn bạo. Tại địa phương, những cuộc nổi dậy chống triều đình nổ ra khắp nơi. Trong bối cảnh rối ren, loạn lạc ấy đại diện cho tập đoàn phong kiến vùng ven biển Đông Bắc là Mạc Đăng Dung đã giành được ngôi vua, thiết lập một vương triều mới vào năm 1527. Tuy có ban hành được một số chính sách tích cực, nhưng nhà Mạc vẫn không đưa được đất nước ra khỏi tình trạng hỗn loạn. Năm 1553, Nguyễn Kim đưa Lê Duy Ninh là cháu xa đời Lê Thánh Tông lên làm vua ở đất Ai Lao, sau đưa về Thanh Hóa khôi phục nhà Lê hình thành nên cục diện mà sử gọi là Nam - Bắc triều kéo dài từ 1533 đến 1592. Vua Lê có Nguyễn Kim sau đó là họ Trịnh phò tá chiếm giữ vùng đất từ Thanh Hóa trở vào gọi là Nam triều. Sau khi Nam triều về cơ bản đã giành được thắng lợi trước họ Mạc thì mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Trịnh Nguyễn trở nên gay gắt tới mức làm bùng nổ cuộc xung đột vũ trang mới, kéo dài từ 1627 đến 1672. Kết cục của cuộc chiến tranh này là sự chia cắt đất nước thành hai miền. Mãi tới năm 1786, với sự kiện quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, ranh giới sông Linh Giang (sông Gianh) mới bị xóa bỏ, tạo tiền đề cho sự thống nhất đất nước. Nằm trong vùng cửa sông, có vị trí chiến lược quan trọng, lại có đồng bằng trù phú, đông người nhiều của, đã từng có kho lương thực và vũ khí rất lớn ở Vị Hoàng, Nam Định đã chứng kiến rất nhiều trận chiến lớn ác liệt giữa Nam - Bắc triều, Trịnh - Tây Sơn. Các trận chiến diễn ra ở vùng đất này chủ yếu là thủy chiến. Trong chiến thắng vang dội giải phóng đất nước của quân Tây Sơn mùa xuân năm 1789 có phần đóng góp xứng đáng của nhân dân Sơn Nam Hạ nói chung, Nam Định nói riêng thể hiện qua văn bia ở các đình, đền trong vùng và đặc biệt là lễ hội ăn Tết “Mùng cùng” tại làng Lương Kiệt. Chuyển biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong các thế kỉ XVI - XVIII, nhân dân vùng đất Nam Định vẫn sống chủ yếu nhờ vào nông nghiệp. Trong tình hình chính trị biến động rối ren, để duy trì và bảo vệ cuộc sống của mình, người nông dân Sơn Nam phải tự mình lo mở rộng các công trình thủy lợi, bảo vệ đê điều và tăng cường khai hoang mở rộng diện tích.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> canh tác. Một ví dụ điển hình không chỉ riêng cho Nam Định mà cho cả vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ là sự mở rộng phạm vi làng của xã Quần Anh huyện Hải Hậu vào các thế kỷ XVI - XVIII. Nhờ đồng đất màu mỡ phù sa, người nông dân cần cù sáng tạo nên vùng đồng bằng Sơn Nam, trong đó có Nam Định, vào thế kỉ XVIII là nơi khá trù phú so với các nơi khác. Về kinh tế thủ công nghiệp, nhiều nghề vốn đã có ở Nam Định từ sớm như dệt vải ở Thiên Bản, nghề làm đồ mộc ở La Xuyên, rèn Vân Tràng, nghề đóng thuyền ở Giao Thủy, nghề dệt chiếu, nghề làm gạch ngói đặc biệt là nghề làm muối ở dải bờ biển phủ Thiên Trường, Nghĩa Hưng... đến thế kỷ XVI đã có bước phát triển vượt bậc. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống, có một số nghề mới được nhập vào. Chẳng hạn nghề đan lát tại làng Vĩnh huyện Ý Yên cuối thế kỷ XVII. Nhìn chung, các nghề thủ công đã bắt đầu có xu hướng hình thành các làng nghề. Ngoài các làng nghề chuyên chế biến thủy, hải sản, làm mắm và nấu rượu..., vào đầu thế kỷ XVIII đã xuất hiện loại hình làng chuyên buôn bán, trong đó Báo Đáp là một điển hình. Tuy nhiên, các làng thủ công và làng buôn vẫn chưa hoàn toàn tách rời khỏi nông nghiệp. Vào thế kỷ XVII - XVIII, ở Nam Định đã có một mạng lưới chợ khá dày đặc, nổi lên giữa một mạng lưới chợ và thị trường địa phương rộng lớn ấy là một số đô thị đang hình thành và phát triển. Ở hai xã Tức Mặc và Năng Tĩnh, thuộc huyện Mỹ Lộc đã xuất hiện và phát triển một khu thương mại đó là chợ Vị Hoàng. Tại đây cũng hình thành một số dãy phố chính như phố Vị Hoàng, phố Đông Mặc, phố chợ Kim Lũ. Phía giáp bờ sông Đào, nơi bến Đò Quan có phố Nứa, phố Hàng Thóc, phố Bến Ngự. Vào sâu, về phía tây có phố Hàng Đồng, Hàng Tiện, Hàng Sắt...Có thể nói, Vị Hoàng bước đầu trở thành một khu đô thị mà phần thị đang có xu hướng phát triển hòa nhịp với một loạt đô thị ven sông biển vào thế kỷ XVII - XVIII ở Bắc Bộ. Chuyển biến trong đời sống văn hóa. Theo thống kê, trong khoảng thời gian dưới triều Mạc và Lê - Trịnh, đất Nam Định đã có 26 người đỗ đại khoa (tiến sĩ trở lên). Trong đó nhiều nhất là huyện Nam Trực (11 người), tiếp đó là huyện Ý Yên (4 người) rồi đến huyện Nghĩa Hưng (3 người). Trong số 3 vị trạng nguyên người Nam Định, có một vị đỗ đạt và làm quan dưới triều Mạc. Đó là Trạng nguyên Trần Văn Bảo (1524 - 1586). Ông quê ở làng Cổ Chử, huyện Giao Thủy (nay thuộc xã Hồng Quang huyện Nam Trực. Ông đỗ năm Canh Tuất (1550), khi 27 tuổi, được phong tước hầu, làm quan đến chức Thượng thư bộ Lại, đã từng được cử đi sứ nhà Minh. Ở vùng đất Sơn Nam nói chung, Nam Định nói riêng, trong vòng hơn hai thế kỷ, Phật giáo phát triển khá mạnh. Tín đồ đạo Phật ngày càng đông đảo, nhiều ngôi chùa cũ được tu bổ, nhiều ngôi chùa mới được xây dựng. Các ngôi chùa lớn như: chùa Keo, chùa Lương, chùa Chính... đều được trùng tu hoặc xây dựng mới vào khoảng thế kỷ XVII. Ngoài Phật giáo, vào thời kỳ này Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian cũng phát triển, trong đó nổi bật nhất là tục thờ mẫu Liễu Hạnh. Phủ Giầy và tục thờ mẫu Liễu Hạnh là một nét đặc sắc trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Một trong những nét hoàn toàn mới trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân vùng đồng bằng ven biển Nam Định ở các thế kỷ XVI - XVIII là sự du nhập đạo Thiên Chúa do người châu Âu truyền bá được coi là đầu tiên ở miền Bắc nước ta. Như vậy có thể thấy bức tranh sinh hoạt văn hóa, tư tưởng, tín ngưỡng ở vùng đất Nam Định trong các thế kỷ XVI - XVIII khá phong phú, đa chiều và cũng không kém phần phức tạp. NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX (Dưới triều Nguyễn). Tổ chức hành chính. Năm 1802, cuộc chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và các thế lực tàn dư của chế độ chúa Nguyễn ở Đàng trong cơ bản kết thúc với việc Nguyễn Ánh chiếm thành Thăng Long. Một vương triều mới được thành lập triều Nguyễn (1802 - 1945). Dưới thời Nguyễn, bộ máy hành chính không ngừng được kiện toàn từ trung ương cho đến địa phương, đặc biệt là sau những cải cách lớn dưới triều vua Minh Mệnh (1820 - 1840). Tình hình kinh tế. Cuối thế kỷ XVIII, với những biến động dữ dội, nền kinh tế Việt Nam bị tàn phá nghiêm trọng. Nhà Nguyễn lên cầm quyền ý thức rất rõ điều này và thông qua các chính sách được ban hành trong suốt nửa thế kỷ đã thể hiện rõ ý định nhanh chóng khôi phục và phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nền kinh tế Việt Nam dưới thời Nguyễn phát triển rất chậm chạp, rồi mau chóng đi đến chỗ sa sút, khủng hoảng. Nhìn chung, công cuộc khai hoang, phục hoá dưới thời Nguyễn, đặc biệt là khai phá các vùng đất mới, được nhà nước rất chú ý, coi đó là một giải pháp quan trọng nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Trong lịch sử khẩn hoang vùng đất Nam Định có hai đợt được tiến hành với quy mô lớn và đạt kết quả hơn cả: lần thứ nhất dưới thời Lê Thánh Tông cuối thế kỷ XV và lần thứ hai vào thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Đó là một thành tựu đáng ghi nhận. Thành tựu này có phần đóng góp không nhỏ của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ. Các ngành thủ công và làng nghề truyền thống xuất hiện từ các giai đoạn lịch sử trước đây tiếp tục phát triển trong thế kỷ XIX. Ngoài những làng nghề thủ công nổi tiếng như rèn Vân Tràng, chạm gỗ La Xuyên....
<span class='text_page_counter'>(12)</span> thì sách Đại Nam nhất thống chí chép về các làng dệt có tiếng như Vân Cát, huyện Thiên Bản (nay là huyện Vụ Bản), Tương Đông, Vũ Lao, Hành Thiện, Hà An, huyện Giao Thuỷ (nay là hai huyện Xuân Trường và Giao Thuỷ), trong đó nổi tiếng nhất là Vân Cát. Các làng như Quần Anh (nay thuộc Hải Hậu), Trà Lũ, Đại An, Thụ Ích, An Thịnh, Lạc Hải (nay thuộc hai huyện Xuân Trường và Giao Thuỷ) có nghề dệt chiếu. Làng Hào Kiệt, huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản) có nghề nấu rượu ngon nổi tiếng. Mắm rươi ngon có ở làng Quần Liêu, huyện Đại An (nay là huyện Nghĩa Hưng), làng Dũng Quyết, Lạc Chính, Dưỡng Hối, huyện Ý Yên, các làng Bồng Tiên, Hành Thiện, Dũng Nhuệ, Hội Khê, Trà Hải, huyện Giao Thuỷ... Trong lĩnh vực thương nghiệp, hệ thống chợ làng mở rộng tạo thành một mạng lưới rộng khắp. Nổi tiếng nhất là chợ Vị Hoàng (thuộc xã Vị Hoàng), còn có tên là chợ Vị Xuyên thuộc tổng Đông Mặc, nay là thành phố Nam Định. Các làng chuyên nghề buôn đã xuất hiện từ hàng trăm năm trước vẫn tiếp tục duy trì ở thế kỷ XIX. Đầu thế kỷ XIX, khu vực trung tâm thành phố Nam Định ngày nay đã trở thành một nơi phố xá đông đúc, buôn bán tấp nập. Tình hình xã hội và khởi nghĩa nông dân. Có một thực tế lịch sử dễ nhận thấy là xã hội Nam Định dưới thời Nguyễn luôn trong tình trạng không ổn định. Dưới thời Nguyễn, các cuộc nổi dậy chống lại triều đình diễn ra liên tục, trên khắp các địa bàn. Trên thực tế không phải tất cả các cuộc nổi dậy đều là các phong trào đấu tranh xã hội hay khởi nghĩa nông dân. Tuy nhiên, trong số đó, hoạt động bao trùm vẫn là các cuộc khởi nghĩa nông dân đích thực. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở vùng Sơn Nam Hạ cũng là một trong số các phong trào nông dân tiêu biểu nhất dưới triều Nguyễn là cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành. Cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành cũng như toàn bộ phong trào nông dân khởi nghĩa dưới thời Nguyễn trước sau đều bị đàn áp. Mặc dù thất bại, các cuộc nổi dậy, trong đó khởi nghĩa Phan Bá Vành là một trường hợp tiêu biểu, một lần nữa khẳng định tinh thần quật khởi và năng lực to lớn của nông dân Việt Nam.. (violet.vn). Sự ra đời của tổ chức cộng sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở tỉnh Nam Định (1929-1945) 16:36' 19/10/2011 Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Để phát triển, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã cử người về nước vận động, lựa chọn và đưa người sang Quảng Châu để đào tạo. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THEO ĐƯỜNG LỐI CỘNG SẢN Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Nam Định. Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Để phát triển, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã cử người về nước vận động, lựa chọn và đưa người sang Quảng Châu để đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về chính trị, tổ chức. Giữa năm 1925, Lê Hồng Sơn, phái viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ Quảng Châu về Nam Định gặp Đinh Chương Dương đặt vấn đề vận động thanh niên yêu nước ở Nam Định sang Quảng Châu học tập. Sự kiện này diễn ra tại ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự và một số cơ sở ở Cát Đằng, huyện Ý Yên. Từ giữa năm 1926 đến đầu năm 1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phát triển mạnh mẽ ở Nam Định, đến cuối năm 1927, đã có đến tám chi hội hoạt động. Tháng 9-1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ đã cử Nguyễn Danh Đới làm đại diện cho Kỳ bộ về Nam Định tổ chức họp mặt với ba cán bộ chủ chốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Định là Nguyễn Văn Hoan, Vũ Huy Hào và Trần Trung Tín. Một Ban chấp hành Tỉnh bộ lâm thời gồm ba người do Nguyễn Văn Hoan làm bí thư đã được thành lập. Đến cuối năm 1928, các chi hội đã lan rộng đều trên phạm vi toàn tỉnh, từ thành phố xuống nông thôn. Mùa hè năm 1928, Đặng Xuân Khu (tức Trường Chinh) đã lập ra tờ Dân cày để phục vụ công tác tuyên truyền quần chúng. Báo tồn tại đến ngày 1-5-1931 thì phải đình bản. Từ khi có tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra quyết liệt, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi Nam Định (ngày 23-11-1928), cuộc đình công của toàn bộ phu kéo xe Nam Định (ngày4-10-1929), đặc biệt là cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi (tháng 3-1929) đã gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh cả nước. Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập. Ngày 19-6-1929, Ban Tỉnh ủy lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định được thành lập, bao gồm Nguyễn Hới (Bí thư), Phạm Văn Ngọ và Lê Ngọc Rư. Trụ sở của Ban Tỉnh ủy được đặt tại ngôi nhà số 12, phố Năng Tĩnh và một số ngôi nhà khác ở thôn Mỹ Trọng, xã Mỹ Xã. Ngay từ đợt đầu tiên, ở Nam Định đã có 250 hội viên được kết nạp vào Đảng, trong đó công - nông chiếm đa số (75%)..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định đã tỏ rõ sức chiến đấu và khả năng tổ chức của mình bằng việc phát động nhiều cuộc đấu tranh sôi nổi ở các nhà máy. Chỉ trong vòng hơn một tháng đã nổ ra bốn cuộc bãi công của thợ Nhà máy đèn (ngày 19-6); thợ nề (ngày 4-7); thợ nhuộm, thợ guồng Nhà máy sợi (từ ngày 7 đến 18-7-1929) và nữ công nhân máy lờ từ ngày 20 đến 21-7-1929. Tất cả các cuộc bãi công đều thu được thắng lợi. Nam Định trong cao trào cách mạng 1930-1931. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngay sau đó Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định trở thành một Đảng bộ thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này là bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, tạo nên chuyển biến lớn cho phong trào cách mạng Nam Định. Đầu tiên là cuộc đấu tranh của nữ công nhân Nhà máy chiếu ngày 15-3-1930, sau đó 10 ngày là cuộc tổng bãi công của toàn thể công nhân Nhà máy sợi với mức độ quyết liệt và quy mô lớn chưa từng có. Cuộc đấu tranh của gần 4.000 công nhân Nhà máy sợi trong 21 ngày gian khổ chính thức mở đầu cao trào cách mạng 1930-1931 của toàn tỉnh và cũng góp phần vào cao trào cách mạng toàn quốc do Đảng lãnh đạo. Từ ngày 25-7 đến 25-9-1930, liên tiếp nổ ra sáu cuộc bãi công, biểu tình của công nhân xưởng dệt Nhà máy sợi và Nhà máy tơ. Các hoạt động khác như cuộc mít tinh ngày 22-10-1930, kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga vào tối 6-11 và ngày 7-11-1930 diến ra khắp nơi. Tháng 2-1931, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thôn bộ, sau đó cùng với tờ báo Tiền phong, Tỉnh ủy còn xuất bản thêm tờ Nông dân (sau đổi là Hưởng ứng) để tuyên truyền đường lối cách mạng cho đảng viên và quần chúng nông thôn. Cao trào cách mạng 1930-1931 đã ghi lại một trang sử vẻ vang trong lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân Nam Định. Nam Định trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương 1936-1939. Mùa hè năm 1936, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ nhất, quyết định tạm gác khẩu hiệu: “Đánh đổ đế quốc Pháp” và “Tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày”, lập Mặt trận nhân dân phản đế (sau đổi là Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Từ ngày 31-10-1935 đến ngày 6-10-1937 tại Nam Định đã nổ ra 33 cuộc đấu tranh - một kỷ lục về các cuộc đấu tranh từ trước tới giờ. Nổi bật là cuộc đấu tranh có quy mô lớn chưa từng thấy của 8.000 công nhân Nhà máy sợi kéo dài hơn một tháng từ 2-2-1937 đến 3-3-1937. Tháng 5-1937, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập lại do Đặng Hữu Rạng làm bí thư, sau đó Trần Hoạt được cử làm bí thư. Lúc này ngoài các đại lý sách báo cánh tả của Đảng tuyên truyền các sách báo cách mạng và tiến bộ, nhiều sách báo từ Hà Nội chuyển về cũng được phân phát khắp nơi như: Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp), Nhật ký tuyệt thực chín ngày rưỡi của Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ)... Tháng 3-1938, Tỉnh ủy tổ chức một cuộc mít tinh với hơn 4.000 người tham gia, lấy danh nghĩa là đưa tiễn Công sứ Alơmăng, nhưng thực chất là cuộc biểu dương lực lượng đòi tự do lập nghiệp đoàn, tự do hội họp, đòi tăng lương... ngay tại sân ga Nam Định. Phát huy khí thế trên, ngày 29-7-1938, Đảng bộ lại tổ chức công nhân biểu tình lấy cớ “đón thống sứ Saten (Châtel)” để đưa yêu sách đòi tự do dân chủ. Cũng năm 1938, Đảng bộ Nam Định còn vận động được đông đảo quần chúng về dự mít tinh lớn ở khu Đấu Xảo (Hà Nội) để kỷ niệm ngày Quốc tế lao động nhằm ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, phản đối bọn phản động thuộc địa, đòi tự do dân chủ và yêu cầu phòng thủ Đông Dương. NAM ĐỊNH TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (19391945) Chống khủng bố, khôi phục phong trào. Ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Không chỉ Pháp mà xứ Đông Dương thuộc Pháp cũng bị lôi kéo vào chiến tranh. Cùng với việc vơ vét, lùng bắt trai tráng thanh niên vào lính phục vụ chiến tranh, thực dân Pháp thẳng tay triệt phá phong trào cách mạng, tiến công vào Đảng Cộng sản. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ sáu (11-1939) về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, Tỉnh ủy Nam Định đã quyết định ba nhiệm vụ trước mắt là: Củng cố các cơ sở đảng, tiếp tục duy trì phát triển các tổ chức quần chúng; tuyên truyền, giáo dục nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ nâng cao tinh thần quyết tâm chống đế quốc, giải phóng dân tộc; lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi thiết thực. Đầu năm 1940, Đảng bộ đã thành lập Đoàn thanh niên phản đế gồm 15 người chọn từ Đoàn Thanh niên dân chủ chuyển sang. Đảng bộ đã tổ chức các hoạt động phù hợp như treo cờ Đảng, phát tán truyền đơn ở những nơi quan trọng, kêu gọi đấu tranh chống tăng giờ làm, chống bắt phu, bắt lính, sung công tài sản,... Cuối tháng 9-1940, quân Nhật tiến vào chiếm đóng Đông Dương, toàn dân tộc ta lâm vào cảnh “một cổ hai tròng”. Trong bối cảnh đó, tiếng súng khởi nghĩa ở Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), Nam Kỳ, Đô Lương đã thôi thúc mạnh mẽ tinh thần cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Cờ Đảng lại tung bay trên cây gạo ở Trình Xuyên (Vụ Bản). Đội tự vệ ở Hà Cát được thành lập. Đầu tháng 5-1941, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ tám họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị tiếp tục hoàn thiện việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Đảng trong tình hình mới, quyết định tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Minh), xây dựng lực lượng cách mạng cả về chính trị và quân sự, cả ở miền núi, nông thôn và thành thị, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Cao trào kháng Nhật, cứu nước (tháng 3-1945 đến tháng 8-1945). Ngày 9-3-1945, Nhật làm đảo chính quân sự, lật đổ chính quyền thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Cùng với chính sách quân sự phát xít, chính sách vơ vét cạn kiệt lương thực, thực phẩm của Nhật đã khiến cho 212.218 nguời dân Nam Định chết thê thảm trong nạn đói đầu năm 1945. Mặc dù phát xít Nhật dùng mọi thủ đoạn để khống chế phong trào cách mạng, nhưng ở nhiều nơi quần chúng đã phẫn uất tiến hành phá tài sản của Nhật, tự vệ thành phố đốt kho xăng dầu ở bến đò Chè (Thành phố Nam Định), đốt kho đay ở làng Gạo (Vụ Bản)... Sau Hội nghị Ban Cán sự tại Quần Liêu nghiên cứu Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, phong trào cách mạng tại Nam Định lại được tăng cường lực lượng, cao trào cách mạng ngày càng dâng cao. Đặc biệt, đội tuyên truyền xung phong của Tỉnh hoạt động rất tích cực, có bắn súng, đốt pháo, diễn thuyết và phát truyền đơn liên tiếp, khắp nơi. Khởi nghĩa giành chính quyền. Trong khoảng thời gian rất ngắn (từ ngày 9-3-1945 đến tháng 8-1945), Đảng bộ Nam Định đã gấp rút xây dựng lực lượng, chuẩn bị mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa. Ngày 14-8-1945, Nhật Hoàng phải tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo điều kiện khách quan hết sức thuận lợi cho cách mạng Việt Nam bùng nổ. Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng đã phát bản Quân lệnh số 1, hiệu triệu toàn dân vùng lên giành chính quyền. Từ ngày 17-8 đến ngày 22-8, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và mặt trận Việt Minh, nhân dân ở các địa phương đã nhất tề nổi dậy đập tan bộ máy thống trị của đế quốc, phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Ngày 17-8, khởi nghĩa thành công ở huyện Trực Ninh. Ngày 18-8, khởi nghĩa thành công ở huyện Nam Trực. Chiều tối ngày 18-8, Đội Danh dự đã phát báo, dùng loa phóng thanh tuyên truyền khởi nghĩa ở Chợ Rồng, hàng ngàn người kéo tới dự tạo thành cuộc mít tinh lớn. Trước khí thế mãnh liệt của quần chúng, ngày 19-8, chính quyền bù nhìn và phát xít Nhật đã phải trả thả hầu hết các chính trị phạm bị giam giữ. Trong đêm 20 và sáng ngày 21-8, truyền đơn kêu gọi nhân dân mít tinh được rải khắp nơi. Chiều hôm đó, cả thành phố là một rừng cờ đỏ sao vàng. Đến 3 giờ chiều, cuộc mít tinh khai mạc. Gần ba vạn quần chúng hân hoan hưởng những giờ phút độc lập đầu tiên trong đời. Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định được thành lập gồm bảy người do Đặng Châu Tuệ làm chủ tịch. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Nam Định do Nguyễn Văn Hoan làm chủ tịch ra mắt nhân dân. Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định diễn ra nhanh gọn. Chỉ trong vòng sáu ngày (từ 17-8 đến 22-8), toàn bộ chính quyền địch từ tỉnh đến huyện đã sụp đổ hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử, một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người dân. Với cuộc cách mạng Tháng Tám, lịch sử Nam Định cùng cả nước bước sang một trang mới.. Từ khởi nguồn đến cuối thế kỷ X 15:51' 19/10/2011 Dưới thời Hùng Vương, đời sống kinh tế của cư dân vùng đất Nam Định đã có những biến chuyển đáng kể. Nghề trồng lúa nước, nghề chăn nuôi, nghề làm gốm và nghề chế tác đá đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là sự xuất hiện của nghề luyện kim, đúc đồng. THỜI DỰNG NƯỚC. Dưới thời Hùng Vương, đời sống kinh tế của cư dân vùng đất Nam Định đã có những biến chuyển đáng kể. Nghề trồng lúa nước, nghề chăn nuôi, nghề làm gốm và nghề chế tác đá đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là sự xuất hiện của nghề luyện kim, đúc đồng. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, nhân dân xã Thanh Côi, nay thuộc thị trấn Gôi, huyện Vụ Bản, khi đào đất đắp đường đã phát hiện ba chiếc trống đồng lớn. Trống đồng này có thể xếp vào loại I điển hình của nền văn hoá Đông Sơn, hiện vật tiêu biểu của thời đại các vua Hùng. Việc phát hiện ra một sưu tập trống đồng ở chân núi Gôi đã khẳng định chủ nhân của những hiện vật này đã định cư ổn định tại địa phương. Đó là một bộ phận cư dân nước Văn Lang trong thời đại dựng nước trên đất Nam Định..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Cư dân thời Hùng Vương vừa mới vươn lên từ chế độ Công xã nguyên thuỷ với cuộc sống thiên nhiên đầy khó khăn gian khổ giữa rừng rậm đã phải đương đầu với nhiều kẻ thù xâm lược. Chống ngoại xâm đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự lớn mạnh của xã hội Văn Lang. Thời đại Hùng Vương đã mở đầu kỷ nguyên văn minh của dân tộc. Lịch sử Việt Nam từ đó đến nay luôn là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài của lịch sử đất nước, nhân dân các làng, xã của Nam Định đã đời đời kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của ông cha, góp phần viết nên những thiên anh hùng ca bất hủ cho quê hương đất nước. THỜI KỲ ĐẤU TRANH CHỐNG ÁCH ĐÔ HỘ PHƯƠNG BẮC (179 TCN - 938) Sau khi nước Âu Lạc bị Triệu Đà đánh chiếm vào năm 179 TCN, đất nước bước vào một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm. Nam Định lúc đó nằm trong quận Giao Chỉ. Do điều kiện thuận lợi cho nghề trồng lúa nước, vùng đất Nam Định trở thành một trung tâm nông nghiệp từ rất sớm. Trên cơ sở một nền văn hoá bản địa vững chắc thể hiện bản lĩnh, cá tính, lối sống và truyền thống mà cốt lõi là ý thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu quê hương, đất nước, cư dân Nam Định cổ đã tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, làm phong phú thêm văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, nét bao trùm lên lịch sử thời kỳ Bắc thuộc trên đất Nam Định vẫn là cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ và âm mưu đồng hoá của phong kiến ngoại bang, mà tiêu biểu là nhân dân Nam Định nói chung và đặc biệt là phụ nữ, đã hăng hái tham gia và nhanh chóng đứng dưới ngọn cờ nghĩa của Hai Bà Trưng (Đầu năm 40) chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán. Theo tư liệu lịch sử hiện có, Nam Định có tới 20 tướng lĩnh cả nam lẫn nữ tham gia cuộc khởi nghĩa này. Dấu tích về các tướng lĩnh tham gia khởi nghĩa tập trung nhiều ở huyện Vụ Bản, như: Lê Thị Hoa ở Phú Cốc, Chu Liên Hoa ở làng Vậy, Dung Nương và Phương Dung ở làng Cựu, Trần Cao Đạo ở làng Riềng, Bùi Công Mẫn ở xã Trung Thành... Năm 542, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Lương. Sau bốn năm chiến đấu anh dũng, cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi, Lý Bí lên ngôi, xưng Hoàng Đế, xây dựng nước Vạn Xuân độc lập. Đóng góp vào cuộc khởi nghĩa này, Nam Định có tướng quân Hoàng Tề ở làng Lập Vũ (nay thuộc xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản). Ông được Lý Bí phong chức Túc vệ tướng quân, ban gươm báu và luôn cho hầu bên mình. Khi Lý Bí qua đời, Hoàng Tề theo Triệu Quang Phục chiến đấu trong căn cứ đầm Dạ Trạch (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Những tấm gương đó là niềm kiêu hãnh, tự hào của nhân dân Nam Định và trở thành một truyền thống quý báu của địa phương, thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất và sức sống mãnh liệt của nhân dân Nam Định nói riêng, của dân tộc ta nói chung. Nhờ tinh thần đó mà nhân dân ta đã giành lại được độc lập vào thế kỷ X. VÙNG ĐẤT NAM ĐỊNH DƯỚI THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ (938-1009) Vào cuối năm 938, nhân cơ hội Kiều Công Tiễn phái người sang cầu cứu nhà Nam Hán, vua Nam Hán là Lưu Cung lập tức điều động một lực lượng binh thuyền lớn, giao cho con là Vạn vương Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, thống lĩnh đại quân tiến đánh nước ta. Nền độc lập của dân tộc vừa mới được phục hồi lại bị đe doạ nghiêm trọng cả từ bên ngoài lẫn bên trong. Đất nước lại đứng trước cuộc thử thách mới hết sức gay go, ác liệt. Trước yêu cầu của lịch sử, Ngô Quyền xuất hiện và trở thành trung tâm đoàn kết mọi lực lượng kháng chiến, trung tâm tập hợp và quy tụ mọi nguồn sức mạnh của dân tộc. Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền là một mốc son vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam ta. Nó chấm dứt vĩnh viễn hiểm hoạ nô dịch và đồng hoá hơn nghìn năm của kẻ thù phương Bắc, mở ra một kỷ nguyên độc lập lâu dài và phục hưng toàn diện của dân tộc. Tham gia vào chiến công chói lọi đó không thể không nhắc đến những người con ưu tú của đất Nam Định như tướng quân Trần Lãm, Tả tướng tiên phong Nguyễn Công Thành (Người còn có công lập ra Nguyễn Gia trang tức làng hoa Vị Khê nổi tiếng sau này). Sau khi Ngô Quyền mất, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ... Bấy giờ trong nước không có chủ, 12 sứ quân tranh nhau làm trưởng, không ai chịu thống thuộc vào ai”. Đất Nam Định dần dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào kiệt bốn phương. Và Đinh Bộ Lĩnh - người anh hùng “tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời” không thể không tìm về vùng đất duyên hải cửa sông này. Với nhiều cách thức khác nhau, nhân dân địa phương đã tích cực tham gia vào sự nghiệp thống nhất đất nước thế kỷ X của Đinh Bộ Lĩnh. Dù trực tiếp hay gián tiếp, những người có tên họ cụ thể và cả những người không được nhắc đến đều góp phần làm chuyển đổi về căn bản thế và lực của Đinh Bộ Lĩnh trên đất này. Năm 968, sau khi đánh thắng được các sứ quân, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, đặt niên hiệu mới là Thái Bình. Nam Định, vùng đất căn bản của Đinh Bộ Lĩnh trong sự nghiệp thống nhất đất nước trước đây giờ thành yếu địa cho sự tồn vong của triều đình Hoa Lư. Đồng thời với việc dồn tâm sức xây dựng triều đình Hoa Lư là việc Đinh Bộ Lĩnh lo củng cố và xây dựng lực lượng ở vùng đất Nam Định. Những chứng tích cho chiến công của nhân dân Nam Định được ghi lại ở rất nhiều thần phả các ngôi đền thờ trên khắp các vùng của Nam Định, đặc biệt là sự hình thành của làng nghề La Xuyên mà tổ sư nghề mộc là ông Ninh Hữu Hưng - Công tượng lục phủ giám sát tướng quân của Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn không phải người Nam Định, nhưng lại gắn bó với Nam Định từ rất sớm, lập được nhiều chiến công và được vua Đinh đặc biệt tin dùng, thăng lên chức Thập đạo tướng quân, tổng chỉ huy quân đội của quốc gia Đại Cồ Việt. Đến khi Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, con nhỏ nối ngôi, Lê Hoàn nhiếp chính làm phó.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> vương. Trước nguy cơ tiến công xâm lược của nhà Tống, Thái hậu Dương Vân Nga và các triều thần đã suy tôn Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đảm lãnh sự nghiệp tổ chức cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Di tích và truyền thuyết còn lưu lại những Bến Ngự, Cầu Ngự, nơi Thái hậu Dương Vân Nga về huy động lương thảo phục vụ chiến trường, về lão La người La Xuyên được Lê Hoàn truy tặng tước hiệu Đinh điện quan đại thần vì có công lớn trong chiến đấu, về Tả tướng quân Hoàng Thiện Tâm (được thờ ở đình làng Hạ Kỳ - Nghĩa Hưng). Sau chiến thắng, người dân vùng đất Nam Định lại tiếp tục cày ruộng, đánh bắt cá và làm muối, dân Vị Khê tiếp tục trồng hoa, dân La Xuyên đến Hoa Lư sửa sang thành quách và cung điện.. Thiên Trường - Nam Định trong cuộc kháng chiến chống quân Minh 8:47' 24/10/2011 (baonamdinh.com.vn) Năm 1407, sau khi đánh bại cuộc kháng chiến của nhà Hồ, giặc Minh bắt đầu thiết lập chính quyền đô hộ trên đất nước ta. Tháng 4-1407, Minh Thành Tổ hạ chiếu đổi nước ta làm quận Giao Chỉ - như một địa phương của quốc gia phong kiến nhà Minh; thi hành chính sách thống trị, đồng hóa trên tất cả các mặt hành chính, quân sự và văn hóa.. Địa bàn Nam Định không chỉ là nơi giặc Minh tập trung kiểm soát giao thông, liên lạc của cư dân, mà còn là địa bàn chúng chú ý bình định, đồng hóa về văn hóa, tư tưởng. Chúng chia Nam Định thành 2 phủ Kiến Bình và Phụng Hóa. Phủ Phụng Hóa tương đương với phủ Thiên Trường cuối thế kỷ XIV, gồm bốn huyện là Mỹ Lộc, Tây Chân, Giao Thủy và Thận Uy. Bốn trong số chín huyện thuộc phủ Kiến Bình thuộc về đất Nam Định là Ý Yên, An Bản, Vọng Doanh và Đại Loan. Cả hai phủ thuộc tỉnh Nam Định đều bị nhà Minh đổi tên. Kiến Hưng đổi thành Kiến Bình với ý nghĩa xây dựng, kiến lập sự yên ổn, vững chắc, Thiên Trường đổi thành Phụng Hóa hàm ý tuân theo sự giáo hóa, cải hóa của nhà Minh. Cùng với chính sách “một mảnh giấy, một nửa chữ cũng không để lại” quân giặc đã phá hủy nhiều di tích lịch sử văn hóa. Tại phường Quán Đổ (sau làng Đô Quan, huyện Ý Yên), nơi có nghề đục chạm đá, có ngôi đền thờ Trần Nhân Trứ - Thân vệ tướng đời Trần, tương truyền có các bộ đồ thờ, tượng đều bằng đá. Thời giặc Minh đô hộ, chúng đã đốt đền, nay chỉ còn lại bệ đá hoa sen, đôi cầy đèn đá. Theo các nhà nghiên cứu, Chùa Phổ Minh - quê hương của các vua Trần, nơi có chiếc vạc đồng, sản phẩm của nghề đúc đồng nổi tiếng của dân Đại Việt mà chính người Trung Hoa thời ấy cũng xếp vào một trong “An Nam tứ đại khí”, cũng bị giặc Minh tiêu hủy. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Nam Định chưa khi nào nguôi tắt ngọn lửa đấu tranh trong suốt thời kỳ quân Minh đô hộ. Đông đảo nhân dân vùng Nam Định đã đặt nợ nước lên trên, nhìn rõ bản chất xâm lược của kẻ thù, đứng lên khởi nghĩa vũ trang, dũng cảm, sinh tử với giặc Minh. Nhân dân Nam Định đã tiến hành nhiều cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi. Theo sử cũ chép lại: “Mùa đông, tháng 10, Giản Định Đế lên ngôi ở Mô Độ, châu Trường Yên, dựng niên hiệu là Hưng Khánh. Trước đó, Trương Phụ yết bảng bắt các tôn thất họ Trần và đầu mục quan lại cũ để đưa về. Vua trốn chạy đến Mô Độ. Người Thiên Trường là Trần Thiệu Cơ đem quân đến lập lên ngôi”. Tiếc là cho đến nay không có thêm tư liệu gì về Trần Thiệu Cơ. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, hành động Trần Thiệu Cơ đem quân đến và tôn Trần Ngỗi lên làm ngọn cờ của cuộc khởi nghĩa đã phản ánh tâm lý xã hội lúc đó của bộ phận dân cư luyến nhớ nhà Trần, mượn danh nhà Trần để tập hợp lực lượng. Sau này, trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi - người hoàn toàn không dính dáng về dòng họ và quyền lợi nhà Trần, nhưng thấy lòng người vẫn nhớ nhà Trần đã cho dựng lên Trần Cảo “để theo nguyện vọng mọi người" cần nhìn nhận đó như một nghệ thuật đấu tranh khiến cho nghĩa quân vừa tranh thủ được một bộ phận nhân dân và tiện bề lợi dụng chiêu bài mà chính quân Minh đang sử dụng. Trong cuộc kháng chiến sau đó do Trần Quý Khoáng đứng đầu, vùng bên sông Mờm thuộc xã Ngọc Chấn (nay thuộc xã Yên Trị, huyện Ý Yên) là địa điểm đóng quân của Đặng Dung./.. Thiên Trường - Nam Định thời Lê sơ (1428-1527) 10:4' 31/10/2011 (baonamdinh.com.vn) Nằm trên trục đường giao thông thủy, bộ nối liền Bắc Nam, vùng đất Thiên Trường - Nam Định thế kỷ XV có vị trí đặc biệt quan trọng. Vì thế các vua Lê, nhất là vua Lê Thánh Tông, thường xuyên qua lại vùng Thiên Trường, Trường Yên. Năm 1466, triều Lê thay đổi, xếp đặt lại quân ở năm phủ và định quân hiệu, bốn trong năm phủ quân quản các địa phương kề cận với nhau về mặt địa lý (Thanh Hóa, Nghệ An thuộc phủ Trung quân; Nam Sách và Nam Bang thuộc phủ Đông quân; Quốc Oai, Hưng Hóa thuộc phủ Tây quân; Bắc Giang, Lạng Sơn thuộc phủ Bắc quân), riêng phủ Nam quân lại là hai khu vực Thiên Trường và Thuận Hóa cách xa nhau hàng ngàn dặm. Thời Lê Thánh Tông, vị trí vùng đất Thiên Trường càng trở nên đặc biệt quan trọng với các hoạt.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> động quân sự ở vùng đất Chiêm Thành cũng như việc phòng vệ phía Nam cho vùng trung châu Bắc Bộ, cho kinh thành Đông Kinh. Nhà nước thời Lê sơ rất quan tâm đến việc nông tang nói chung, công cuộc khai hoang mở rộng diện tích canh tác nói riêng bằng hàng loạt chính sách, nhất là dưới thời Hồng Đức. Cùng với hoạt động khẩn hoang tự nguyện của nông dân, nhà Lê cũng đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức khẩn hoang dưới hình thức đồn điền ở phía Nam khu vực sông Hồng, trong đó có Nam Định. Khó có thể thống kê, khảo sát, xác định được đầy đủ những đồn điền thời Lê sơ đã từng có ở Nam Định. Cư dân đầu tiên của các đồn điền này chủ yếu là các binh lính, tù binh, tội nhân. Họ ít và khó có điều kiện ghi chép để truyền lại cho đời sau về lịch sử khai hoang lập làng. Tuy nhiên, căn cứ vào các nguồn tài liệu chính thống của Nhà nước phong kiến như chính sử, điền bạ… có thể thấy vùng Nam Định tập trung khá nhiều đồn điền. Theo “Thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ tập”, chỉ tính riêng huyện Nam Chân, xứ Sơn Nam (vùng Nam Trực, Trực Ninh) có 25 sở trên tổng số 43 sở đồn điền trong cả nước. Sự trù mật của các đồn điền ở ven cửa biển vùng Giao Thủy, bên đê sông Hồng, sông Đáy đã làm nổi bật vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của vùng đất phủ Thiên Trường với Nhà nước thời Lê sơ, với quốc gia Đại Việt nửa sau thế kỷ XV. Nửa sau thế kỷ XV, trên vùng ven biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả lao động to lớn của nhân dân Đại Việt. Đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ. Công cuộc đắp đê ở vùng biển Nam Định, Ninh Bình thời Lê sơ đã được tiến hành với tốc độ nhanh quy mô lớn. Trên địa bàn Nam Định qua những dấu tích còn lại thì thấy đê Hồng Đức kéo dài từ cửa Đại An, qua phần bắc Nghĩa Hưng, Hải Hậu về đến Hội Khê. Cùng với sự phát triển Nho học của cả nước, giáo dục Nho học ở Thiên Trường - Nam Định thế kỷ XV có bước phát triển mới. Năm 1428, nhà Lê đã cho mở các trường học ở phủ, lộ. Điều đáng chú ý là trong thời Lê sơ, sự phát triển của Nho học ở Nam Định không chỉ diễn ra trên các vùng đất cổ như Ý Yên, Vụ Bản hay tại vùng xung quanh ấp thang mộc của nhà Trần như Lộc Vượng, mà còn ở cả địa bàn ven biển, nơi các làng mạc mới được hình thành. Trong vòng 100 năm của thời Lê sơ, Nam Định có đến 22 tiến sĩ (chiếm gần 1/4 tổng số đại khoa của Nam Định trong suốt lịch sử thi cử Nho học 1075-1919). Phần lớn số đại khoa này đều đỗ vào nửa sau thế kỷ XV, cho nên có thể nói Nho học ở Nam Định đã thực sự có bước phát triển mới từ sau sự kiện Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên (1463). Các bậc đại khoa thời Lê sơ của vùng đất Thiên Trường - Nam Định đều đi theo con đường làm quan. Đặc biệt khi triều đình Nhà Lê ban ân điển cho các hàng Tiến sĩ ở sân điện, cho vinh quy bái tổ, khắc bia tiến sĩ về danh từ khoa thi năm Đại Bảo (1442), trong đó có Nguyễn Địch, người làng Vụ Lạc, huyện Đại An đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân đã tác động tích cực đến phong trào học hành Nho học trên vùng đất Thiên Trường - Nam Định./..
<span class='text_page_counter'>(18)</span>