LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của giảng viên ThS. Trần Phương Thúy tôi đã thực
hiện đề tài :
"Tìm hiểu tục cưới xin truyền thống của tộc người Hà Nhì huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai "
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này , tôi xin chân thành cảm ơn cô
giáo đã tận tình hướng dẫn , giảng dạy trong suốt quá trình học tập. Mặc dù đã
có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, nhưng do còn
thiếu kinh nghiệm trong việc đi thực tế, cùng với đó là kiến thức còn hạn chế
nên bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu xót , rất mong nhận được
lời góp ý của cô để hoàn thiện hơn kiến thức trong lĩnh vực này, đồng thời qua
đó làm cơ sở cho những bước tiến sau này.
Tôi xin trân thành cảm ơn !
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi trong thời gian
qua. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự không trung thực về thông
tin sử dụng công trình này.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU
Lễ cưới là một nghi lễ quan trọng trong đời người của bất kì ai dù là
nam giới hay nữ giới không phân biệt ranh giới, lãnh thổ và với tộc người Hà
Nhì ở Lào Cai cũng vậy. Đó là một nghi lễ quan trọng trong văn hóa tinh thần
của tộc người Hà Nhì.
Hơn thế nữa lễ cưới truyền thống của tộc người Hà Nhì còn góp phần
vào nét đặc sắc văn hóa của dân tộc Việt nam vì vậy mà việc nghiên cứu cũng
như tìm hiểu để bảo tồn nét đẹp truyền thống ấy là điều cần thiết.
Với hy vọng có thể góp phần vào công cuộc bảo vệ nên văn hóa đậm đà
bản sắc, tôi đã chọn đề tài; tìm hiểu phong tục cưới xin của tộc người Hà Nhì
ở Bát - Xát Lào Cai; làm đề tài kết thúc học phần môn văn hóa các dân tộc
thiểu số.
4
CHƯƠNG 1
TÌM HIỂU KHÁI QUÁT VỀ NGUỒN GỐC LỊCH SỬ VÀ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA TỘC NGƯỜI HÀ NHÌ Ở HUYỆN BÁTXÁT, TỈNH LÀO CAI
1.1.Khái quát về nguồn gốc lịch sử của tộc người Hà Nhì [Ảnh 1-tr 14]
Tộc người Hà Nhì là một trong 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam, có tên gọi khác: Ha Ni, U Ní, Xá U Ní, thuộc ngữ hệ Tạng - Miến có số
dân tương đối đông ở Việt Nam và trải qua cả một lịch sử di dân và định cư
lâu dài, bền bỉ để vào cư trú ở Việt Nam. Ở Việt Nam có khoảng 17.500 người
Hà Nhì (1999) cư trú ở các tỉnh Lai Châu và Lào Cai, giáp với Trung Quốc.
Đến nay người ta chưa biết rõ nguồn gốc của người Hà Nhì, tuy tổ tiên
họ, tộc người Khương, đã di cư từ vùng cao nguyên Thanh Tạng xuống phía
nam từ trước thế kỷ thứ ba.Theo lời truyền miệng của người Hà Nhì thì họ có
nguồn gốc từ người Di (Yi), tách khỏi nhau thành bộ tộc riêng biệt 50 đời về
trước. Cư dân Hà Nhì sinh sống rất sớm ở miền núi Bắc Bộ. Nhưng phần lớn
tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300
năm trở lại đây.
Dù có nhiều lời đàm tiếu về nguồn gốc của người Hà Nhì thì họ cũng
đã sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam hàng trăm năm nay mà không làm ảnh
hưởng đến người dân bản địa hay làm tổn hại đến dân tộc đất nước.
Trải qua bao biến động của lịch sử, thử thách của thời gian nhưng
người Hà Nhì hiện nay vẫn giữ được nguyên vẹn văn hóa cổ truyền và đón
nhận thêm những nền văn hóa, văn hóa hiện đại, góp phần làm giàu thêm nền
văn hóa dân tộc Việt Nam đậm đà bản sắc.
1.2. Đặc trưng văn hóa của tộc người Hà Nhì [ Ảnh 2-tr 15 ]
Người Hà Nhì phân bố ở các huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu và
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai nhưng tập trung đông nhất ở huyện Bát Xát, tỉnh
Lai Châu.
5
Người Hà Nhì là một trong những dân tộc có nét văn hóa truyền thống
đặc sắc và khác biệt nhiều so với những dân tộc anh em cùng chung sống.
Dân tộc Hà Nhì có rất nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc điển hình như
nhà trình tường, trang phục, lễ hội, các đặc sản đặc trưng.
Nhà ở của người Hà Nhì rất đặc sắc, nhà truyền thống của họ là nhà
đất. Bộ khung nhà khá đơn giản. Vì kèo cơ bản là kiểu vì kèo ba cột. Nhà có
hiên rộng, người ta còn làm thêm một cột hiên nên trở thành vì bốn cột.
Tường trình rất dày. Nhà không có cửa sổ, của ra vào cũng ít, phổ biến là chỉ
có một cửa ra vào mở ở mặt trước nhà và lệch về một bên. Mặt bằng sinh
hoạt: nhà thường ba gian, ít nhà bốn gian. Có hiên rộng ở mặt trước nhà.
Trong nhà chia theo chiều dọc: nữa nhà phía sau là các phòng nhỏ. Nửa nhà
phía trước để trồng, một góc nhà có giường dành cho khách, ở đây còn có bếp
phụ. Cũng có trường hợp hiên được che kín như là một hành lang hẹp thì cửa
mở ở chính giữa. Những trường hợp như thế này thuộc về gian chính giữa
hoặc thêm một gian bên cạnh có sàn cao khoảng 40 cm để dành cho khách, ở
đây cũng có bếp phụ.
Văn hóa riêng của người Hà Nhì còn được thể hiện ở trang phục truyền
thống. Trang phục của người Hà Nhì khá đơn giản, không quá cầu kỳ, những
bộ trang phục dó đều do những người phụ nữ trong gia đình làm nên. Đặc sắc
nhất trên bộ trang phục của người dân tộc Hà Nhì đó là những họa tiết được
thêu tay trên tà áo, cổ áo và mũ. Bộ trang phục của người dân tộc Hà Nhì thể
hiện tín ngưỡng sùng bái thiên nhiên và những kinh nghiệm sống của người
giữa thiên nhiên. Dễ dàng nhận thấy những họa tiết trên trang phục truyền
thống của phụ nữ Hà Nhì thể hiện sự hòa hợp giữa yếu tố con người và thiên
nhiên. Các họa tiết phản ánh một phần cuộc sống sinh hoạt.
Trong tín ngưỡng thờ cúng của dân tộc Hà Nhì cũng như các dân tộc
khác, có rất phong phú và nhiều lễ hội được tổ chức hàng năm như: lễ hội
cúng thần Rừng (Gà ma gio), lễ hội chùm khăn, lễ hội tạ thần nước, lễ hội cầu
mùa Khù Già Già,...
6
Dân tộc Hà Nhì có nền văn hóa, văn nghệ lâu đời, đậm đà bản sắc dân
tộc, bao gồm nhiều loại bài hát, nhiều điệu dân vũ, nhiều kiểu nhạc cụ và
nhiều tác phẩm văn học dân gian. Hát có hát ru con, hát đối đáp, hát mời
rượu, hát đưa ma, hát chào khách, hát mừng nhà mới, đặc biệt là hát mừng
đám cưới có độ dài hơn 400 câu của người Hà Nhì ở vùng cao huyện Mường
Nhé, tỉnh Điện Biên. Múa có các điệu múa lên nương, múa dệt vải, múa đợi
mưa, múa vào mùa, múa trông trăng, múa giã bạn… Nhạc cụ có trống, thanh
la, chập cheng, am ba, khèn lá, đàn môi, tiêu trúc, tiêu biểu là đàn nét đu - loại
đàn 4 dây hòa âm, mang tên một loài hoa rừng màu tím. Kho tàng văn học
phong phú với các câu truyện cổ tích, thần thoại, trường ca, truyện thơ, ca
dao, thành ngư, tục ngữ…
7
CHƯƠNG 2
TỤC CƯỚI XIN TRUYỀN THỐNG CỦA TỘC NGƯỜI HÀ NHÌ Ở
BÁT - XÁT, LÀO CAI
2.1 Quan niệm hôn nhân của tộc người Hà Nhì
Quan niệm hôn nhân của người Hà Nhì tiến bộ hơn so với các dân tộc ít
người lân cận. Họ quan niệm tình yêu là xuất phát từ hai phía và đôi nam nữ
có thể tự do tìm hiểu nhau, tự do lựa chọn người mình yêu thương, lựa chọn
người bạn đời của bản thân. Đến khi cảm thấy người mình lựa chọn là phù
hợp nhất thì cả hai đưa nhau về nhà bố mẹ hai bên để xin được đến với hân
nhân. Vì vậy bố mẹ trong tộc người Hà Nhì không cần tốn công sức tìm người
yêu cho con cái của mình mà chì cần đợi chúng dắt người yêu về ra mắt và
xin cưới. Có thể nói quan niệm tiến bộ của người Hà Nhì vừa phù hợp với
tâm tư tình cảm của giới trẻ vừa phù hợp với quy định và pháp luật của nhà
nước.
2.2. Đám cưới của tộc người Hà Nhì
2.2.1. Công tác chuẩn bị đám cưới của người Hà Nhì [ Ảnh 3- tr 15]
Sau khi các thủ tục cần thiết được hoàn tất,đám cưới sẽ được thông báo
tại một cuộc họp gần nhất của bản để mọi người nắm được sự kiện quan trọng
này. Cả bản coi đây là việc chung, mọi người phải có mặt.
Chuẩn bị đến ngày cưới, cả hai bên mời người thân về để cùng lo đại sự
. Khi về, tuỳ theo điều kiện của mỗi gia đình mà mang theo lễ về . Công việc
của họ hàng là chuẩn bị cỗ bàn tươm tất...
Tối hôm trước ngày cưới, các dãy mâm cỗ đã được dọn sẵn tại gia đình
nhà trai. Chủ nhà mời đại diện các gia đình trong bản cùng gia đình trong họ
tộc đến ăn cơm và bàn bạc .Tại đây bàn các công việc sau: Chọn người làm
chủ hôn, làm phụ rể; chọn đoàn người đi đón dâu với điều kiện (khoẻ, am
hiểu lý lẽ, đặc biệt là không nghiện rượu; phân công ở nhà chuẩn bị các công
việc).
Thủ tục của tối hôm trước ngày cưới là: Gom hết gạo thịt, rượu dùng
8
cho cuộc cưới này để ăn uống. Từ tối hôm nay, những người quan trọng của
hai bên gia đình gần như không ngủ.
2.2.2. Trang phục cô dâu – chú rể [ Ảnh 4- tr 16 ]
Trang phục của cô dâu, chú rể theo qui định của phong tục là:
- Chú rể đi chân đất, đầu đội khăn xếp cuốn bằng vải chàm, mặc hai lớp
áo, bên trong áo trắng bẻ cổ ra ngoài, bên ngoài là áo đen truyền thống của
dân tộc.
- Cô dâu mặc quần, áo đúng theo bản sắc thiếu nữ dân tộc Hà Nhì, chỉ
có khác so với ngày thường ở chỗ, đầu chùm khăn kín, đeo thắt lưng dài và
cũng đi chân đất.
2.2.3. Tổ chức đám cưới của người Hà Nhì [Ảnh 5- tr 16
]
Theo truyền thống, hôn nhân phải do bố mẹ hai bên đồng ý và tổ chức
qua các nghi lễ sau: dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt.
- Lễ dạm hỏi:
Sau khi được gia đình hai bên đồng ý, nhà trai sẽ cho người sang nhà
cô gái để dạm hỏi. Mục đích của lễ dạm hỏi là hai bên gia đình bàn bạc, thống
nhất để quyết định chọn ngày cưới, đồ thách cưới cũng như cách thức tổ chức
đám cưới.
Trước kia, việc thách cưới thường rất nặng nề nên nhiều gia đình vì
hoàn cảnh nghèo khó, nhiều đôi trai gái yêu nhau nhưng không được ở với
nhau. Ngày nay, việc thách cưới chỉ mang tính tượng trưng, một số thủ tục
mang nặng tính lễ nghi đã được giản lược. Người Hà Nhì thường thách cưới:
200 gói gạo nếp, 100 quả trứng, lợn (trước đây thì tùy, bây giờ khoảng 50 - 60
kg), rượu, 2 - 3 đồng bạc trắng (không được quy thành tiền), một đôi gà (1
con trống, 1 con mái) và một ít tiền mặt. Đôi khi lễ vật thách cưới, thịt lợn,
rượu… được quy đổi thành tiền mặt do hai bên gia đình thỏa thuận hay tùy
vào điều kiện kinh tế của gia đình nhà trai.
- Lễ cưới: Người Hà Nhì Đen ở Bát Xát thường chọn ngày tốt để tổ
chức lễ cưới, tránh những ngày trùng với ngày sinh, tháng sinh, năm sinh của
9
cặp vợ chồng sắp cưới. Lễ cưới của người Hà Nhì Đen ở Bát Xát thường được
tổ chức làm hai lần. Cụ thể như sau:
+ Lần 1 :
Trong trường hợp hôn nhân được cả hai bên cha mẹ đồng ý, chàng trai
thưa chuyện với bố mẹ để thống nhất chọn ngày tốt. Vào ngày đã chọn, chú rể
đi cùng một người con trai, một người con gái chưa lập gia đình sang nhà gái,
cô gái sẽ vào nhà gọi cô dâu ra để đi về nhà trai. Thường sẽ có mấy người bạn
cùng cô dâu sang nhà chồng; nếu nhà chú rể ở xa, các bạn cô dâu đi đến nửa
đường có thể quay trở về. Tùy thuộc vào khoảng cách giữa hai nhà, chú rể và
cô dâu phải tính toán thời gian để kịp làm lễ vào buổi tối tại nhà trai.
Khi đoàn đón dâu về đến cửa nhà trai, người cô của chú rể liền cầm
một gáo nước lần lượt rửa chân cho chú rể, phù rể, phù dâu và cuối cùng là cô
dâu trước khi họ bước vào nhà. Sau khi cô dâu đi qua cửa chính, một người
phụ nữ lớn tuổi có gia đình hạnh phúc tay cầm địu đứng chờ sẵn để đeo cho
cô dâu. Lúc này, chú rể đã vào nhà trước đứng chờ ở phía trong, cô dâu đi vào
thả địu xuống và chú rể nhanh tay đỡ lấy. Nếu chú rể đỡ được chiếc địu đó
nghĩa là anh ta kiểm soát được cô dâu và gia đình của họ sau này sẽ hạnh
phúc; ngược lại, nếu cô dâu thả địu xuống mà chú rể không đỡ được thì gia
đình của họ sẽ không hạnh phúc và cô dâu sẽ là người phản bội trước. Tiếp
sau đó, chú rể bắt một con gà trống làm thịt để làm lễ trình báo tổ tiên, gọi là
lễ su mi y. Khi bắt gà, chú rể phải làm cho con gà kêu thật to để chứng tỏ cô
dâu là người tốt, có tấm lòng trong sáng. Lễ vật để cúng trình báo tổ tiên gồm:
thịt gà, trứng, cơm, rượu… Người chủ lễ thường là anh trai chú rể đã có gia
đình và chưa tái hôn, nếu không có thì phải nhờ một người già trong thôn
đứng ra làm chủ lễ. Gia chủ báo cáo với tổ tiên từ nay gia đình có thêm một
thành viên mới về làm dâu (đọc tên cô dâu). Sau khi cúng tổ tiên, chủ lễ lấy
hai cái đùi gà, bổ đôi quả trứng đặt vào bát cơm của cô dâu và chú rể. Bát
cơm của chú rể để nửa quả trứng đặt ngửa lên, bát cơm cô dâu đặt nửa quả
trứng úp xuống, cả hai cùng ăn tượng trưng rồi đem chia cho những đứa trẻ
10
trong nhà để cầu phúc cho hai vợ chồng trẻ.
Sáng hôm sau khi làm lễ su mi y, nhà trai mang đồ thách cưới sang nhà
gái để làm đám cưới . Đến lúc này, cô dâu và chú rể cùng nhau về tổ chức
đám cưới bên nhà gái. Khi về, họ phải đi cùng 2 người đã sang thông báo cho
nhà gái trước đó và một cô em gái chưa chồng (nếu không có em ruột, có thể
thay thế bằng em họ hoặc hàng xóm). Lễ vật nhà trai đem sang nhà gái lúc
này gồm có một chai rượu, cơm nếp và một quả trứng để hỏi về đồ thách cưới
trong lễ cưới lần thứ hai. Đám cưới bên nhà gái chỉ được tổ chức vào buổi tối,
cưới xong thì đoàn về nhà trai.
Trong trường hợp nhà cô gái không đồng ý, đôi trai gái sẽ hẹn nhau tại
một địa điểm nào đấy, chàng trai cùng một số người bạn đến đưa cô gái về
nhà trai làm lễ su mi y. Sáng hôm sau, nhà trai cử 2 người đàn ông sang thông
báo cho nhà gái biết là con gái của ông bà đã được làm lễ rồi. Khi đi,họ mang
theo 1 cặp xôi nếp bên trong có trứng và 1 chai rượu để hỏi xem nhà cô gái có
đồng ý không. Nếu đồng ý cho đôi trẻ lấy nhau, nhà gái mở gói gạo nếp ra.
Nếu không đồng ý, nhà gái sẽ không mở lễ vật này; sau đó, đoàn nhà trai ra
về, lần sau tiếp tục sang xin lần nữa; có những đám cưới, nhà trai phải sang
tới 3 lần, nhà gái mới chấp nhận. Trong trường hợp này, nhà gái thường chấp
nhận; hoặc họ sẽ chờ đến khi đôi trẻ có con đầu lòng thì mới chấp thuận cho
đôi trẻ lấy nhau.
+ Lễ cưới lần thứ hai:
Lễ cưới lần thứ hai là để thông báo rằng, đôi vợ chồng vẫn sống hạnh
phúc và báo hiếu bố mẹ nhà gái đã có công sinh thành, nuôi nấng cô dâu. Các
lễ vật trong lần cưới này được hai gia đình thống nhất từ lần cưới trước. Khi
cưới lần hai, gia đình cũng chọn ngày rất cẩn thận, tránh những ngày xấu của
gia đình chú rể .Cưới lần thứ bên nhà gái thường ăn uống kéo dài 1 - 2 ngày.
Tất cả chi phí đều do nhà trai trang trải. Khách của nhà gái, ngoài những
người trong làng và dòng họ.Vì thế, người Hà Nhì Đen chỉ tổ chức đám cưới
lần hai khi kinh tế gia đình đã ổn định. Có nhiều cặp vợ chồng sống với nhau
11
có con, cháu nhưng vẫn chưa đủ điều kiện cưới lần hai; thậm chí, có người
đến lúc chết vẫn không thực hiện được điều này. Theo quan niệm của người
Hà Nhì, nếu không tổ chức đám cưới lần hai, khi chết đi, linh hồn của hai vợ
chồng ở thế giới bên kia sẽ không nhận ra nhau. Vì vậy, đối với những trường
hợp này, gia đình phải “làm lý” với lễ vật gồm: 10 cặp xôi nếp, một con lợn
bé, một đôi gà, 10 - 20 lít rượu mang sang mời họ hàng nhà gái ăn một bữa
cơm.
Trong khi đó, đám cưới bên nhà trai thường đơn giản. Trong lễ cưới,
cô dâu và chú rể mặc các trang phục truyền thống của dân tộc; ngoài ra, họ
cũng đưa nhau đi chụp ảnh cưới tại các cửa hàng áo cưới trong huyện để làm
kỷ niệm. Hiện nay, quà mừng đám cưới cũng có nhiều khác biệt so với trước
kia: những vật phẩm như gà, lợn, gạo, rượu… đã được thay bằng tiền mặt; giá
trị tiền mặt nhiều hay ít phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình.
- Lễ lại mặt:
Lễ lại mặt của người Hà Nhì được thực hiện sau đám cưới vài ngày.
Nhà trai sẽ chọn ngày lành cho đôi vợ chồng trẻ về lại mặt gia đình bên vợ.
Đôi vợ chồng trẻ ở lại nhà vợ vài ba hôm rồi quay về sinh sống hẳn bên nhà
chồng. Từ đó trở đi, khi nào cô gái nhớ nhà hay gia đình có công việc thì xin
phép nhà chồng về thăm nhà.
12
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHAP BẢO TỒN VA PHAT HUY CAC GIA TRỊ
TRUYỀN THỐNG TRONG PHỤC TỤC CƯỚI XIN CỦA TỘC NGƯỜI
HA NHI
Qua nghiên cứu nghi lễ của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh
Lào Cai hiện nay, tôi xin đề xuất một số kiến nghị một số giải pháp phù hợp
để bảo tồn và phát huy những giá trị nghi lễ truyền thống của người Hà Nhì
trong bối cảnh hiện nay như sau:
- Cần triển khai công tác sưu tầm, thống kê, phân loại các nghi lễ, nhất
là nghi lễ cộng đồng vì những giá trị văn hóa tộc người trong các nghi lễ này
đang dần bị phai nhạt.
- Cần có những chương trình, đề tài nghiên cứu sâu hơn từ đó có những
công trình khoa học cung cấp nhiều thông tin bổ ích, có giá trị để các cơ quan
quản lý, người dân hiểu được giá của nghi lễ, xây dựng định hướng trong việc
bảo tồn, phát huy các giá trị này. Cần chủ động thực hiện các dự án, chương
trình điều tra sưu tầm phục vụ công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của
người Hà Nhì một cách thường xuyên.
- Cần có sự chung tay góp sức của cả hệ thống chính trị từ cấp trung
ương cho đến cơ sở, nhất là sự hợp tác từ người dân thì công tác bảo tồn mới
thức sự hiệu quả. Đặc biệt chú ý đến những công trình nghiên cứu, sưu tầm
giữa bảo tồn văn hóa với phát triền kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
- Xây dựng chính sách thu hút sự tham gia cho những người có uy tín
trong cộng đồng đang lưu giữ sống động những giá trị văn hóa tộc người mà
chúng ta cần khai thác một cách đầy đủ.
- Khơi dậy lòng tự hào về văn hóa của dân tộc chính là động lực giúp
người dân thoát ra khỏi định kiến “lạc hậu”, “mê tín dị đoan” đã từ lâu tồn tại
trong quan niệm và cách suy nghĩ của nhiều người.
- Trong thực tế ngày nay, môi trường truyền thống đó đang bị phá vỡ
bởi sự cộng cư của các dân tộc trong cùng một địa bàn cư trú... Chính điều
13
này đang làm cho môi trường là không gian nghi lễ dần thay đổi. Do đó, cần
phát triển tộc người Hà Nhì trong môi trường truyền thống của họ phù hợp
điều kiện hiện nay, trong đó chú ý đến không gian thiêng của cộng đồng.
- Cần phục dựng lại những sinh hoạt cộng đồng truyền thống tốt đẹp
đã bị mai một. Trước tiên là vấn đề công tác tổ chức, cần trao dần công tác tổ
chức và tiến tới giao hẳn cho người dân thực hiện. Có như vậy, người dân mới
chủ động và nhận thức được rõ hơn giá trị, vai trò, ý nghĩa của các lễ hội
truyền thống, cũng như có trách nhiệm hơn trong việc duy trì và bảo tồn văn
hóa, lễ hội truyền thống của dân tộc.
- Cũng cần tuyên truyền cho người dân hiểu và tự bảo vệ những giá trị
văn hóa tộc người thông qua việc tuyên truyền, giáo dục các yếu tố tốt đẹp
trong nghi lễ.
- Ngày nay, ngày càng có nhiều con em đi học và công tác xa, mỗi khi
tổ chức các nghi lễ truyền thống chính là dịp để chúng trở về cùng gia đình,
thôn bản. Đây chính là thời điểm để con cháu ôn lại những sinh hoạt văn hóa
truyền thống tộc người. Như vậy, đặc trưng văn hóa tộc người Hà Nhì mới
không bị mất đi.
14
KẾT LUẬN
Đám cưới của tộc người Hà Nhì có những phong tục truyền thống rất
đặc biệt và đây cũng là nét độc đáo của dân tộc họ. Nhờ quá trình tìm hiểu và
nghiên cứu của mình, tôi đã tích lũy thêm được nguốn kiến thức mới, tri thức
bổ ích, làm giàu thêm vốn hiểu biết của bản thân. Bên cạnh đó cũng tìm hiểu
thêm được nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam ngàn năm văn
hiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thái. Tục cưới hỏi ở Việt Nam. Nhà xuất bản văn
hóa thông tin.
2. Chu Thùy Liên. Văn hóa dân gian dân tộc Hà Nhì. Nhà xuất bản văn hóa dân
tộc.
3. />4. />
16
PHỤ LỤC
Ảnh 1: Dân tộc Hà Nhì
17
Ảnh 2: Lễ hội của người Hà Nhì
Ảnh 3: chuẩn bị đám cưới của người Hà Nhì
18
Ảnh 4: Cô dâu chú rể người Hà Nhì
Ảnh 5: tổ chức đám cưới người Hà Nhì
19