1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Dương Tuấn Nghĩa
TRI THỨC DÂN GIAN TRONG KHAI THÁC
VÀ BẢO VỆ RỪNG CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ ĐEN
Ở HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2017
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Dương Tuấn Nghĩa
TRI THỨC DÂN GIAN TRONG KHAI THÁC
VÀ BẢO VỆ RỪNG CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ ĐEN
Ở HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số:
62 22 01 30
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Nguyễn Thị Hiền
2. TS. Phạm Thị Thu Hương
Hà Nội - 2017
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu,
kết quả và trích dẫn trong luận án đều được ghi nguồn chính xác, đầy đủ. Các kết
quả nghiên cứu trình bày trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Dương Tuấn Nghia
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT......................................................................... 3
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN... 12
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 12
1.2. Cơ sở lý luận .................................................................................................... 25
Tiểu kết.................................................................................................................... 39
Chương 2. ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU, NGƯỜI HÀ NHÌ ĐEN VÀ TRI THỨC DÂN
GIAN TRONG KHAI THÁC RỪNG....................................................................... 40
2.1. Địa bàn nghiên cứu và tài nguyên rừng nơi người Hà Nhì Đen cư trú...... 40
2.2. Khái quát về người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai ................ 43
2.3. Rừng với đời sống của người Hà Nhì Đen .................................................... 48
2.4. Rừng với tri thức dân gian trong khai thác tài nguyên rừng ..................... 54
Tiểu kết.................................................................................................................... 77
Chương 3. TRI THỨC DÂN GIAN TRONG BẢO VỆ RỪNG......................... 79
3.1. Quan niệm về rừng thiêng với vấn đề bảo vệ rừng...................................... 79
3.2. Nghi lễ thiêng với vấn đề bảo vệ rừng ........................................................... 91
3.3. Luật tục trong bảo vệ rừng ............................................................................ 97
3.4. Dư luận thôn bản với vấn đề bảo vệ rừng................................................... 110
3.5. So sánh quan điểm về rừng của người Hmông, người Dao....................... 112
Tiểu kết.................................................................................................................. 116
Chương 4. TRI THỨC DÂN GIAN VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG........... 119
4.1. Sự biến đổi và những vấn đề đặt ra của tri thức dân gian ........................ 119
4.2. Tri thức dân gian với các dự án phát triển kinh tế rừng .......................... 126
4.3. Tri thức dân gian trong phát triển môi trường sinh thái bền vững ........ 130
4.4. Bảo vệ và phát huy tri thức dân gian trong phát triển bền vững ............. 133
4.5. Định hướng xây dựng Quy ước mới và dư luận xã hội ............................. 141
Tiểu kết.................................................................................................................. 142
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ................... 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 150
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 168
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CB:
Cán bộ
CT:
Chủ tịch
GS:
Giáo sư
Ha:
Héc ta
HN
Hà Nội
Km
Ki lô mét
NCS:
Nghiên cứu sinh
Nxb:
Nhà xuất bản
PGS:
Phó giáo sư
PL:
Phụ lục
Sđd:
Sách đã dẫn
T/C:
Tạp chí
Tr:
Trang
TS:
Tiến sĩ
Stt:
Số thứ tự
TTDG
Tri thức dân gian
UBND:
Ủy ban nhân dân
VHTTDL:
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
4
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Stt
Nội dung
Trang
Bảng
Tổng hợp diện tích rừng cấm, rừng tự nhiên do các thôn quản lý
115
Sơ đồ 1
Khung phân tích nghiên cứu của luận án
10
Sơ đồ 2
Mối quan hệ “Đa nhất thể”
20
Sơ đồ 3
Mối quan hệ giữa ba không gian
50
Sơ đồ 4
Mối quan hệ giữa 3 cơ chế trong quản lý rừng
79
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môi trường sinh thái hiện nay đang biến đổi nhanh chóng, rừng bị tàn phá,
đất đai bị bào mòn, nguồn nước cạn kiệt đã làm cho quá trình biến đổi khí hậu diễn
ra ngày càng khốc liệt. Sự biến mất của các khu rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn,
rừng phòng hộ do nạn chặt phá rừng lấy gỗ bừa bãi. Sự xuất hiện của các dự án phát
triển kinh tế đang làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên cạn kiệt.
Hệ sinh thái rừng bị ảnh hưởng là một trong những nguyên nhân khiến cho thiên tai
liên tục xảy ra với sức công phá ngày càng lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến con
người và tài sản của nhân dân các khu vực vùng núi cao của tỉnh Lào Cai.
Trong gần 10 năm qua, thiên tai cướp đi nhiều sinh mạng và của cải vật chất
của người dân. Nhiều thôn bản của người Dao, người Giáy, người Hmông bị lũ quét,
sạt lở đất, vùi lấp ruộng nương, hoa màu, thậm chí một số thôn bị xóa sổ hoàn toàn
như thôn Sủng Hoảng (xã Phìn Ngan), thôn Tùng Chỉn I (xã Trịnh Tường). Qua số
liệu thống kê về bão lũ và sạt lở đất của huyện Bát Xát từ năm 2008 đến năm 2017, lũ
ống, lũ quét và sạt lở đất làm chết và bị thương gần 60 người, hàng trăm hecta đất ở
và đất canh tác bị vùi lấp. Trong đó, điển hình là trận lũ lịch sử xảy ra vào tháng
8/2008 tại thôn Tùng Chỉnh I, xã Trịnh Tường làm hơn 20 người chết và mất tích, bị
thương 9 người chủ yếu là người Dao. Vào tháng 8/2010, một trận lũ quét lịch sử xảy
ra tại thôn Cửa Cải, xã Mường Vi, mặc dù chỉ có 1 người bị chết, 4 người bị thương,
nhưng lũ quét đã tàn phá các thôn bản của người Giáy, vùi lấp hơn 40 ha đất trồng
lúa, nhiều nhà bị cuốn trôi, đường giao thông bị phá hủy. Trận mưa lũ tháng 8/2016
đã quét qua xã Cốc San, Tòng Sành, Quang Kim, Phìn Ngan của huyện Bát Xát làm
13 người chết và mất tích, 5 người bị thương, 794 ngôi nhà bị hư hỏng, hơn 400 ha
hoa màu, lúa bị vùi lấp, nhiều thôn bản của người Dao, Hmông, Giáy bị tàn phá. Gần
đây nhất là trận mưa bão số 6 vào tháng 8/2017 làm 1 người chết, 1 người mất tích,
nước lũ tàn phá nhiều nhà cửa, đất canh tác, đường giao thông của các xã Trịnh
Tường, Nậm Chạc, A Mú Sung, Bản Qua làm thiệt hại nhiều tỷ đồng. Có thể nói, cứ
sau mỗi cơn mưa bão đều xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất ở các mức độ khác nhau,
gây thiệt hại về người và tài sản của hầu hết đồng bào các dân tộc. Tuy nhiên, có một
6
tộc người cùng cư trú trên dải đất ấy lại hầu như chưa bao giờ phải gánh chịu những
thiệt hai do thiên tai gây ra, đó là cộng đồng người Hà Nhì Đen cư trú ở các xã Y Tý,
Nậm Pung, A Lù, Trịnh Tường, A Mú Sung của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Tại sao lại có hiện tượng như vậy? Khu vực cư trú của người Hà Nhì Đen có gì đặc
biệt? Các thôn bản của họ có khác gì so với các thôn bản của các dân tộc anh em khác? Tri
thức dân gian trong bảo vệ và khai thác rừng có vai trò như thế nào trong hiện tượng ấy?
Và trong phát triển bền vững môi trường sinh thái rừng? Câu hỏi đặt ra là “Nếu tri thức
dân gian được sử dụng một cách hiệu quả có thể giảm thiểu được những tai họa của thiên
tai gây ra” ?
Nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng, NCS chọn đề tài Tri thức dân gian
trong khai thác và bảo vệ rừng của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai để làm đề tài cho luận án Tiến sĩ. Đề tài sẽ từng bước nghiên cứu, phân tích tri
thức dân gian của người Hà Nhì Đen trong việc bảo vệ môi trường sinh thái nói
chung, trong khai thác và bảo vệ rừng theo hướng bền vững.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Đưa ra cơ sở lý luận nghiên cứu về tri thức dân gian và vai trò tri thức dân gian
với khai thác, bảo vệ rừng gắn với phát triển bền vững môi trường sinh thái.
- Trên cơ sở vận dụng một số lý thuyết trong văn hóa dân gian và sinh thái văn
hóa, luận án tập trung nghiên cứu và phân tích tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ
rừng của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Nghiên cứu, phân tích vai trò tri thức dân gian của cộng đồng trong các dự án
phát triển, góp phần làm tăng tính thực tiễn và hiệu quả của các dự án.
- Từ nghiên cứu tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ rừng, luận án bàn
luận về các vấn đề bảo vệ và phát huy tri thức dân gian về bảo vệ rừng với vấn đề
phát triển bền vững.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích tri thức dân gian trong khai thác tài nguyên rừng của
người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
7
- Nghiên cứu, phân tích tri thức dân gian trong bảo vệ rừng của người Hà
Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Đặc biệt đi sâu nghiên cứu, phân tích về cơ
chế thiêng hóa rừng; luật tục thực hiện hóa tri thức dân gian; xây dựng lực lượng
thực thi các quy định của luật tục và thực hiện cơ chế giám sát toàn dân.
- Đánh giá vai trò của tri thức dân gian trong bảo vệ môi trường sinh thái và
khai thác rừng bền vững bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của tri thức dân gian
và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong các dự án phát triển rừng.
- Nghiên cứu, phân tích sự biến đổi của tri thức dân gian nhằm nâng cao
nhận thức, trao truyền và phát huy tri thức dân gian trong khai thác, bảo vệ rừng
hiện nay hướng tới phát triển bền vững.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ
rừng của người Hà Nhì Đen ở hai xã Y Tý và Nậm Pung của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu. Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích về tri thức dân
gian trong khai thác, bảo vệ rừng của người Hà Nhì Đen và các vấn đề liên quan.
Về không gian nghiên cứu: Luận án lựa chọn 2 địa điểm tiến hành khảo sát,
nghiên cứu là 2 xã Y Tý và Nậm Pung của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Đây là hai
địa bàn có tổng diện tích rừng lớn (chiếm 16,62% diện tích rừng tự nhiên của toàn
huyện Bát Xát), là hai xã có số người tập trung đông với 3.112 người/4.347 người
Hà Nhì Đen trong toàn huyện Bát Xát (chiếm 71,58%). Đây là vùng đất có lịch sử
hình thành từ lâu đời và cũng là nơi có diện tích rừng nguyên sinh lớn nhất huyện.
Về thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích tri thức
dân gian của người Hà Nhì Đen trong khai thác và bảo vệ rừng truyền thống và từ
sau thời kỳ đổi mới (1986) đến nay. Đó cũng là thời điểm có nhiều chính sách về
bảo vệ rừng, phát triển rừng trong công cuộc đổi mới của Chính phủ được ban hành
và thực hiện.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Rừng có vai trò như thế nào trong đời sống của người Hà Nhì Đen ở huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai?
8
- Tri thức dân gian được người Hà Nhì Đen vận dụng như thế nào trong khai
thác và bảo vệ rừng bền vững?
- Làm thế nào để duy trì và phát huy tốt các giá trị của tri thức dân gian trong
khai thác, bảo vệ rừng trong phát triển bền vững hiện nay?
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu định tính: Để thu thập các thông tin, dữ liệu, tài
liệu sơ cấp được người dân bảo lưu bằng trí nhớ, bằng truyền khẩu và thực hành xã
hội, NCS đã tiến hành điền dã và thực hiện các thao tác sau:
+ Quan sát tham dự: Từ năm 2011 đến tháng 9/2017, NCS đã thực hiện hơn 20
chuyến nghiên cứu điền dã tại các địa bàn tập trung đông người Hà Nhì Đen, nơi có
diện tích rừng tự nhiên lớn của huyện Bát Xát là các thôn của xã Nậm Pung, xã Y Tý.
Trong đó, NCS lựa chọn tập trung nghiên cứu ở các thôn Lao Chải 1,2,3, thôn Choản
Thèn, Mò Phú Chải, Ngải Chồ, Sim San và Sín Chải 1 của xã Y Tý; thôn Kin Chu Phìn
1,2 của xã Nậm Pung. Qua các chuyến điền dã, NCS quan sát, tìm hiểu mọi hoạt động
kinh tế, văn hóa, các mối quan hệ ứng xử của người Hà Nhì Đen với rừng. NCS thực
hiện việc điền dã đủ chu kỳ 12 tháng nhằm tập trung quan sát tham dự, sưu tầm, ghi
chép tư liệu liên quan đến khai thác và bảo vệ rừng.
+ Phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi cố: Để khai thác thông tin từ các cá nhân,
nhóm người khác nhau, NCS tiến hành phỏng vấn những nghệ nhân, già làng,
trưởng bản, thầy cúng và những người có uy tín khác đã được lựa chọn và theo
phương pháp “bông tuyết lăn”, từ người này giới thiệu người khác theo nội dung
cần tìm hiểu. Thời gian thực hiện điền dã, phỏng vấn thường được thực hiện vào
các vào khoảng thời gian từ cuối tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Đây là
thời gian nhàn rỗi nhất của người Hà Nhì Đen, vì mùa thu hoạch lúa nương, lúa trên
ruộng bậc thang và hoa màu đã xong. Để thực hiện phương pháp này, NCS thực
hiện “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc) với người dân. NCS dành nhiều
thời gian nói chuyện với những người am hiểu về phong tục tập quán, tri thức dân
gian về khai thác và bảo vệ rừng, về lịch sử dòng tộc, về các nghi lễ truyền thống.
+ Thảo luận nhóm: Đối với một số vấn đề quan trọng hoặc vấn đề người
dân chưa thống nhất, NCS tiến hành một số cuộc thảo luận nhóm để tìm được sự
9
đánh giá thống nhất chung của cộng đồng, nhất là vấn đề đánh giá về các dự án, vai
trò của các khu rừng thiêng, về quy ước xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh: Nghiên cứu, phân tích và so sánh sự
biến đổi của tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ rừng từ trước và sau thời kỳ
đổi mới đến nay. Luận án cũng so sánh những nhận thức và hành vi ứng xử của
người Hà Nhì Đen với môi trường sinh thái trong mối quan hệ với các cộng đồng
người Dao, Hmông trong địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Khi phân tích, đánh giá sự biến đổi
của tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ rừng của người Hà Nhì Đen. NCS đã
vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành của nhân học văn hóa, khoa học phát
triển, xã hội học, văn hóa dân gian trong quá trình nghiên cứu về văn hóa truyền
thống, mối quan hệ giữa tri thức dân gian với phát triển bền vững, giữa văn hóa dân
gian người Hà Nhì Đen với môi trường sinh thái.
- Phương pháp sưu tầm, phân tích tư liệu thứ cấp: NCS sưu tầm và chọn
lọc các tài liệu bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc liên quan đến người
Hà Nhì Đen, tri thức dân gian về phát triển bền vững rừng. Các báo cáo về văn hóa,
xã hội, kinh tế của xã Y Tý, Nậm Pung, các Dự án được lưu trữ tại huyện Bát Xát
để làm rõ hơn về lịch sử và các vấn đề liên quan đến rừng của người Hà Nhì Đen.
- Khung phân tích trong nghiên cứu của luận án (sơ đồ 1):
Khung phân tích của luận án được thực hiện trên cơ sở 4 quan điểm tiếp cận
chính là tri thức dân gian, sinh thái văn hóa, Quan điểm chủ thể và chỉnh thể luận
phát triển bền vững. Từ 4 quan điểm này tiến hành nghiên cứu, phân tích về tri thức
dân gian trong khai thác và bảo vệ rừng của người Hà Nhì Đen từ nghiên cứu khái
niệm, bản chất của tri thức dân gian; nghiên cứu tri thức dân gian với khai thác rừng
ở một số tộc người láng giềng; nghiên cứu về người Hà Nhì Đen và tri thức dân
gian người Hà Nhì trên thế giới và Việt Nam của các tác giả đi trước; nghiên cứu
quan hệ của tri thức dân gian với phát triển bền vững rừng. Từ các phương án tiếp
cận ấy tiến hành nghiên cứu về tri thức dân gian trong khai thác, bảo vệ rừng của
người Hà Nhì Đen.
10
Sơ đồ 1: Khung phân tích nghiên cứu của luận án
Quan điểm chủ thể và chỉnh thể
luận
Khái
niệm, bản
chất của
TTDG
Sinh
thái
văn
hóa
Nghiên cứu tư
liệu sơ cấp
Nghiên cứu tư
liệu thứ cấp
Tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ rừng của
người Hà Nhì Đen huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
TTDG
trong khai
thác rừng
của người
Hà Nhì Đen
Tri
thức
dân
gian
TTDG trong
bảo vệ rừng
của người
Hà Nhì Đen
Quan hệ TTDG với
phát triển bền vững
rừng
Phát triển bền vững
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án nghiên cứu, phân tích tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ rừng
trong mối quan hệ với phát triển bền vững là một hướng nghiên cứu cập nhật của
ngành văn hóa dân gian đương đại trên thế giới. Trong đó, thay vì sưu tầm, phân tích
các câu chuyện dân gian, truyền thuyết, thần thoại, nghệ thuật dân gian, v.v., luận án đã
hướng tới tập trung vào chính con người, cuộc sống của họ, tri thức dân gian của họ
trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
11
Từ góc độ văn hóa dân gian và liên ngành, luận án sẽ từng bước phân tích
các khía cạnh tri thức dân gian với việc bảo vệ và khai thác rừng của người Hà Nhì
Đen, qua đó đóng góp một phần nghiên cứu về mối quan hệ văn hóa tộc người với
môi trường tự nhiên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là một công trình nghiên cứu có những đóng góp trong thực tiễn nghiên
cứu, đào tạo. Kết quả của luận án như là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên
cứu về tri thức dân gian, môi trường sinh thái, và việc sử dụng tri thức dân gian trong
khai thác và bảo vệ rừng theo hướng bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh có nhiều biến
động về khí hậu và những tác động tiêu cực do các hoạt động khác thác rừng, những
đúc kết của luận án sẽ phần như là một hồi chuông cảnh tỉnh trong việc hủy hoại môi
trường sống và những hậu quả tàn khốc của quá trình biến đổi khí hậu. Dựa trên khung
nhận thức luận về văn hóa dân gian và phát triển bền vững, luận án đề cao vai trò của
tri thức người Hà Nhì Đen trong khai thác và bảo vệ rừng là một trường hợp nghiên
cứu cụ thể, từ đó nhằm đưa ra những quan điểm mang tính khái quát hơn trong các
chiến lược, quyết sách và dự án phát triển bền vững.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu (7 trang), kết luận (5 trang), tài liệu tham khảo (17 trang) và
phụ lục (70 trang), nội dung Luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận (28 trang);
Chương 2. Địa bàn nghiên cứu, người Hà Nhì Đen và tri thức dân gian
trong khai thác rừng (39 trang);
Chương 3. Tri thức dân gian trong bảo vệ rừng (40 trang);
Chương 4. Tri thức dân gian với phát triển bền vững (25 trang).
12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tri thức dân gian, tri thức bản địa,
tri thức địa phương
Tri thức dân gian được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm, nghiên cứu từ
những năm 70 của thế kỷ XX. Tri thức dân gian trở thành đề mục nghiên cứu của
một số công trình chuyên khảo về tộc người Dao của Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc
Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến [108], nghiên cứu tộc người Thái của Ngô
Đức Thịnh, Cầm Trọng [100]. Nhưng từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX tri thức
dân gian mới được nghiên cứu một cách có hệ thống cả về lý thuyết và khái niệm.
Các nhà nhiên cứu như: Ngô Đức Thịnh [93], Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc
[114], Vương Xuân Tình [90,91 ], Phạm Quang Hoan [33], Trần Hồng Hạnh [31],
Nguyễn Thẩm Thu Hà [28] đã chú trọng nghiên cứu phân tích khái niệm tri thức
dân gian, tri thức bản địa, tri thức địa phương. Các tác giả cũng đề cập đến các
thành tố của tri thức dân gian. Dựa vào mối quan hệ giữa con người ứng xử với môi
trường tự nhiên, môi trường xã hội hoặc ứng xử với bản thân, đến các thành tố của
tri thức dân gian như: Tri thức dân gian liên quan đến môi trường tự nhiên; tri thức
dân gian liên quan đến môi trường xã hội; tri thức dân gian liên quan đến việc ứng
xử với bản thân con người.
Một số tác giả, tiêu biểu là Hoàng Xuân Tý [115], Lê Trọng Cúc [17, 18, 19],
Nguyễn Ngọc Thanh [81], Ngô Đức Thịnh [93] đã sử dụng đồng nhất khái niệm tri
thức dân gian. Họ phân tích các đặc điểm của văn hóa dân gian như lưu giữ bằng trí
nhớ, thực hành qua kinh nghiệm, trải nghiệm, truyền dạy bằng truyền miệng và thực
hành. Trong khi đó, tác giả Trần Hồng Hạnh [31] đã tổng hợp các tài liệu ở nước
ngoài trình bày các khái niệm về tri thức dân gian, tri thức bản địa, tri thức địa
phương, tri thức truyền thống. Tác giả cũng đưa ra quan điểm về cộng đồng, bối
cảnh văn hóa và cách phân loại của tri thức dân gian, tri thức bản địa.
13
Nhiều tác giả đã vận dụng các quan điểm lý luận của ngành văn hóa dân
gian, nhân học để phân tích tri thức dân gian đặc trưng của các tộc người. Một số
tác giả tập trung nghiên cứu tri thức dân gian của người Thái như: Công trình của
Ngô Đức Thịnh - Cầm Trọng [100], Đặng Thị Oanh [58], Vũ Trường Giang [27].
Một số tác giả tập trung nghiên cứu tri thức dân gian của người Dao, Hmông như
nghiên cứu của Trần Hồng Hạnh [30], Nguyễn Trường Giang [23,24], Nguyễn
Ngọc Thanh [67]. Trong các tộc người, tri thức dân gian của người Mường được
nghiên cứu khá hệ thống, trong đó được nhắc đến nhiều là các công trình nghiên
cứu của Nguyễn Ngọc Thanh [81], Mai Văn Tùng [112].
Tác giả Ngô Đức Thịnh trong công trình Những giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam [99] nghiên cứu về các giá trị văn hóa trong thích ứng và khai thác tài
nguyên của người Việt ở châu thổ sông Hồng và vùng rừng ngập mặn U Minh
Thượng thuộc Tây Nam Bộ. Tác giả cho rằng sinh thái tộc người là sự tổng hợp các
nhân tố tự nhiên và nhân văn của một tộc người hay nhóm dân tộc, mà giữa chúng
có sự đồng nhất về môi trường sống, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, từ đó hình
thành nên hệ thống tri thức bản địa về ứng xử môi trường, tổ chức và ứng xử xã hội
và truyền thống văn hóa. Đồng thời cũng đồng nhất khái niệm tri thức bản địa với
tri thức dân gian, tri thức địa phương, tri thức truyền thống. Chúng đều dùng để
phản ánh về những hiểu biết của các tộc người tích lũy được trong quá trình thích
ứng môi trường tự nhiên và xã hội. Nhận xét này cũng đồng quan điểm với tác giả
Nguyễn Duy Thiệu trong bài viết “Tri thức bản địa nguồn lực quan trọng cho sự
phát triển” [87]. Tác giả cho rằng tri thức bản địa là một phức hệ những kinh
nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác, được hình thành trong thế ứng xử
giữa hoạt động của con người với môi trường tự nhiên để kiếm sống.
Nguyễn Ngọc Thanh trong công trình Tri thức dân gian của dân tộc Dao
trong sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên [82] nghiên cứu về tri thức
dân gian của dân tộc Dao trong sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tác giả tổng kết về tri thức dân gian như sau: “Tri thức dân gian là những hiểu biết
của cộng đồng về tự nhiên, xã hội và bản thân con người, được tích lũy trong thời
gian dài thông qua kinh nghiệm và thực hành xã hội của cộng đồng”. Trong phần
14
nghiên cứu về tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ tài nguyên rừng, tác giả đã
phân tích tương đối khái quát về những nhận thức về rừng, khai thác các nguồn tài
nguyên rừng, về các nghi lễ liên quan đến rừng, các quy ước bảo vệ rừng. Ngoài ra,
tác giả cũng đưa nêu lên một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tri thức dân
gian của người Dao về bảo vệ và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Nguyễn Diệp Mai trong Tri thức dân gian về ứng xử với môi trường tự nhiên
trong đời sống vật chất người Việt vùng U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang [54] chủ yếu
phân tích những dữ liệu nghiên cứu về tri thức dân gian trong 4 nội dung chính là: Tri
thức dân gian trong ăn, mặc, ở và đi lại qua ứng xử với môi trường tự nhiên của người
Việt ở vùng U Minh Thượng của tỉnh Kiên Giang. Đây là công trình nghiên cứu bài
bản và khá đầy đủ về quá trình ứng xử của người Việt ở vùng U Minh Thượng, với
cách thức ứng xử hài hòa, thân thiện với môi trường sinh thái. Tri thức dân gian giúp
cho cuộc sống của họ luôn được đảm bảo từ nguồn lợi khai thác từ tự nhiên.
Phạm Quang Hoan trong bài viết “Tri thức địa phương của các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam” [33] trình bày chủ yếu các nội dung liên quan đến tầm quan trọng
của tri thức địa phương. Nội dung phân tích ngắn gọn, nhưng khá đầy đủ và súc
tích, giúp người xem có thể nắm bắt được nội dung của tri thức địa phương trong
cuộc sống hàng ngày. Còn trong bài viết “Tri thức địa phương về quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên của các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc” [34] của Phạm
Quang Hoan đưa ra quan niệm về tri thức địa phương, và vai trò của tri thức địa
phương về quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của các dân tộc ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Có thể nói rằng dưới góc nhìn nhân học văn hóa, tác giả trình bày tương
đối đầy đủ về khái niệm, nội hàm và các lĩnh vực liên quan của tri thức địa phương,
tri thức bản địa nói chung của các tộc người thiểu số ở Việt Nam.
1.1.1.2. Vấn đề nghiên cứu về tri thức dân gian, tri thức địa phương với phát
triển bền vững
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về tri thức của đồng
bào ứng dụng trong bảo vệ và khai thác tài nguyên thiên nhiên gắn với phát triển bền
vững đã được công bố. Trong bài viết “Tri thức địa phương và vấn đề phát triển bền
vững miền núi Việt Nam” [10] tác giả Hoàng Hữu Bình bàn đến khái niệm tri thức địa
15
phương trong bảo vệ môi trường và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Còn trong
công trình “Xã hội học Việt Nam trước ngưỡng của thế kỷ XXI” [77] của tác giả Bùi
Đình Thanh chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về phát triển bền vững xã hội: Chỉ báo kinh tế;
xã hội; môi trường; chính trị, tinh thần, trí tuệ; văn hoá; vai trò phụ nữ; chỉ báo về các
vấn đề quốc tế. Trong phần những chỉ báo về môi trường, tác giả đã chỉ ra các vấn đề
bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ rừng và trồng rừng, bảo vệ nguồn nước, không khí, chống ô
nhiễm môi trường đi đôi với việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên vì
lợi ích lâu dài của các thế hệ mai sau. Trong bài viết về “Phát triển bền vững - Mấy vấn
đề lý luận và thực tiễn” [185] của Nguyễn Thế Nghĩa bàn đến hai nội dung chính là:
Quan niệm phát triển bền vững và các phương diện phát triển bền vững. Trong phần
các phương diện phát triển bền vững, tác giả đã đề cập đến 5 phương diện chính là:
Phát triển bền vững kinh tế; phát triển bền vững xã hội; phát triển bền vững môi
trường; phát triển bền vững văn hoá; phát triển bền vững con người. Những vấn đề
đưa ra của tác giả chủ yếu mang tính lý luận, không có các nghiên cứu thực tiễn. Tri
thức địa phương của người Mường trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên
[82] của hai tác giả Nguyễn Ngọc Thanh – Trần Hồng Thu là một công trình nghiên
cứu công phu về tri thức địa phương trong quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất,
nước và rừng của người Mường theo hướng bền vững. Những giá trị của quá trình sử
dụng tri thức của đồng bào vào quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, phương thức
này hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển bền vững ở cơ sở. Cuốn sách Hướng
tới phát triển bền vững Tây Nguyên [41] của Lê Văn Khoa – Phạm Quang Tú đã vận
dụng các quan điểm của lý thuyết hiện đại về phát triển bền vững vùng và các công cụ
phân tích của một số chuyên ngành liên quan như: kinh tế học, xã hội học, nhân học,
sinh thái văn hóa, sinh thái tự nhiên.
Nghiên cứu về vai trò và tầm quan trọng của tri thức dân gian trong quá trình
phát triển, quá trình thích ứng với môi trường tự nhiên đã được các tác giả Hoàng Xuân
Tý – Lê Trọng Cúc [114], Vũ Trường Giang [26], Bùi Quang Thắng [84], Nguyễn
Trường Giang [24] đề cập đến. Họ đều cho rằng tri thức dân gian là những kinh
nghiệm được tích lũy từ thực tiễn trong suốt quá trình thích ứng môi trường tự nhiên,
nhưng lại phải phù hợp với văn hóa và cách ứng xử của từng cộng đồng, từng tộc
16
người trong từng điều kiện môi trường sống cụ thể. Chúng có vai trò quan trọng đối với
quá trình bảo vệ và khai thác tài nguyên môi trường sinh thái một cách bền vững.
Cho đến nay, tri thức dân gian của các tộc người được đánh giá là sự kết tinh
của những kiến thức đã được họ tích lũy trong suốt bao đời qua, nó có nhiều giá trị
đối với quá trình bảo vệ môi trường sinh thái theo hướng bền. Nhất là hệ thống các
tri thức dân gian trong ứng xử với môi trường rừng của các dân tộc thiểu số, bởi họ
đang là chủ nhân của núi rừng, sự tham gia của họ vào quá trình khai thác và bảo vệ
rừng có một vai trò hết sức quan trọng nhằm bảo vệ sự đa dạng sinh thái rừng, bảo
vệ sự phát triển bền vững. Những quan điểm đúc kết từ những công trình này sẽ
được NCS kế thừa và tiếp thu trong những phần viết phân tích về tri thức dân gian
và phát triển bền vững.
1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu về người Hà Nhì
- Nghiên cứu về văn hóa tộc người
Vấn đền nghiên cứu về người Hà Nhì, văn hóa dân gian người Hà Nhì ở Việt
Nam cho đến nay đã có nhiều bước phát triển, nhất là từ những năm cuối thập kỷ
60-70 của thế kỷ XX. Những năm 60 của thế kỷ XX, có bài viết “Nghiên cứu về
nguồn gốc di cư và đặc điểm văn hóa” của tác giả Lục Bình Thủy [74] được coi là
bài viết giới thiệu khái quát về nguồn gốc di cư và đặc điểm văn hóa của người Hà
Nhì ở Việt Nam. Đến năm 1969, tác giả Nông Trung cũng có bài báo viết về “Nhà
cửa, kinh tế, nương rẫy”. Bài viết cũng giới thiệu tương đối ngắn gọn về văn hóa vật
chất và hoạt động phát triển kinh tế của người Hà Nhì ở Việt Nam [74]. Tiếp sau
đó, tác giả Nông Trung còn có hai bài viết “Các dân tộc thuộc ngữ hệ Hán Tạng,
nhóm Tạng Miến ở Miền bắc Việt Nam”[107] và năm 1973 với bài viết “Vài nét về
sinh hoạt văn hóa và văn hóa vật chất của dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng Miến”[108]. Hai ấn phẩm này đã đề cập sơ lược về các yếu tố văn hóa vật chất của
dân tộc Hà Nhì.
Nguyễn Văn Huy cũng đã cho công bố cuốn sách Nếp sống văn hoá nhóm
ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô [38]. Đây là cuốn sách mang tính tổng hợp về 06 dân tộc
thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến gồm: Hà Nhì, Phù Lá, Lô Lô, Si La và Cống. Cuốn
sách chủ yếu đề cập đến nếp sống văn hóa và phong tục, tín ngưỡng, văn nghệ dân gian
17
của họ; Cũng nghiên cứu về người Hà Nhì còn có Mai Thanh Sơn trong bài viết “Nhà
cửa của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát - Lào Cai” [71]; Lý Hành Sơn“Vài nét
về thế giới quan dân gian của người Hà Nhì”, bài viết đã đề cập một cách khái quát
về quan niệm và cách nhìn về thế giới tự nhiên, sự sống và cái chết cũng như các
hình thức thờ cúng khác của người Hà Nhì [70]. Nghiên cứu về địa bàn cư trú,
nguồn gốc và lịch sử, kinh tế truyền thống, đời sống vật chất, dòng họ và gia đình,
tín ngưỡng, phong tục và văn học - nghệ thuật dân gian dưới góc độ văn hóa dân
gian được Chu Thùy Liên trình bày trong cuốn sách văn hóa dân gian dân tộc Hà
Nhì [48]; nghiên cứu về nghề thủ công, Trần Bình với bài viết “Một số vấn đề về
thủ công gia đình của người Hà Nhì” [13] đã đề cập chủ yếu đến nghề đan lát và
một số nghề phụ khác của người Hà Nhì. Một trong số ít công trình nghiên cứu về
người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai là công trình nghiên cứu về nghi
lễ cưới của tác giả Nguyễn Thị Lành Đám cưới của người Hà Nhì Đen ở Bát Xát,
tỉnh Lào Cai [44], tác giả đã giới thiệu về nghi lễ cưới của người Hà Nhì Đen; Trịnh
Thị Lan Nghi lễ của người Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay [43], giới
thiệu khái quát về các nghi lễ của người Hà Nhì ở Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Nghiên cứu về tri thức dân gian trong khai thác và bảo vệ rừng
Công trình của hai tác giả Bùi Quốc Khánh và Lò Ngọc Biên về Tập quán
quản lý, khai thác rừng, đất rừng, nguồn nước của dân tộc Hà Nhì ở Mường Tè, tỉnh
Lai Châu là công trình khảo cứu tương đối công phu về tập quán quản lý và khai thác
tài nguyên thiên nhiên của người Hà Nhì ở huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Nội
dung chủ yếu đi sâu vào khảo sát, sưu tầm về tín ngưỡng, tập quán quản lý rừng, đất
rừng và nguồn nước của nhóm Hà Nhì hoa (Hà Nhì Cồ chồ và Hà Nhì Lạ Mí) ở tỉnh
Lai Châu, chưa phân tích được sâu sắc các giá trị của tri thức dân gian trong khai thác
và bảo vệ môi trường sinh thái, nhất là vấn đề khai thác và bảo vệ rừng theo hướng
bền vững [39]. Trần Hữu Sơn trong bài viết “Tri thức bản địa của người Hà Nhì ở
Việt Nam với vấn đề quản lý rừng” [75] đã giới thiệu khái quát về tri thức bản địa
của toàn bộ dân tộc Hà Nhì ở Việt Nam trong vấn đề quản lý rừng, bảo vệ rừng. Bài
viết bàn đến tập quán lựa chọn các khu rừng thiêng, rừng đầu nguồn, rừng già của
người Hà Nhì, vấn bảo vệ rừng bằng các cơ chế thiêng hóa rừng và bằng luật tục.
18
Có thể nói, mặc dù hiện nay đã có một vài công trình nghiên cứu về tập quán
khai thác rừng, nguồn nước, nhưng các công trình này hầu như chưa phân tích sâu
không gian sống và mối quan hệ với rừng, với môi trường sinh thái, nhất là cộng
động người Hà Nhì Đen ở Bát Xát, Lào Cai.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài
- Một số công trình nghiên cứu về sinh thái người Hà Nhì ở Trung Quốc
Các tác giả Hoàn Thiệu Văn – Liêu Quốc Cường trong sách Nghiên cứu văn
hóa sinh thái truyền thống dân tộc Hà Nhì ở Vân Nam [176] đã sử dụng lý thuyết về
sinh thái văn hóa để tập trung khảo cứu về các khu vực cư trú, trang phục, canh tác
ruộng bậc thang, ẩm thực, vấn đề chọn đất lập bản, tôn giáo tín ngưỡng, sự sùng bái
tự nhiên. Tác giả Vương Thanh Hoa trong tác phẩm Văn hóa luận ruộng bậc thang
– sinh thái nông nghiệp của dân tộc Hà Nhì [163], tác giả đã lấy ruộng bậc thang
làm đối tượng nghiên cứu trong mối liên kết với các loại hình văn hóa truyền thống,
quá trình thiên di của dân tộc Hà Nhì; Tác giả Vi Tắc Nghiên cứu tôn giáo sinh thái
dân tộc Hà Nhì [170], Quách Gia Kí Sinh thái văn hóa với phát triển bền vững
[173] đã nghiên cứu sâu rộng hơn về mối quan hệ giữa người Hà Nhì với môi
trường sinh thái tự nhiên.
- Những công trình về tri thức dân gian của các tác giả nước ngoài
Tri thức dân gian là một chủ đề được quan tâm trong ngành văn hóa dân
gian, nhân học và nói chung là đối tượng nghiên cứu liên ngành, và đặc biệt được
chú trọng trong nghiên cứu phát triển và phát triển bền vững. Ngày nay, tri thức dân
gian được coi như là một lĩnh vực chuyên môn, nhấn mạnh vị trí của nó trong các
thực hành phát triển [158]. Tri thức dân gian càng ngày càng trở nên phổ biến vì các
nhà khoa học cho rằng các tộc người bản địa có một thứ “khoa học” dân gian, có
ảnh hưởng quan trọng đến môi trường sinh thái và phát triển bền vững [139]. Ngày
nay, tri thức dân gian được đề cao và thừa nhận, ứng dụng trong quá trình phát triển
của các quốc gia [159].
Tri thức dân gian với tư cách là một nguồn lực “khoa học” đặc thù và mang
tính chỉnh thể, vì vậy nghiên cứu tri thức về tài nguyên nói chung và khai thác rừng
trong những thập kỷ qua là mối quan tâm hàng đầu của văn hóa dân gian, dân tộc
19
học và sinh thái văn hóa [138]. Tri thức dân gian còn được các ngành khác khai thác
các sản phẩm làm đẹp từ thiên nhiên, các loại thuốc thảo dược chữa các bệnh thế kỷ
như HIV [128]. Một số quan điểm khác nhấn mạnh rằng tri thức dân gian có thể
phục vụ cho mục đích bảo tồn hệ sinh thái, rừng tài nguyên và phát triển bền vững
[132]. Trong ngành sinh thái văn hóa, mối quan hệ của con người tới môi trường đã
được nghiên cứu nhiều nhằm giải thích sự thích ứng của con người trong môi
trường sống, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng với sự hỗ trợ của tri thức khoa
học và công nghệ [142]. Một số công trình tương đối nổi tiếng phân tích việc sử
dụng tri thức dân gian trong nhiều ngành khoa học, như nhân học, sinh thái nhân
văn và nghiên cứu môi trường [15]. Một số công trình khác chủ yếu là sưu tầm tư
liệu, phân tích kế sinh nhai liên quan đến tri thức dân gian tiêu biểu là các công tình
của Brosius và cộng sự [126]. Những công trình này đề cập đến khoa học nông
nghiệp, môi trường, tập trung vào các vấn đề tri thức dân gian gắn với văn hóa xã
hội như cách ứng xử trong gia đình, dòng họ, phân bổ đất đai, nguồn lao động, phân
phối thực phẩm, biểu tượng văn hóa, tín ngưỡng dân gian, v.v.
Một số công trình tiêu biểu như: Tri thức bản địa về môi trường và những
biến đổi – Các quan điểm nhân học phê phán do Roy Ellen và cộng sự [65] đã tổng
hợp các bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá về tri thức bản địa với môi trường ở
nhiều nước, nhiều vùng khác nhau thông qua những hoạt động cụ thể của con người
nhằm khai thác các tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho đời sống của họ. Đồng thời,
các tác giả cũng đưa ra những cảnh báo về những cánh rừng của các tộc người đang
có nguy cơ biến mất. Còn trong cuốn sách của Jonh Amble với nhan đề Kinh
nghiệm nghiên cứu phát triển miền núi: Một số nét khái quát từ Châu Á [136] cho
rằng tri thức địa phương có thể được phân thành hai loại chính. Một loại có thể
được gọi là “tri thức kỹ thuật”. Một loại khác được gọi với các tên gọi khác như
“luật lệ địa phương”, “phong tục” hay “tục lệ”. Thông qua các nghiên cứu ở nhiều
vùng châu Á khác nhau, cuốn sách cho thấy những người nông dân, người chăn
nuôi gia súc hoặc các nhóm thợ săn ở vùng cao luôn có vốn tri thức kỹ thuật mang
tính địa phương, rất cần cho việc xây dựng các chương trình quản lý, phát triển
20
vùng đồi núi. Vốn tri thức ấy là sự đúc kết từ quá trình ứng xử hài hoà với môi
trường sinh thái mang lại điều kiện sống tốt đẹp cho cộng đồng địa phương.
Gần đây, tri thức bản địa về các vùng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, nông
nghiệp, ngư nghiệp, rừng được đánh giá và nhìn nhận là có giá trị hơn nhiều so với
những gì mà họ đã từng coi thường trước đây [147]. Bài học về việc sử dụng tri
thức dân gian trong việc phát triển đa dạng sinh học, đa dạng văn hóa, đa dạng cây
trồng ở nhiều nước đang phát triển như Srilanca cho thấy rằng trải qua hàng nghìn
năm tích lũy kinh nghiệm và tồn tại, cộng đồng địa phương đã tích lũy được một
kho tàng tri thức vô giá trong việc duy trì cuộc sống, môi trường sinh thái. Do vậy,
những nhà làm chính sách cần chú ý tới tri thức dân gian trong phát triển. Theo tác
giả Senanayake [155], đa số người dân ở Sri Lanka làm nghề nông nhỏ lẻ. Họ đại
diện cho những nhóm tộc người khác nhau. Những người nông dân này làm việc
theo những hình thức thiếu tổ chức và tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề “địa
phương” thông qua tri thức dân gian. Sức mạnh của tri thức dân gian là tính thích
ứng với cuộc sống của cộng đồng, với môi trường.
Bên cạnh đó, có một số công trình phân tích về việc vận dụng tri thức dân
gian trong khai thác và bảo vệ rừng. Theo tác giả Abdullalhi, tri thức dân gian được
sử dụng trong quá trình phát triển với những điều kiện cụ thể của con ngươi ở trong
một vùng địa lý cụ thể. Tác giả xác định tri thức dân gian cần phải được hiểu từ
quan điểm của cộng đồng về môi trường sinh thái, ở đó họ sống, khai thác và bảo vệ
rừng một cách hiệu quả nhằm đối phó với những thách thức và sự thay đổi của môi
trường trong bối cảnh văn hóa, xã hội [122]. Các nghiên cứu về xói mòn rừng liên
quan đến việc coi thường tri thức dân gian được thể hiện rõ trong hai công trình trên
về cộng đồng Ifugao ở Phi-lip-pin (Philippines) [128] và cộng đồng Dayak Tunjung
ở Đông Borneo [156]. Các tác giả nhấn mạnh sự cần thiết về bảo vệ cả tri thức dân
gian và sự thích ứng, sự phù hợp của nó với sự thay đổi của cuộc sống và phát triển.
- Các công trình ở nước ngoài về tri thức dân gian và phát triển bền vững
Một trong những xu hướng nghiên cứu hiện nay trong liên ngành khoa học
xã hội nhân văn là kết hợp tri thức dân gian liên quan đến vấn đề phát triển bền
vững. Mối quan tâm học thuật này cũng ngày càng được chú ý, tập trung vào nghiên
21
cứu mối quan hệ tương tác giữa tri thức dân gian với phát triển bền vững, đặc biệt
trong trồng trọt liên quan nhiều đến một tập hợp phức hợp về môi trường, kinh tế xã
hội, nông học. Những vấn đề này có mối quan hệ hữu cơ đến cuộc sống của các hộ
gia đình làm nông nghiệp, đến việc sử dụng nguồn tài nguyên, sự biến đổi và phát
triển bền [149]. Các Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và sự phát triển bền
vững đặt ra vấn đề về tri thức dân gian về đất, nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi
trường. Những tri thức dân gian được phát triển qua nhiều thế hệ như là kết quả của
mối quan hệ tương hỗ giữa trường tự nhiên và văn hóa, xã hội, kinh tế.
Trước khi phát triển khoa học rừng hiện đại và quản lý khoa học rừng ở châu
Âu vào đầu thế kỷ XIX, các cộng đồng địa phương trên khắp thế giới đã quản lý rừng
và môi trường sinh thái bằng các cách thức duy trì cuộc sống và văn hóa, không làm
hủy hoại đến tiềm năng của hệ sinh thái để cung cấp thực phẩm và các dịch vụ khác
cho thế hệ tương lai. Các tri thức, sự sáng tạo và thực hành của các cộng đồng được
phát triển thông qua những trải nghiệm phong phú được tích lỹ quan hàng thế kỷ dưới
sự thay đổi các điều kiện môi tường, kinh tế, chính trị và xã hội [123].
Thực hành quản lý rừng dựa vào tri thức truyền thống, bao gồm quản lý rừng
tự nhiên, du canh du cư, trồng rừng, tiếp tục cung cấp sản vật rừng cho xã hội mà
không làm hủy hoại đến hệ sinh vật đa dạng và rừng và hệ thống sinh thái liên quan
[146]. Một ví dụ tiêu biểu về nghiên cứu sử dụng tri thức dân gian trong việc lên kế
hoạch quản lý rừng được thể hiện trong công trình của tác giả Cummings và Read
với tựa đề Đúc kết về tri thức truyền thống để nhận diện và mô tả về hệ sinh thái
liên quan đến cây cối sử dụng với nhiều mục đích ở các khu rừng Bắc Amazon
[131]. Nghiên cứu của họ đã thể hiện tri thức bản địa của các tộc người Makushi và
Wapishiana Amerindians ở Nam Guyana có thể được sử dụng như là một phần của
việc kiểm kê rừng nhằm nhận diện và phân loại các loại cây, và về việc tri thức
truyền thống đã được sử dụng trong việc cung cấp và hỗ trợ các các hoạt động, dịch
vụ liên quan đến hệ sinh thái và văn hóa.
Một số học giả Trung Quốc quan tâm nghiên cứu tri thức bản địa và sự phát
triển bền vững. Tác giả Quách Gia Kí trong tác phẩm Sinh thái văn hóa với phát
triển bền vững [173] tiến hành nghiên cứu về vấn đề phát triển bền vững của tỉnh
22
Vân Nam, một tỉnh miền núi, đa dân tộc và có đường biên giới tiếp giáp trực tiếp
với tỉnh Lào Cai. Tác giả cho rằng vấn đề phát triển bền vững cần chú trọng đến
mối quan hệ chặt chẽ giữa 3 yếu tố theo kiểu “Đa nhất thể”. Cụ thể, tính đa dạng
của môi trường sinh thái, đa dạng sinh vật và đa dạng văn hóa dân tộc. Ba yếu tố
này luôn đan xen với nhau tạo thành một thể thống nhất.
Đa dạng Văn
hóa dân tộc
Đa dạng sinh
vật
Đa dạng môi
trường sinh
thái
Sơ đồ 2. Mối quan hệ “Đa nhất thể”
Tác giả cũng cho rằng nếu một ngày sự đa dạng của văn hóa dân tộc mất đi,
thì sự đa dạng của môi trường sinh thái, đa dạng sinh vật cũng sẽ mất theo. Do đó,
để phát triển bền vững môi trường sinh thái cần chú trọng đến bảo tồn các giá trị
của văn hóa dân tộc. Đối với những thách thức của vấn đề phát triển bền vững trong
thời kỳ toàn cầu hóa, hiện đại hóa, tác giả cũng đưa ra các đối sách trên 3 mặt
phương diện là: Diệt trừ nghèo đói, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo vệ
và phát triển văn hóa dân tộc.
Mặc cho có nhiều thách thức đối với các các cá nhân, cộng đồng địa phương,
những người sử dụng tri thức truyền thống trên thế giới, các nhà khoa học đã nhận
diện rõ hơn và tôn trọng sự đa dạng hệ thống tri thức dân gian. Càng ngày, giá trị
của các tri thức về hệ sinh thái, về rừng truyền thống càng được nhận thức rõ hơn ở
nhiều nước và trong các diễn đàn chính sách quốc tế như Bảo vệ sự đa dạng sinh
học (Convention on Biological Diversity), Công ước của Liên hợp quốc đấu tranh
với sa mạc hóa (UN Convention to Combat Desertification). Đáng chú ý nhất là các
hoạt động của Diễn đàn chính sách - khoa học liên chính phủ về đa dạng sinh học
và hệ sinh thái (Intergovernmental Science-Policy Platform on Biodiversity and
23
Ecosystem Services (IPBES). Ngày nay, các chuyên gia về rừng và những nhà
hoạch định chính sách có nhiệm vụ quan trọng trong việc coi trọng tri thức dân gian
và nhấn mạnh bảo vệ đa dạng sinh thái có lợi cho công đồng. Điều này đòi hỏi có
một sự hiểu biết rộng rãi cũng như sự tôn trọng và hỗ trợ cho các địa phương duy trì
và phát huy giá trị của tri thức dân gian.
1.1.3. Một số nhận xét về tình hình nghiên cứu
Từ tổng quan những công trình nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài về tri
thức dân gian, tri thức địa phương. với phát triển bền vững, NCS đưa ra một số
nhận xét sau:
Những nội dung đã đạt được:
- Các công trình nghiên cứu về dân tộc Hà Nhì nói chung và nhóm Hà Nhì
Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai đã đề cập được đến nguồn gốc lịch sử người Hà
Nhì; đặc điểm về địa bàn cư trú, dân số, đặc điểm xã hội, đời sống kinh tế các nghi
lễ liên quan đến chu kỳ vòng đời người; về canh tác nông nghiệp. Ngoài ra, một số
công trình nghiên cứu đã quan tâm đến sưu tầm các tư liệu về văn học dân gian
(như thơ ca dân gian, truyện kể dân gian, sử thi); tín ngưỡng về sùng bái tự nhiên,
thờ cúng tổ tiên cũng được quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã
cho chúng ta thấy được bức tranh tương đối tổng quát về người Hà Nhì.
- Các công trình nghiên cứu đã bàn khá kỹ về các khái niệm về tri thức dân
gian, tri thức bản địa, tri thức địa phương về phát triển bền vững. Cùng với đó, mối
quan hệ giữa sinh thái văn hóa, phát triển bền vững, vai trò của cộng đồng trong bảo
tồn và phát triển sinh thái bền vững đã được các tác giả trình khá sâu sắc.
- Các thành tố của tri thức dân gian đã được đề cập và làm rõ ở các công
trình nghiên cứu, điều này giúp cho luận án có sự tiếp cận sâu và toàn diện hơn với
đối tượng nghiên cứu.
- Tri thức dân gian trong bảo vệ và khai thác tài nguyên thiên nhiên của các
dân tộc đã được đề cập ở các góc độ khác nhau, mức độ khác nhau. Về cơ bản đã
giúp cho người đọc thấy được vai trò và tầm quan trọng của tri thức dân gian trong
bảo vệ sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái rừng.
Những nội dung còn bỏ ngỏ:
- Các công trình ở Việt Nam chưa đề cập trực tiếp đến việc phát huy tri thức
dân gian trong bảo vệ và khai thác rừng trong phát triển bền vững. Nhất là các công