Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tìm hiểu tết cổ truyền mộng niên của tộc người dao tuyển huyện bảo thắng tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.55 KB, 109 trang )

Khúalun tt nghip

Nguyn Th Thựy Linh

Trờng Đại học Văn hoá H Nội
Khoa quản lý văn hoá nghệ thuật
-------------------------

Khoá luận tốt nghiệp
cử nhân quản lý văn hoá

TèM HIU TT C TRUYN MỘNG NIÊN CỦA
TỘC NGƯỜI DAO TUYỂN – HUYỆN BẢO THẮNG
TNH LO CAI

Giảng viên hớng dẫn : Ths. Ngụ nh Hồng
Sinh viªn thùc hiƯn

: Nguyễn Thị Thùy Linh

Líp
Khãa häc

:
: 2007 – 2011

HÀ NỘI - 2011

1



Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Lời cảm ơn !
Khóa luận này là kết quả của bốn năm học tập rèn luyện cùng với sự
tận tình dạy dỗ, chỉ bảo của các thầy cơ giáo Khoa Quản lý Văn hóa - trường
Đại học Văn hóa Hà Nội.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô giáo
Khoa Quản lý Văn hóa - trường Đại học Văn hóa Hà Nội, các cơ chú trong
trung tâm thư viện trường, thư viện tỉnh Lào Cai, Sở Văn hóa tỉnh Lào Cai và
phịng Văn hóa huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai đã tận tình giúp đỡ em trong
việc tìm tài liệu phục vụ cho khóa luận này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất tới cơ giáo - Thạc sĩ
Ngơ Ánh Hồng đã tận tình chỉ bảo em từ định hướng chọn đề tài đến sửa từng
trang bản thảo để bài khóa luận được hồn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Thị Thùy Linh

3


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan văn bản khóa luận tốt nghiệp cử nhân văn hóa,

chun ngành Quản lý văn hóa, với đề tài “Tìm hiểu Tết cổ truyền Mộng
Niên của tộc người Dao Tuyển - huyện Bảo Thắng - tỉnh Lào Cai” là cơng
trình nghiên cứu của riêng tôi. Những vấn đề nghiên cứu trong khóa luận này
là trung thực và chưa cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác.

2


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 6
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .......................................... 7
3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 7
4. Những đóng góp của đề tài ........................................................................ 8
5. Cấu trúc của đề tài ..................................................................................... 8
Chương 1. Tộc người Dao Tuyển huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai ........... 9
1.1. Những yếu tố tự nhiên và lịch sử của tộc người Dao Tuyển huyện Bảo
Thắng – Lào Cai ............................................................................................ 9
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tộc người Dao Tuyển.......... 9
1.1.2. Môi trường sinh sống của tộc người Dao Tuyển huyện Bảo Thắng
– Lào Cai .................................................................................................. 15
1.2. Không gian xã hội của tộc người Dao Tuyển huyện Bảo Thắng – Lào
Cai ................................................................................................................ 18
1.2.1. Phương thức mưu sinh và đời sống kinh tế của tộc người Dao
Tuyển, huyện Bảo Thắng – Lào Cai ........................................................ 18
1.2.2. Quan hệ xã hội của tộc người Dao Tuyển, huyện Bảo Thắng – Lào

Cai............................................................................................................. 19
1.3. Khơng gian văn hóa của tộc người Dao Tuyển, huyện Bảo Thắng – Lào
Cai ................................................................................................................ 21
1.3.1. Tín ngưỡng tôn giáo ....................................................................... 21
1.3.2. Các phong tục tập quán .................................................................. 23
1.3.3. Văn học nghệ thuật dân gian của người Dao Tuyển ...................... 25
Chương 2. Tết cổ truyền Mộng Niên của tộc người Dao Tuyển, huyện
Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai .............................................................................. 29
2.1. Các lễ nghi và sinh hoạt trong tết cổ truyền Mộng Niên ...................... 29
2.1.1. Quá trình chuẩn bị đón tết Mộng Niên .......................................... 29
2.1.2. Các lễ nghi trong ngày tết Mộng Niên ........................................... 37

4


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

2.2. Hội hát đầu xuân của tộc người Dao Tuyển trong tết Mộng Niên ....... 47
2.2.1. Công tác chuẩn bị và tâm thế dự hội hát đầu xuân ........................ 47
2.2.2. Diễn trình của hội hát đầu xuân ..................................................... 54
2.3. Tết cổ truyền Mộng Niên xưa và nay của tộc người Dao Tuyển ở Bảo
Thắng – Lào Cai .......................................................................................... 68
2.3.1. Tết cổ truyền Mộng Niên xưa của tộc người Dao Tuyển .............. 68
2.3.2. Tết cổ truyền Mộng Niên ngày nay của tộc người Dao Tuyển ở Bảo
Thắng – Lào Cai ....................................................................................... 70
Chương 3. Gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa trong tết cổ truyền
Mộng Niên của tộc người Dao Tuyển ở Bảo Thắng - Lào Cai.................. 73
3.1. Sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về gìn giữ và phát huy các

giá trị văn hóa trong tết cổ truyền Mộng Niên của tộc người Dao Tuyển .. 73
3.1.1. Quan điểm đường lối chính sách của Đảng Nhà nước về gìn giữ và
phát huy các giá trị văn hóa của các tộc người thiểu số ........................... 73
3.1.2. Sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền và các tổ chức đồn
thể ............................................................................................................. 82
3.2. Gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa trong tết cổ truyền Mộng Niên
của tộc người Dao Tuyển – Bảo Thắng – Lào Cai ...................................... 86
3.2.1. Các giá trị văn hóa và nhân văn trong tết cổ truyền Mộng Niên ... 86
3.2.2. Gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa trong tết cổ truyền Mộng
Niên của tộc người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai ......... 91
Kết luận ........................................................................................................ 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 108
PHỤ LỤC

5


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của các cộng đồng dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới
để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc lên tâm hồn,
khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Những
thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ mới cùng với việc mở rộng
giao lưu quốc tế là cơ hội để chúng ta tiếp thụ những thành quả trí tuệ của loài

người, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc.
Thế giới ngày nay đang phát triển rất nhanh, cuộc cách mạng khoa học
cơng nghệ và q trình tồn cầu hóa đang có tác động mạnh mẽ đến tất cả các
quốc gia, dân tộc. Sự tác động đó đang tạo ra nhiều cơ hội và cả những thách
thức gay gắt cho nhân loại. Ngày nay, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và việc
giữ gìn, bảo tồn bản sắc dân tộc là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên tiến
trình giao lưu, hội nhập, trong đó có Việt Nam.
Đối với nước ta, từ khi tiến hành đổi mới, chúng ta đang từng bước mở
rộng quan hệ, giao lưu hợp tác quốc tế. Đất nước ta đang trên đà phát triển
mạnh mẽ về nhiều mặt, nhưng chưa bao giờ việc giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc lại được đặt ra một cách bức xúc như hiện nay.
Những giá trị văn hóa dân gian truyền thống có trong các sinh hoạt
cộng đồng là thành tố vơ cùng quan trọng góp phần làm nên bản sắc văn hóa,
trở thành những di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Những giá trị văn hóa
trong tết cổ truyền của dân tộc Dao Tuyển là một trong những giá trị vô cùng
đặc sắc mà chắc hẳn không nhiều người quan tâm. Cùng với sự phát triển của
xã hội thì những phong tục đẹp ấy đã dần mất đi những đặc sắc riêng và đang

6


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

ngày bị mai một. Như vậy, việc tìm hiểu khơi phục, gìn giữ và phát huy
những giá trị văn hóa tiêu biểu của dân tộc, đặc biệt là những tộc người thiểu
số là việc làm cấp bách, đặc biệt là những nét đẹp trong Tết Mộng Niên của
người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng - Lào Cai là một việc làm cần thiết, góp

phần gìn giữ và phát huy những tinh hoa di sản văn hóa q báu của dân tộc,
góp phần tơ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là một trong những mục
tiêu cần hướng tới.
Hiện nay tôi đang là sinh viên theo chun ngành quản lí văn hóa việc
tìm hiểu đời sống tinh thần của người dân tộc thiểu số qua những phong tục
tập quán, những sinh hoạt văn hóa của người miền núi nói chung và nhóm
ngành Dao Tuyển nói riêng là một yếu tố cần thiết phục vụ cho chun mơn
sau này, đây cũng chính là đề tài mà tơi muốn tìm hiểu bấy lâu, vì thế khóa
luận tốt nghiệp tơi chon đề tài: “Tìm hiểu Tết cổ truyền Mộng Niên của tộc
người Dao Tuyển - huyện Bảo Thắng - tỉnh Lào Cai”. Từ đó có ý nghĩa
thiết thực trong việc hiểu rõ về văn hóa tộc người thiểu số để có những biện
pháp cần tiến hành trong cơng tác quản lí văn hóa vùng đồng bào dân tộc Dao
ở Lào Cai.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về những giá trị văn hóa trong tết cổ truyền
Mộng Niên của tộc người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng - tỉnh Lào Cai.
Nghiên cứu những nét khái quát về văn hóa dân tộc Dao Tuyển ở Lào
Cai, phân tích làm rõ về phần lễ và phần hội trong tết Mộng Niên với những
nghi thức, nghi lễ, phong tục tập quán đặc sắc.
3. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào hệ thống lý luận của khoa học liên ngành và chuyên ngành
như: Lịch sử học, Dư địa chí, Dân tộc học, Văn hóa học …
Kết hợp với các phương pháp:

7


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh


- Khảo sát, điền dã và tham dự
- Sưu tầm, tổng hợp và phân tích nguồn tư liệu
4. Những đóng góp của đề tài
Khái quát diện mạo đời sống kinh tế văn hóa xã hội của tộc người Dao
Tuyển để từ đó đi sâu tìm hiểu những giá trị văn hóa trong tết cổ truyền Mộng
Niên
Bước đầu làm rõ bản sắc riêng của văn hóa người Dao Tuyển trong tết
lễ so với các dân tộc khác như vấn đề diễn xướng (thể hiện ở bài hát), nghệ
thuật múa (thể hiện ở phần lên đồng), nghệ thuật trang trí (thể hiện ở phần
trang trí cổng làng, bàn thờ thầy cúng), góp phần tìm hiểu giá trị kho sách cổ
người Dao (ghi chép trong sách cổ về bài hát, bài cúng, nghi lễ)...
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành ba chương chính
như sau:
- Chương 1. Tộc người Dao Tuyển huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai
- Chương 2. Tết cổ truyền Mộng Niên của tộc người Dao Tuyển
huyện Bảo Thắng - Lào Cai
- Chương 3. Gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa trong tết cổ
truyền Mộng Niên của tộc người Dao Tuyển huyện Bảo Thắng - Lào Cai

8


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Chương 1
Tộc người Dao Tuyển huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai

1.1. Những yếu tố tự nhiên và lịch sử của tộc người Dao Tuyển
huyện Bảo Thắng - Lào Cai
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tộc người Dao Tuyển
Trong trường kì lịch sử, Lào Cai là điểm hội lưu văn hóa của các tộc
người (Lào Cai có 27 dân tộc sinh sống), vì vậy diện mạo văn hóa của vùng
biên ải này khá đa dạng. Tính đa dạng trong văn hóa Lào Cai được thể hiện rõ
nét trong văn hóa các tộc người: “Lào Cai có mặt các cư dân của ba (trong số
bốn) ngữ hệ lớn ở Việt Nam: Ngữ hệ Nam Á có các tộc người Việt, Mường,
H’mơng, Dao, La Chí; Ngữ hệ Hán - Tạng có các tộc người Hoa (Xạ Phang),
Hà Nhì, Phù Lá (cả nhóm Xá Phó); Ngữ hệ Thái có các tộc người tày (cả
nhóm Pá Dí), Thái, Giáy, Bố Y” (Trần Hữu Sơn, 1997, Văn hóa dân gian Lào
Cai, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, Tr.13).
Trong số các dân tộc thiểu số ở Lào Cai, người Dao là một trong những
tộc người có dân số khá đông (85.428 người, chiếm tỉ lệ 15,24% dân số toàn
tỉnh - số liệu thống kê năm 2006), gồm 3 nhóm Dao khác nhau: Dao Đỏ, Dao
Họ và Dao Tuyển. Nhóm Dao Tuyển ở Lào Cai có số dân 31.325 người. Theo
nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn: “Dân tộc Dao Tuyển ở Việt Nam có khoảng
45.000 người” (Trần Hữu Sơn, 2001, Lễ cưới người Dao Tuyển, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội, Tr.7). Như vậy, xét theo mức độ tập trung dân cư, người
Dao Tuyển ở Việt Nam sinh sống chủ yếu ở Lào Cai.
Người Dao Tuyển cư trú trên một địa bàn rộng. Trên thế giới, người
Dao Tuyển sinh sống ở 4 quốc gia: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam và Lào.
Ở Việt Nam, người Dao Tuyển cư trú tại 4 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên
Quang và Lai Châu. Tại Lào Cai, người Dao Tuyển cư trú tập trung tại các

9


Khóaluận tốt nghiệp


Nguyễn Thị Thùy Linh

huyện: Bảo Yên, Bảo Thắng, Bát Xát, Cam Đường, Bắc Hà và Mường
Khương. Người Dao ở Việt Nam có 620.538 người (số liệu tổng điều tra dân
số 1/4/1999). Người Dao cư trú tập trung theo cộng đồng làng ở 23 tỉnh.
Người Dao ở Việt Nam có 7 ngành: Dao Đỏ, Dao quần chẹt, Dao Thanh
Phán, Dao Tiền, Dao quần trắng, Dao Thanh Y, Dao Áo Dài (Nguyễn Khắc
Tụng - 1977). Người Dao có kho tàng sách cổ rất phong phú và giá trị. Riêng
ở tỉnh Lào Cai đã sưu tầm kiểm kê ở 466 làng người Dao còn lưu giữ được
10.318 cuốn sách cổ. Trong kho tàng sách cổ có một lại hình thơ ca dân gian
rất độc đáo là những bức thư dài viết theo khổ thơ gọi là “chắn”. “Chắn” tiếng
Dao Làn Tiẻn để chỉ loại thư ca (tín ca). Đây là loại hình thơ ca dân gian có
nhiều giá trị đặc sắc.
Ở Việt Nam, người phát hiện và công bố thư ca người Dao đầu tiên là
nhà nghiên cứu Triệu Hữu Lý. Năm 1974, ông phát hiện và dịch tác phẩm
“Đặng Hành và Bàn Đại Hộ” Triệu Hữu Lý gọi tác phẩm này là truyện thơ.
Nhưng qua tìm hiểu của chúng tơi, “Đặng Hạnh và Bàn Đại Hộ” là bức thư
dài kể chuyện thiên di của người Dao Quần Chẹt. Năm 2000, trong nhóm Dao
quần chẹt ở n Bái (Dao Nga Hồng), và năm 2008, người Dao quần chẹt ở
Thanh Hoá cũng phát hiện các dị bản của tác phẩm này. Ở Việt Nam, ngồi
ngành Dao quần chẹt cịn phát hiện thư ca ở các ngành Dao Làn Tiẻn, Dao
Đầu bằng ở Lai Châu, Dao Tuyển ở Lào Cai, Dao áo dài ở Hà Giang, Dao
quần trắng (Dao Họ) ở Yên Bái, Tuyên Quang. Các ngành Dao Đỏ, Dao
Thanh Phán, Dao Tiền chưa phát hiện được thư ca.
Thư ca của người Dao là những tác phẩm văn học dân gian giá trị về
văn học, lịch sử. Trước hết, thư ca dân gian là một loại hình văn học dân gian
độc đáo, phổ biến ở người Dao và có một phần thư ca dân gian ở người Tày
(thư ca tình u). Cịn nhiều dân tộc khác ở miền núi phía Bắc chưa tìm thấy
loại hình thư ca (tín ca). Thơ ca dân gian là tiếng nói ai ốn, than thân khổ cực


10


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

của người Dao trước hồn cảnh quan lại bóc lột hà khắc, hoặc giặc giã vùng
biên giới cướp bóc dã man. Thư ca cũng là các bài ca phản kháng, chống
cường quyền, ca ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất của người Dao. Ở vùng
miền núi khó khăn, các nhà sử gia phong kiến ít phản ánh thì thư ca dân gian
(cũng như các loại sách cổ của người Dao) có nhiều giá trị lịch sử. Thư ca dân
gian là nguồn sử liệu quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử tộc người, tìm hiểu
thời gian di cư, nguyên nhân và quá trinh thiên di của người Dao.
Nhiều bản “Tín ca thiên di” phản ánh thời gian người Dao vào Việt Nam
cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Trong đó có 1 bản Tín ca sưu tầm ở Làng Đen xã Đồng Tuyển - thành phố Lào Cai ghi rõ năm người Dao đến Việt Nam:
Năm Giáp Thân triều Minh kết thúc
Người Dao ly tán khắp nơi
Một đường là núi Nam Bộ Quý Châu
Đường thứ hai là đất Giao Chỉ Việt Nam”.
Bản “Tín ca thiên di” này còn ghi rõ thời gian người Dao di cư đến Vân
Nam và từ các châu ở Vân Nam di cư tiếp đến Hà Khẩu và Lào Cai.
Đến Vân Nam phân làm hai đường
Một đường là phủ Giám Yên sông Hồng
Sinh sống theo hướng châu Mông Tự
Một đường khi mở đất Văn Sơn….
Ở Mông Tự, Giám Yên được 50 năm
Năm Nhâm Thân, Quý Dậu (1812 – 1813) cùng nhau đi
Chạy vào trong rừng sâu
Xin nơi ruộng đất bằng làm ruộng mới

Cho đến năm Tân Dậu (1871) Triều Thanh
Đến Hà Khẩu, đến Quỳnh Sơn

11


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Một số thư ca khác như “Đặng Thị Hành truyện” của người Dao Quần
chẹt, “Trà Sơn Cú”, người Dao Đầu Bằng - xã Tam Đường - Lai Châu…. đều
cho rằng người Dao đến Việt Nam thời vua Lê - “Lê Hoàng” (Thế kỷ 16, 17,
18 và thế kỷ 19).
Một số “Tín ca thiên di” như “Tín ca thiên di” ở làng Đen thành phố
Lào Cai, “Tín ca thiên di” ở Tam Đường - Lai Châu cho rằng người Dao Làn
Tiẻn (Dao đầu bằng, Dao Tuyển) vào Việt Nam cuối thế kỷ 19. Người Dao
đến Việt Nam rải rác từ cuối đời nhà Minh đến cuối thế kỷ 19, thậm chí đến
đầu thế kỷ 20 vẫn còn người Dao ở Vân Nam đến Lào Cai, Lai Châu.
Nguyên nhân di cư chủ yếu của người Dao là do sự đàn áp các phong
trào khởi nghĩa người Dao của các triều đình phong kiến Trung Quốc. Sách
“Tín ca thiên di” phát hiện ở làng Đen - thành phố Lào Cai ghi:
“Triều Minh điều binh 16 vạn
Phân binh 4 đường, 12 nhánh
Đánh qua 26 ngày
Không rút động binh, tự rút binh….
Giết người, đốt nhà khơng để gì lại
Khắp trời, rợp đất đầy lửa khói
Quan phủ ra lệnh giết người Dao…
Giết chết người Dao hơn 5 vạn

Từ đây người Dao ly tán tứ phương”.
Nguyên nhân thứ hai là do Trung Quốc hạn hán, đất chật người đông,
lại thấy Việt Nam đất tốt, dễ làm ăn nên người Dao di cư vào Việt Nam.
Dù ở các quốc gia khác nhau, sinh sống trên các vùng miền khác nhau
nhưng tất cả người Dao Tuyển đều có chung một cội nguồn lịch sử, đều gần
gũi nhau về các mặt như tên gọi, tiếng nói, văn hóa. Tuy nhiên, người Dao
Tuyển ở mỗi vùng đều có những nét đặc thù riêng do nhiều nguyên nhân

12


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

khách quan đem lại như điều kiện địa lí, mơi trường sinh thái, giao lưu kinh
tế, văn hóa với các tộc người anh em mà họ sinh sống trên địa bàn trong một
thời gian dài.
Ở Việt Nam, dân tộc Dao Tuyển có nhiều tên gọi khác nhau như ở Lào
Cai được gọi là Dao Tuyển; ở Phong Thổ - Lai Châu người Dao Tuyển được
gọi là Dao Đầu Bằng; ở Hà Giang, Tuyên Quang người Dao Tuyển được gọi
là Dao Áo Dài. Cho dù tên gọi ở các địa phương có khác nhau nhưng đó đều
là tên gọi chỉ một bộ phận của nhóm Dao Làn Tiẻn (Dao Lam Điền).
Về nguồn gốc của người Dao nói chung, người Dao Tuyển nói riêng,
cho đến nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền rộng rãi câu chuyện Bàn Hồ.
Đó là câu chuyện giải thích về nguồn gốc của họ: Bàn Hồ là con long khuyển
mình dài ba thước, lông đen vằn vàng mướt như nhung, từ trên trời giáng
xuống trần gian được Bình Hồng u q ni trong cung. Một hơm Bình
Hồng nhận được chiến thư của Cao Vương. Bình Hồng liền họp bá quan
văn võ để bàn mưu tính kế diệt họ Cao nhưng khơng ai tìm được kế gì. Trong

khi đó thì con long khuyển Bàn Hồ từ trong kim điện nhảy ra sân rồng quỳ lạy
xin đi giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ ra đi nhà vua có hứa, nếu thành
cơng sẽ gả công chúa cho. Bàn Hồ bơi qua biển bảy ngày, bảy đêm mới tới
nơi Cao Vương ở. Cao Vương thấy con chó đẹp tới phủ phục trước sân rồng
thì cho đó là điềm lành, nên đem vào cung ni. Nhân một hôm Cao Vương
say rượu Bàn Hồ cắn chết Cao Vương và ngoặm lấy đầu đem về báo cơng với
Bình Hoàng. Bàn Hồ lấy được cung nữ đem vào núi Cối Kê ( Chiết Giang ) ở.
Vợ chồng Bàn Hồ không bao lâu sinh được 6 con trai và 6 con gái. Bình
Hồng ban sắc cho con cháu Bàn Vương thành 12 họ, riêng người con cả
được lấy họ cha, còn các con thứ lấy tên làm họ, gồm các họ: Bàn, Lan, Mãn,
Uyển, Đặng, Trần, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Triệu. Con cháu Bàn
Vương sinh sôi nảy nở mỗi ngày một nhiều và phân tán khắp nơi để sinh sống

13


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

(Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến, 1971,
Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr,19 ). Như vậy, Bàn
Hồ là một nhân vật thần thoại, được người Dao thừa nhận là “ơng tổ” của
mình và được thờ cúng rất tơn nghiêm.
Ngồi ra, sử sách lưu truyền cũng có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn
gốc của người Dao, nhưng tất cả đều thống nhất một quan điểm: người Dao
có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư sang Việt Nam, qua nhiều con đường
khác nhau, trong một quá trình lâu dài. Quá trình thiên di của người Dao
Tuyển tới Lào Cai đã được nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn trình bày một cách
khá cụ thể: Người Dao Tuyển di cư vào Việt Nam bằng hai con đường chính.

Tuyến thứ nhất vào cuối Triều Minh ( Thế kỉ 17 ), người Dao Làn Tiẻn từ
Quảng Đơng vào Móng Cái ( Quảng Ninh ), qua Lục Ngạn sông Đuống đến
Yên Bái, ngược sông Chảy lên Lào Cai. Tuyến thứ hai vào năm Mậu Thân
triều Thanh ( 1668 ), người Dao Tuyển đến Việt Nam ở hai vùng Vân Sơn và
Mộng Tự. Năm Tân Dậu đầu triều Thanh ( 1801 ), người Dao từ Mộng Tự
đến Kiến Thủy, Hà Khẩu theo sông Hồng vào Châu Thủy Vĩ ( Lào Cai ). Như
vậy, đầu thế kỉ XIX, người Dao Tuyển đã có mặt ở vùng sơng Hồng Lào Cai.
Liên tiếp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, người Dao Tuyển đã có một số đợt
thiên di đến vùng Bát Xát (Trần Hữu Sơn, 2005, Thơ ca dân gian người Dao
Tuyển, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, Tr.10).
Con đường thiên di của người Dao đến Lào Cai, đến Việt Nam có
nhiều đường nhưng chủ yếu là hình thức vượt biển vào các cửa sông và đi
đường bộ. Trong cuốn “Thư ca thiên di” của người Dao Tuyển (Làn Tiẻn)
phát hiện ở làng Đen - xã Đồng Tuyển - thành phố Lào Cai còn ghi rất rõ từng
chặng thiên di người Dao từ Lưỡng Quảng đến Lào Cai. “Năm Giáp Thân
triều Minh kết thúc (năm 1644)”, người Dao ở Quảng Tây di cư đi Vân Nam.
Họ định cư ở Giám Yên, Mông Tự đến năm Nhâm Thân, Quý Dậu (1812 –

14


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

1813) lại đi tiếp vào rừng sâu phương nam. Mãi đến năm Tân Dậu triều
Thanh (1871), người Dao Làn Tiẻn mới tới Hà Khẩu, Quỳnh Sơn và sau đó
vào Lào Cai - Việt Nam.
Người Dao Tuyển bên cạnh những đặc điểm mang tính cội nguồn, cịn
có những đặc trung riêng mang đậm dấu ấn mơi trường tự nhiên, văn hóa xã

hội của vùng miền. Đến cư trú ở Lào Cai, người Dao Tuyển mong muốn có
một cuộc sống ổn định, ấm no hạnh phúc. Thời kì mà người Dao đến Lào Cai
là thời kì mà sự thống trị của triều đình phong kiến đối với những vùng xa xôi
hẻo lánh không chặt chẽ. Trong điều kiện đó, người Dao làm ăn tương đối tự
do. Vì vậy mà đồng bào tin rằng Việt Nam là nơi có thể sinh sống tốt:
Thăm hết các nơi cùng ngõ hẻm
Đất nước Việt Nam lòng thấy vui
Việt Nam giàu đẹp đừng quên nhé
Mau mau dọn nhà đến Việt Nam
(Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến,
1971, Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,Tr.40).
Ngày nay, sống trong môi trường xã hội chủ nghĩa , nhờ có đường lối
chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
đời sống của người Dao Tuyển đã có những biến đổi sâu sắc: từ thân phận nô
lệ trở thành người làm chủ đất nước, có cuộc sống bình đẳng với các dân tộc
anh em, mọi mặt đời sống được cải thiện rõ nét, bản sắc văn hóa được bảo tồn
và phát triển.
1.1.2. Mơi trường sinh sống của tộc người Dao Tuyển huyện Bảo
Thắng - Lào Cai
Như đã trình bày ở trên, người Dao Tuyển ở Lào Cai không cư trú tập
trung mà phân tán ở hầu khắp các huyện. Tại huyện Bảo Thắng, người Dao
Tuyển cư trú chủ yếu ở các xã: Bản Phiệt, Sơn Hải, Bản Cầm, … Huyện Bảo

15


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh


Thắng với diện tích 673km2, dân số khoảng 100.000 người, với ba thị trấn :
Phố Lu, Tằng Tằng Loỏng, N.T Phong Hải; và các xã : Gia Phú, Phong Niên,
Thái Niên, Phố Lu, Sơn Hải, Bản Cầm, Xuân Quang, Sơn Hà, Phú Nhuận,
Xuân Giao, Bản Phiệt, Trì Quang.
Bảo Thắng là vùng thung lũng nằm ven hai bên sơng Hồng thuộc vùng
đất cổ nằm chính giữa tỉnh Lào Cai cùng với thị xã Cam Đường. Từ buổi bình
minh dựng nước thuộc đất Tây Âu của Thục Phán, thời Bắc thuộc là châu
Cam Đường quận Giao Chỉ; đời Lý thuộc Châu Đăng; đời Trần thuộc Quy
Hoá; từ thời nhà Lê đến thực dân Pháp chiếm đóng (1886) thuộc châu Thuỷ
Vĩ, phủ Quy Hoá, tỉnh Hưng Hoá. Năm 1928 châu Bảo Thắng gồm 11 xã, và
tên Bảo Thắng xuất phát từ châu Bảo Thắng ra đời vào những thập kỷ đầu thế
kỷ XX.
Hiện nay, Bảo Thắng có 13 thành phần dân tộc cùng cư trú xen kẽ với
nhau trong đó đơng nhất là dân tộc Kinh, Dao, Tày.
Địa hình Bảo Thắng là một dải thung lũng hẹp chạy dài ven sơng Hồng
có phía Tây là dải núi thấp của dãy Phan-Si-Păng - Pú Luông và Đông là của
dãy thượng nguồn sông Chảy án ngữ. Dọc chiều dài Bảo Thắng có con sơng
Hồng và tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội chạy qua, phân huyện thành hai
bên tả ngạn và hữu ngạn trong đó khu hữu ngạn có nhiều suối lớn rất thuận
lợi cho giao thông. Nên từ xa xưa Bảo Thắng đã là cửa ngõ tiền đồn trọng yếu
vùng Tây Bắc Tổ quốc với biệt danh “cửa quan Bảo Thắng”.
Đất đai Bảo Thắng chủ yếu là đất lâm nghiệp. Đất canh tác ít, tập trung
ở các thung lũng ven sơng, suối cịn lại là đất Feralít.
Do địa hình của huyện cũng như do cuộc sống của người Dao Tuyển ly
tán, bất ổn định, môi trường sống của họ chủ yếu là vùng núi cao, địa hình
phức tạp, giao thơng khơng thuận tiện. Điều đó đã tạo ra sự ngăn cách và
khép kín về kinh tế, văn hóa xã hội. Nhưng mặt khác, trong điều kiện hiện

16



Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

nay, khi đất nước đang trên đà hội nhập và đi những bước đi vững chắc về
mọi mặt, người Dao Tuyển ngày càng có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các
dân tộc anh em. Do vậy, đời sống kinh tế, văn hóa của họ đang từng bước
được phát triển phong phú và đa dạng.
Kết cấu xã hội của người Dao Tuyển gồm 3 cấp độ khác nhau: Cộng
đồng theo địa vực cư trú làng bản (làng, bản), cộng đồng mang tính huyết
thống (dịng họ) và cộng đồng gia đình.
Làng của người Dao Tuyển được gọi là “giăng”. Làng thường được lập
trên các sườn núi. Người Dao Tuyển không cư trú xen kẽ với các dân tộc khác
trong làng. Đứng đầu mỗi làng là trưởng làng “giăng châu”. Trưởng làng
thông thường là người trưởng họ trong dịng họ lớn nhất trong làng, nhưng
cũng có nơi là người có uy tín, giỏi làm ăn. Họ là người nắm vững các luật
tục, quy ước chung của làng, có khả năng tập hợp, chỉ đạo dân làng. Đồng
thời, họ am hiểu pháp luật, chủ trương chính sách của nhà nước, có khả năng
truyền đạt chủ trương chính sách đó đến với người dân. Bên cạnh trưởng làng,
mỗi làng cịn có một già làng. Đó là người am hiểu phong tục tập quán, biết
nghi lễ cúng bái và có uy tín cao. Ngồi ra, già làng cịn có vai trò giám sát
thực hiện các nghi lễ chung của làng và của gia đình, hoặc giám sát việc cúng
của thầy cúng ở nơi khác đến làm lễ cho các gia đình trong làng.
Mỗi làng của người Dao Tuyển có một hệ thống các luật tục như luật
tục bảo vệ nguồn nước, luật tục về quan hệ giữa các thành viên, chống thả
rông gia súc, bảo vệ mùa màng … Hệ thống luật tục của làng đều được dân
làng dân chủ thảo luận. Luật tục đã trở thành một công cụ quản lí làng. Nếu ai
vi phạm luật tục sẽ bị dân làng phạt.. Người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng
quy định mức phạt như sau: Ai chặt phát một cây con ở rừng chung của làng

bị phạt 5 đồng bạc trắng, chặt một cây to phạt 10 đồng bạc trắng, đốt rừng

17


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

chung làm nương rẫy bị phạt 20 đồng bạc trắng (Trần Hữu Sơn, 2001, Lễ
cưới người Dao Tuyển, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, Tr.31).
1.2. Không gian xã hội của tộc người Dao Tuyển huyện Bảo Thắng
- Lào Cai
1.2.1. Phương thức mưu sinh và đời sống kinh tế của tộc người Dao
Tuyển, huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Người Dao Tuyển sống chủ yếu dựa vào nền kinh tế tiểu nông, tự cấp,
tự túc. Quan niệm “trọng nông khinh thương” đã ăn sâu vào tâm lí của họ.
Hình thái tâm lí văn hóa của người Dao Tuyển là ln coi trọng ln lí đạo
đức, coi trọng lợi ích cộng đồng dân tộc, tơn trọng ý thức cộng đồng, tôn
trọng quan niệm giá trị an cư lạc nghiệp, khơng muốn tiến thủ ra bên ngồi.
Về nguồn sống cơ bản, đồng bào Dao chủ yếu dựa vào các sản phẩm
nơng nghiệp mang tính tự cung tự cấp như lúa, ngô, khoai, sắn; thức ăn chủ
yếu là các loại rau, đậu, củ, quả tự trồng. Người Dao thường ăn hai bữa chính
trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm
bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn
cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối
giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp
chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp
chua, canh măng chua, phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ
rượu khơng qua trưng cất, có vị chua và ít cay. Người Dao thường hút thuốc

lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Hoạt động sản xuất: làm nương du canh hay định canh, thổ canh hốc
đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Cây lương thực
chính là lúa, ngơ, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn
ni trâu, bị, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao cịn ni ngựa, dê.

18


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Nghề trồng bơng, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải
nhuộm chàm. Hầu hết các xóm đều có lị rèn để sửa chữa nơng cụ. Nhiều nơi
cịn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc
là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân,
vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu ... Nhiều nơi có nghề ép dầu
thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật. Cơng cụ sản xuất cịn thơ sơ, kỹ
thuật canh tác cịn lạc hậu. Người Dao có nghề làm giấy bản, nhuộm màu đỏ
thẫm, vàng chanh hoặc để thô được đem đi bán khắp mọi nơi. Dân tộc Dao có
nhiều bài thuốc nam (thuốc lá) bí truyền chữa được nhiều bệnh nan y bằng
kinh nghiệm bắt mạch, cắt thuốc theo y pháp phương Đông.
Trước đây, khi đời sống của tộc người Dao Tuyển chưa ổn định, cuộc
sống du canh du cư trên các sườn núi cao với trình độ sản xuất thấp, trình độ
nhận thức chưa cao, đời sống của đồng bào dân tộc Dao gặp rất nhiều khó
khăn, kém phát triển.Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển
kinh tế của tỉnh Lào Cai nói chung và của huyện Bảo Thắng nói riêng khá ổn
định, đời sống của người dân ngày càng được đảm bảo về cả vật chất lẫn tinh
thần. Trong xu hướng phát triển chung đó, lại được sự quan tâm của Đảng,

Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương, người Dao Tuyển ngày càng
có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các dân tộc anh em. Do vậy, đời sống kinh
tế, văn hóa của họ đang từng bước được phát triển phong phú và đa dạng.
1.2.2. Quan hệ xã hội của tộc người Dao Tuyển, huyện Bảo Thắng Lào Cai
Quan hệ xã hội: Trong thơn xóm, làng bản tồn tại chủ yếu các quan hệ
xóm giềng và quan hệ dịng họ.
Người Dao Tuyển có 12 họ chính. Mỗi họ lại có nhiều dịng họ khác
nhau. Dịng họ là những người có chung một ơng tổ 6 đời. Mỗi dịng họ có
một hệ thống 6 tên đệm riêng (mỗi tên đệm tương ứng với một thế hệ), có một
ơng trưởng họ - con trai trưởng của ngành trưởng. Trưởng họ phải là người

19


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

am hiểu tơn giáo, tín ngưỡng, nếp sống của người Dao, có trách nhiệm chỉ
đạo các việc chung của dòng họ, đại diện cho dòng họ, giao tiếp, giao dịch với
các dòng họ khác. Các thành viên trong dịng họ có trách nhiệm tương trợ,
giúp đỡ lẫn nhau khi có cơng việc lớn như: làm nhà, cưới xin, ma chay …
Gia đình người Dao Tuyển là gia đình phụ hệ, tính chất phụ hệ chi phối
chặt chẽ quan hệ gia đình: Chủ gia đình là đàn ơng, nếu bố chết thì con trai
trưởng thay thế. Trong gia đình, người chồng giữ vị trí quan trọng, có trách
nhiệm chỉ đạo sản xuất, đảm nhiệm tồn bộ những công việc nặng nhọc, thực
hiện các nghi lễ gia đình, đồng thời có trách nhiệm giáo dục các con trai và
quan hệ với người ngoài. Người vợ phụ trách công việc nội trợ và giáo dục
các con gái. Riêng cơng việc đồng áng và làm vườn thì dường như khơng có
sự phân chia rõ ràng. Trong cơng việc hàng ngày thì tính chất phụ hệ và thứ

bậc chi phối đậm nét trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: vợ
phải nghe lời chồng, con cái nghe lời cha mẹ, em nghe lời anh chị.
Về cấu trúc nhà ở của người Dao đơn giản nhưng với sự tổ hợp ba phần
tốt lên sự kín đáo, tế nhị của người Á Đơng. Họ có ba loại nhà: nhà sàn, nhà
đất, nhà nửa sàn nửa đất; nhà ở bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn. Người Dao
lấy địa thế đồi núi để dựng nhà, thường là chỗ bằng phẳng. Kiểu nhà truyền
thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách
chắp nối các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên, họ không phải dùng
đinh trong quá trình lắp ghép nhà ở. Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên
xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thường có hai bếp. Nhà người Dao
đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi. Cách chọn hướng nhà thì cũng như
các dân tộc khác.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai
quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất
được họ ưa dùng.

20


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Về trang phục, so với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là cịn
giữ được nhiều nét bản sắc của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm
chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng. Người Dao Tuyển mặc áo
dài, đội mũ nhỏ...
Người Dao Tuyển thật thà, hiền lành, chất phác và hiếu khách. Bản
chất quý báu đó vẫn là nét chủ đạo, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Trong
cuộc sống thường nhật, họ ít nói nhưng khơng thù ghét ai. Do sống phân tán,

tiếp giáp với nhiều dân tộc nên họ cũng dễ hòa đồng, tạo điều kiện cho sự
phát triển, tiếp thu cái mới trên con đường hội nhập văn hóa của nước nhà.
1.3. Khơng gian văn hóa của tộc người Dao Tuyển, huyện Bảo
Thắng - Lào Cai
1.3.1. Tín ngưỡng tơn giáo
Tơn giáo tín ngưỡng có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh
thần của người Dao Tuyển. Điểm nổi trội trong tơn giáo tín ngưỡng của
họ là chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tam Giáo. Trong đó ảnh hưởng sâu đậm
nhất là Đạo giáo.
Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc và đã trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần của người Dao Tuyển, được họ tiếp thu và cải biến cho phù hợp với
điều kiện xã hội của mình. Thực tế cho thấy: Hầu hết các vị thần linh của Đạo
giáo đều trở thành hệ thống các vị thần linh của người Dao Tuyển như hệ thống
miếu vạn thần là hệ thống miếu thờ thần của Đạo giáo. Ngoài ra, các hệ thống
bùa chú, vũ khí trừ tà như đạo tiên (soi đạo), đồng linh (chông đồng), thần
tượng (gậy thần), đại lực xoa (đinh ba đại lực) đều là các khí cụ của Đạo giáo.
Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo cũng có ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời
sống của người Dao Tuyển. Những phép thuật của Phật như uống nước thiêng,
tư tưởng hóa kiếp luân hồi của Phật giáo đều thâm nhập vào đời sống của con
người. Bên cạnh đó, các hình thức xem tử vi tướng số, xem ngày tháng tốt, thực
hiện các nghi lễ cưới xin, làm nhà mới đều được sử dụng rộng rãi.

21


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Sau Đạo giáo, Phật giáo, đời sống của người Dao Tuyển còn chịu ảnh

hưởng của Nho giáo. Biểu hiện rõ nhất là ở việc thờ cúng tổ tiên, sùng bái
thầy cấp sắc.
Tuy ảnh hưởng của Tam giáo nhưng tàn dư tôn giáo sơ khai vẫn tồn tại.
Đó là tàn dư ma thuật tình u với các loại bùa ngải, ma thuật làm hại với
quan niệm về ma Ngọ Hải. Đặc biệt là tín ngưỡng liên quan đến việc chữa
bệnh phát triển khá mạnh. Từ quan niệm hồn đến nguyên nhân ốm đau, bệnh
tật là do bị hồn ma bắt, đến việc cúng bái chữa bệnh.
Các tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nơng nghiệp tồn tại với nhiều
hình thức như việc cầu cúng miếu làng, làm phép thuật trừ sâu bệnh, tổ chức
lễ cúng cơm mới …
*Thờ cúng tổ tiên
Theo quan niệm của người Dao Tuyển: Tổ tiên là những người đã
khuất trong dòng họ tính từ sáu đời trở xuống. Khi ơng bà cha mẹ mất, linh
hồn của họ trở về thế giới bên kia nhưng những linh hồn ấy vẫn thường xuyên
đi lại chăm nom cho con cháu ở nơi dương thế. Tổ tiên thuộc loại ma lành,
phù hộ cho con cháu, nếu khơng thờ cúng thì tổ tiên có thể bắt tội, làm cho
con cháu ốm đau, bệnh tật, đói khổ. Vì vậy, thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng
chủ yếu trong gia đình. Những ngày mà người Dao Tuyển thờ cúng tổ tiên là
ngày mùng một tết, ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, ngày cúng cơm mới.
*Thờ cúng Bàn Vương
Bên cạnh việc thờ tổ tiên, người Dao Tuyển ở Lào Cai cũng như các
ngành Dao khác cịn thờ ơng tổ cộng đồng dân tộc Dao là Bàn Vương. Bàn
Vương được thờ cúng chung với tổ tiên gia đình vào các dịp lễ cấp sắc, đám
chay, tết lễ, ngày rằm, mùng một hàng tháng. Ngồi việc thờ cúng hàng ngày
cịn có những lễ thờ cúng Bàn Vương riêng. Hình thức cúng Bàn Vương
thường có các nghi lễ như lễ khất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa.

22



Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Tóm lại: Tam Giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tín ngưỡng của
đồng bào Dao Tuyển ở Lào Cai. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là sự biểu hiện
của từng tôn giáo trong tín ngưỡng của người Dao Tuyển là khơng rõ nét. Tất
cả các tôn giáo trên đều quyện chặt với nhau, cùng với những tàn dư tôn giáo
sơ khai tạo nên hệ thống tín ngưỡng - tơn giáo hỗn hợp, phức tạp và đa dạng
trong đời sống văn hóa của con người.
1.3.2. Các phong tục tập quán
Tộc người Dao Tuyển có một nền văn hóa rất phong phú và đậm đà bản
sắc thể hiện qua nhiều phong tục, tập quán tiêu biểu:
*Lễ cấp sắc
Người Dao Tuyển có nghi lễ quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của
người nam giới được tổ chức trang trọng gọi là lễ cấp sắc. Cấp sắc là một nghi
lễ rất phổ biến trong dân tộc Dao. Khi gia đình người Dao Tuyển có con trai
từ 11 đến 17 tuổi cần phải làm lễ cấp sắc. Người được cấp sắc mới được công
nhận là con cháu của Bàn Vương và mới được bàn Vương phù hộ. Người
không được cấp sắc thì cho dù tuổi già cũng vẫn bị coi là trẻ con và khi chết
hồn không được đồn tụ với tổ tiên. Tiến trình của lễ cấp sắc có rất nhiều tình
tiết phức tạp, lễ diễn ra suốt ba ngày hai đêm với các nghi lễ chính như: lễ ăn
sư, lễ kêu thầy, lễ công tào, lễ khởi sự, lễ cấp sắc, lễ điệu binh, lễ hợp vũ, lễ
hương hoa, lễ giải tuế, lễ mời thánh, lễ an đòn, lễ tú đăng, lễ hi diên, lễ du
thần, lễ búa nhị, lễ túc bị, lễ tảo chiền, lễ phá ngục, lễ hưởng thực, lễ thiết
điện, lễ đăng chương, lễ tháo lâu, lễ thăng đô, lễ tống thánh. Người Dao
Tuyển tin rằng, người được cấp sắc thì làm ăn mới được may mắn, sinh hoạt
mọi mặt mới được thuận lợi, dịng tộc mới được phát triển. Vì vậy, cho dù tốn
kém, họ vẫn tổ chức bằng được nghi lễ này.
*Nghi lễ cưới xin

Lễ cưới là phong tục trọng đại của đời người, là một trong những sinh
hoạt văn hóa dân gian đặc sắc, in đậm dấu ấn tín ngưỡng của con người.

23


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

Người Dao Tuyển có quy định chặt chẽ về việc cưới, tạo thành những nguyên
tắc trong hôn nhân. Chẳng hạn như nguyên tắc ngoại hôn dịng họ chi phối
mọi quan hệ hơn nhân. Trong phạm vi sáu đời con cháu không được kết hôn,
dựa vào thứ tự hệ thống tên đệm của từng dòng họ, các thành viên của mỗi
dòng họ biết được quan hệ nội tộc và tránh kết hơn cùng dịng họ, khơng vi
phạm quan niệm loạn luân. Nghi lễ đám cưới ở mỗi nhóm Dao, ở mỗi vùng
có những nét riêng. Hơn nhân nam, nữ tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn
theo chế độ một vợ một chồng, người cùng họ không được lấy nhau. Nam
giới phải ở rể từ hai đến ba năm, có khi ở ln nhà vợ (nếu ở ln nhà vợ thì
phải đổi họ bên vợ). Họ cịn có tục dùng bạc trắng để định giá cô dâu, theo
nghĩa đen là mua và gả bán, số bạc ấy sau này sẽ là của đôi vợ chồng trẻ.
Ngày cưới, cô dâu trang điểm rất đẹp, đội mũ màu đỏ, có hoa văn; cổ và tay
đeo nhiều vịng bạc. Ngày cưới, đồn đưa cơ dâu, có cả thầy cúng, và thổi
kèn, đánh chiêng, khua trống, rung nhạc. Tới nhà chồng, cô dâu phải qua nhà
tạm, khi được giờ thì mới được vào nhà chồng. Lên tới nhà chồng, cô dâu
phải “rửa tay”, bước qua chậu than hồng và nhiều nghi thức khác... trước sự
chứng kiến của hai họ rồi mới bước qua cửa vào nhà với ý nghĩa là “Từ nay
đoạn tuyệt với con ma họ ngoại và từ nay theo con ma họ nhà nội”.
Sau khi vợ chồng lấy nhau, khi sinh con đầu lịng thì họ đẻ ngay tại
buồng ngủ của mình. Ba ngày đầu, các cửa ra vào đều phải cắm lá kiêng

không cho người lạ vào nhà. Gia đình dân tộc Dao tồn tại bền vững theo chế
độ phụ quyền, người con gái không có tên trong chúc thư, khơng được thừa
kế tài sản của gia đình.
Lễ cưới người Dao Tuyển ở Lào Cai được chia thành các nghi thức: lễ
so tuổi, lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt.
*Nghi lễ tang ma
Người Dao Tuyển khi chết, con gái phải tắm nước lá thơm cho bố mẹ,
con trai cắt tóc cho người chết. Họ tổ chức khâm liệm cho người chết một

24


Khóaluận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Thùy Linh

cách chu tất. Trước kia, người Dao Tuyển ở Lào Cai làm hỏa táng cho người
chết. Sau khi hỏa táng họ lấy tro bỏ vào lọ, đem chơn ở núi đá theo từng dịng
họ. Nhưng ngày nay, người Dao Tuyển tổ chức địa táng. Tuy nhiên, trong một
số phong tục, bài cúng vẫn còn dấu vết hỏa táng. Trong lễ tang thầy cúng phải
đọc cuốn sách cúng “Tán Tảng” bài cúng đốt lửa hỏa táng được tượng trưng
bằng nến.
Trên đây chỉ là một số hiện tượng tiêu biểu trong truyền thống phong
tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng phong phú, phức tạp và đa dạng của tộc
người Dao Tuyển ở Lào Cai. Qua những hiện tượng này, chúng ta thấy rằng:
Trong cộng đồng người Dao Tuyển vẫn cịn tồn tại những tàn tích của chủ
nghĩa đa thần nguyên thủy. Đặc biệt là tam giáo ( nổi trội nhất là Đạo giáo ),
đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, đã ăn sâu vào tư tưởng của họ.
Những yếu tố tích cực cần phải được bảo tồn và phát huy để góp phần làm
phong phú bản sắc văn hóa dân tộc của tộc người này.

1.3.3. Văn học nghệ thuật dân gian của người Dao Tuyển
Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ,
bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn
Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu
trong các nghi lễ tôn giáo.
Trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài chống lại thiên nhiên khắc
nghiệt và xã hội phong kiến bất công để tồn tại và phát triển, người Dao
Tuyển đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa truyền thống giàu bản sắc, đặc biệt
là văn học dân gian được ghi chép, lưu giữ trong sách cổ. Sách cổ người Dao
là một khái niệm mang tính chất tương đối để chỉ tồn bộ số sách được người
Dao viết đầu thế kỷ 20 về trước. Người Dao gọi sách cổ là “Sâu” hoặc
“Tsâu”, có nghĩa là sách. Sách cổ được ghi chép bằng loại chữ viết tượng hình
theo kiểu chữ Hán hoặc mượn chữ Hán để ghi chép nhưng lại được đọc theo

25


×