Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Phát triển bền vững xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.69 KB, 15 trang )

KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

55.

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
PGS.TS. Phan Thế Cơng*
Tóm tắt
Đại dịch COVID-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, các nước nhập
khẩu ngày càng siết chặt hàng rào phi thuế quan, bảo hộ trong nước gia tăng, nhưng với kim
ngạch xuất - nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và
năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế và đây chính là bước tạo đà, tạo
lực bứt phá cho công tác xuất - nhập khẩu trong giai đoạn tới. COVID-19 kéo theo hàng loạt khó
khăn, gây ra đứt gãy các chuỗi cung ứng khiến hàng loạt ngành nghề sản xuất bị đình trệ, chậm
trả, thậm chí dừng và hủy đơn hàng khiến nhiều doanh nghiệp các lĩnh vực hoang mang. Các giải
pháp thiết thực của Chính phủ đã giúp các doanh nghiệp tìm hướng đi và “thoát hiểm” từ các
thị trường ngách, sản xuất các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ phịng, chống dịch bệnh mà thị
trường ngoài nước đang khan hiếm như: khẩu trang, găng tay, quần áo bảo hộ y tế… giúp xuất
siêu lập nên kỳ tích mới. Để hoạt động xuất - nhập khẩu diễn ra thuận lợi hơn trong năm tới, bài
viết tập trung đánh giá thực trạng của xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
COVID-19, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu bền vững trong tình hình
mới, chung sống an toàn với đại dịch COVID-19.
Từ khóa: Xuất khẩu, COVID-19, xuất - nhập khẩu; tác động của COVID-19
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào cuối năm 2019 và đầu năm 2020, cả thế giới chấn động bởi một loại virus có tốc độ lây
lan và mức độ nguy hiểm khủng khiếp hơn bất kỳ dịch bệnh nào trước đây. Trước khi giải mã
được gen và đặt tên gọi chính thức cho loại virus này, người ta gọi chung là căn bệnh viêm phổi
cấp. Theo dòng lịch sử, vào ngày 31/12/2019, Trung Quốc đã gửi thông báo tới Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) về các trường hợp viêm phổi cấp không rõ nguyên nhân được phát hiện tại thành phố


Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc. Theo số liệu của WHO, tính đến ngày 28/02/2021, thế giới ghi nhận tổng
cộng hơn 114,379 triệu ca mắc COVID-19, trong đó hơn 2,5 triệu người đã tử vong. Xuyên suốt
giai đoạn này, WHO liên tục cảnh báo, thế giới đang bước vào một giai đoạn mới nguy hiểm của
COVID-19. Số ca mắc COVID-19 trên thế giới có xu hướng tăng mạnh trở lại khi các nước bắt đầu
* Bộ môn Kinh tế học, Trường Đại học Thương mại

587


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

rục rịch dỡ bỏ phong tỏa. Các chuyên gia y tế cho rằng, việc mở rộng xét nghiệm cũng là yếu tố
khiến số ca mắc COVID-19 tăng nhưng khơng phải ngun do chính. Tại thời điểm này, Hoa Kỳ
ghi nhận hơn 29,2 triệu ca mắc COVID-19, trong đó hơn 524.000 người đã tử vong. Các chuyên
gia cảnh báo, số người chết tại Hoa Kỳ có thể lên 600 nghìn người vào tháng 6/2021.
Hình 1. Phân bố ca lây nhiễm COVID-19 một số nước (tính đến 28/02/2021)

Nguồn: Worldometer - www.worldometers.info

Trước tình hình dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm hỗ trợ
người dân giảm thiểu chi phí khám, chữa bệnh và xét nghiệm virus. Cũng như hầu hết các quốc
gia bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh trên thế giới, Việt Nam cũng phải chịu tác động đáng kể lên kinh
tế - xã hội. Đến ngày 28/02/2021, Việt Nam có 2.432 ca nhiễm, 1.844 ca khỏi bệnh và 35 bệnh
nhân tử vong. Việt Nam đứng thứ 173/221 quốc gia/vùng lãnh thổ về số ca nhiễm.
Hình 2. Thống kê tình hình dịch bệnh COVID-19 đến ngày 28/02/2021

Nguồn: />
Hình 3. Thống kê ca nhiễm COVID-19 đến ngày 28/02/2021

Nguồn: Worldometer - www.worldometers.info


588


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Theo Tổng cục Hải quan (2020), trong năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa của cả nước
thặng dư 19,95 tỷ USD. Tổng trị giá xuất khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7,0%, tương ứng tăng
18,39 tỷ USD so với năm 2019. Trong đó: máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 8,89 tỷ
USD, tương ứng tăng 48,6%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 8,66 tỷ USD, tương
ứng tăng 24,1%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,72 tỷ USD, tương ứng tăng 16,2%; sắt thép các loại
tăng 1,05 tỷ USD, tương ứng tăng 25,1%... Dự báo, xuất khẩu hàng hóa năm 2021 trong điều
kiện thế giới khống chế được dịch sẽ tốt hơn năm 2020, tăng trưởng xuất khẩu cao hơn. Hiệp
định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEF) có hiệu lực kết hợp với các Hiệp định thương
mại tự do (FTA) thế hệ mới sẽ có tác dụng tốt với xuất khẩu và sẽ còn tác dụng nữa nếu như tận
dụng tốt cơ hội.
Thế giới hiện nay là mơi trường có bối cảnh mới với nhiều yếu tố khó lường, khó đốn định.
Tuy nhiên cũng phải khẳng định, năm 2021 và những năm tới sẽ là những năm về cơ bản có được
điều kiện thuận lợi từ những chiến lược hội nhập, khung khổ các FTA đã ký kết và sẽ ký kết; các
chính sách của Chính phủ, Đảng, Nhà nước và quyết sách của Chính phủ trong hàng loạt khía
cạnh tái cơ cấu nền kinh tế, các chính sách về an sinh xã hội, cải cách và mở cửa cũng như nỗ lực
hoàn thiện thể chế pháp luật,… Năm 2021 và những năm tiếp theo sẽ chứng kiến sự phát triển,
thậm chí là tăng tốc của Việt Nam, trong đó có cả khía cạnh hội nhập quốc tế và xuất khẩu. Bài
viết sẽ tập trung phân tích thực trạng của xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và đề xuất một số giải
pháp nhằm phát triển xuất khẩu bền vững trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
2. XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
2.1. Diễn biến xuất khẩu trong bối cảnh đại dịch COVID-19
Tình hình dịch bệnh bùng phát tại nhiều quốc gia, việc các nước áp dụng biện pháp hạn chế

đi lại sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian
tới. Dịch COVID-19 bùng phát ngay những tháng đầu năm 2020 đã ngay lập tức gây khó khăn
cho hoạt động xuất khẩu, từ việc tắc nghẽn vận chuyển hàng hóa qua biên giới, đến tác động
làm gián đoạn chuỗi cung nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất nhiều loại hàng hóa trong nước.
Tiếp đó, kể từ quý II /2020, dịch bệnh lan rộng ra khu vực các nước châu Âu, châu Mỹ và vẫn
chưa được kiểm soát hiệu quả. Nhiều thị trường xuất khẩu quan trọng của nước ta đến nay vẫn
áp dụng các biện pháp phong tỏa đã ảnh hưởng rất lớn tới tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ
lực như dệt may, da giày... Trước tình hình đó, ngay từ giai đoạn đầu của dịch bệnh, Chính phủ
và các bộ, ngành, địa phương liên quan đã quyết liệt chỉ đạo thực thi nhiều biện pháp tháo gỡ
khó khăn nhằm bảo đảm cơng tác phịng, chống dịch, vừa hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của dịch
bệnh tới xuất - nhập khẩu. Cụ thể, để khơi thông luồng vận chuyển hàng hóa, các bộ, ngành đã
khẩn trương, liên tục hướng dẫn, thơng báo cập nhật diễn biến tình hình trong nước và khu vực
biên giới cho các địa phương, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp nhằm tránh ảnh hưởng đến tốc
độ thông quan và gây ùn ứ tại khu vực cửa khẩu biên giới; tổ chức các đồn cơng tác tại các tỉnh
biên giới để điều tiết hoạt động thương mại và thơng quan hàng hóa.
Hoạt động xuất - nhập khẩu tại các biên giới phía Bắc đã được khơi phục từ rất sớm. Để giải
quyết khó khăn về thị trường, các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đã đồng loạt tìm kiếm những
mặt hàng mới mà thị trường đang có nhu cầu mạnh trong bối cảnh COVID-19 như: khẩu trang

589


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

kháng khuẩn, đồ bảo hộ, buồng khử khuẩn toàn thân được coi là phương án thay thế tốt trong bối
cảnh xuất khẩu các mặt hàng dệt may gặp khó khăn. Mặt khác, nhiều giải pháp, cách làm mới đã
được các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp triển khai, trong đó phải
kể đến các mơ hình, chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung - cầu cả trong và ngồi nước
trên mơi trường trực tuyến và dựa trên những nền tảng mới. Theo đó, Việt Nam là một trong
những nước đầu tiên tổ chức hội nghị giao thương trực tuyến trong bối cảnh COVID-19. 

Kể từ khi Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), việc
phổ biến thông tin Hiệp định, quy tắc xuất xứ hàng hóa trước và sau khi EVFTA có hiệu lực đã
hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tận dụng lợi ích do Hiệp định mang lại ngay từ những ngày đầu
thực thi. Thực tế, EVFTA đã trở thành “cú huých” rất lớn cho xuất khẩu của Việt Nam trong bối
cảnh khó khăn chung của năm 2020. Chính nhờ hiệu quả trong cơng tác phịng, chống dịch cũng
như các giải pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên, hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam năm vừa
qua đã vượt khó, đạt nhiều kết quả tích cực. Trong năm 2020, tổng trị giá xuất - nhập khẩu hàng
hóa của cả nước đạt 545,36 tỷ USD, tăng 5,4% với năm trước. Trong đó, trị giá hàng hóa xuất
khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7,0%, tương ứng tăng 18,39 tỷ USD và nhập khẩu đạt 262,70 tỷ
USD, tăng 3,7%, tương ứng tăng 9,31 tỷ USD.
Hình 4. Diễn biến xuất - nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam theo tháng
(năm 2020)

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Theo Tổng cục Hải quan (2020), năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa của cả nước thặng
dư 19,95 tỷ USD. Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng trị giá xuất - nhập khẩu của doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) trong tháng đạt 38,48 tỷ USD, tăng 9,6% so với tháng
trước, đưa trị giá xuất - nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong năm 2020 đạt 371,90 tỷ
USD, tăng 11,8%, tương ứng tăng 39,26 tỷ USD so với năm 2019. Trong đó, xuất khẩu hàng
hóa của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 12 đạt 20,44 tỷ USD, tăng 8,2% so với tháng trước,
đưa trị giá xuất khẩu của khối này trong năm 2020 lên 202,89 tỷ USD, tăng 10,7% so với năm
trước. Ở chiều ngược lại, trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong tháng 12/2020 đạt
18,04 tỷ USD, tăng 11,3% so với tháng trước, đưa trị giá nhập khẩu của khối này trong năm 2020
đạt 169,01 tỷ USD, tăng 13,1% so với năm 2019. Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh
nghiệp FDI trong tháng 12/2020 có mức thặng dư trị giá 2,4 tỷ USD.

590



KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

2.2. Xuất khẩu theo nhóm hàng hóa
Tính cả năm 2020, tổng trị giá xuất khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7,0%, tương ứng tăng 18,39
tỷ USD so với năm trước. Trong đó: máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 8,89 tỷ USD,
tương ứng tăng 48,6%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 8,66 tỷ USD, tương ứng
tăng 24,1%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,72 tỷ USD, tương ứng tăng 16,2%; sắt thép các loại tăng
1,05 tỷ USD, tương ứng tăng 25,1%... Bên cạnh đó, có một số nhóm hàng giảm mạnh như: hàng
dệt may giảm 3,02 tỷ USD, tương ứng giảm 9,2%; giày dép các loại giảm 1,52 tỷ USD, tương
ứng giảm 8,3%; xăng dầu các loại giảm 1,03 tỷ USD, tương ứng giảm 51,2%... Một số nhóm
hàng xuất khẩu chính trong năm 2020:
Thủy sản
Tháng 12/2020, xuất khẩu thủy sản đạt 731 triệu, giảm nhẹ 1,5% so với tháng trước. Tính
chung cả năm 2020, xuất khẩu nhóm hàng này đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,5% so với năm trước.
Trong đó, xuất khẩu sang 4 thị trường chính là Hoa Kỳ đạt 1,6 tỷ USD, tăng 10,4%; Nhật Bản
đạt 1,4 tỷ USD, giảm 1,8%; EU đạt 1,3 tỷ USD, giảm nhẹ 0,8% và Trung Quốc đạt 1,2 tỷ USD,
giảm 4,8%.
Gạo
Lượng xuất khẩu trong tháng đạt 547 nghìn tấn với trị giá là 292 triệu USD, tăng 55,5% về
lượng và tăng 54,4% về trị giá so với tháng trước. Trong năm 2020, xuất khẩu gạo của cả nước
đạt 6,2 triệu tấn, giảm 1,9% về lượng so với năm trước nhưng do đơn giá bình quân xuất khẩu
tăng nên trị giá đã tăng 11,2%, đạt 3,12 tỷ USD. Đặc biệt, lượng gạo xuất sang thị trường Trung
Quốc tăng mạnh 70% với 811 nghìn tấn; xuất sang thị trường dẫn đầu Philippines 2,2 triệu tấn;
tăng nhẹ 4% so với cùng kỳ năm trước.
Hàng dệt may
Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng đạt 2,83 tỷ USD, tăng 26,3% so với tháng trước. Qua đó,
đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong cả năm 2020 lên 29,81 tỷ USD, giảm 9,2% so với năm
trước. Tính trong năm 2020, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ

Việt Nam với trị giá đạt gần 14 tỷ USD, giảm 5,8% so với năm trước và chiếm 46,9% tổng trị giá
xuất khẩu hàng dệt may của cả nước; thị trường EU (28 nước) tiêu thụ 3,68 tỷ USD, giảm 15%;
tiếp theo là thị trường Nhật Bản đã tiêu thụ 3,53 tỷ USD, giảm 11,4%; thị trường Hàn Quốc tiêu
thụ 2,86 tỷ USD, giảm 14,8%...
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
Trị giá xuất khẩu đá quý, kim loại quý và sản phẩm trong tháng 12/2020 là gần 60 triệu USD,
giảm 15,1% so với tháng trước. Trong năm qua, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt tới 2,67 tỷ
USD, tăng mạnh 28,7% so với năm trước. Trong đó: xuất sang Hồng Kông là 2,1 tỷ USD, trong
khi con số của cùng kỳ năm trước chỉ là 50 triệu USD; xuất sang Thụy Sỹ là 103 triệu USD, giảm
mạnh so với con số 1,4 tỷ USD của năm ngoái.

591


KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Hình 5. Mức tăng/giảm trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng 
năm 2020 so với năm 2019

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác
Xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 3,15 tỷ USD, tăng 9,9% so với tháng trước. Tính cả
năm 2020 trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 27,19 tỷ USD, tăng 48,6% so với năm trước. Các
thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong năm 2020 chủ yếu gồm: Hoa Kỳ
với 12,21 tỷ USD, tăng mạnh 141,5%; EU (28 nước) đạt trị giá 3,49 tỷ USD, tăng 28,5%; Hàn
Quốc với 2,05 tỷ USD, tăng 25,9%; Nhật Bản với 2,05 tỷ USD, tăng 5,6%; Trung Quốc với 1,94
tỷ USD, tăng 22,2%... so với năm 2019.
Điện thoại các loại và linh kiện
Xuất khẩu mặt hàng này trong tháng 12 đạt trị giá 4,61 tỷ USD, tăng 4,6% so với tháng

trước. Tính cả năm 2020, xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 51,18 tỷ USD,
giảm nhẹ 0,4% so với năm 2019. Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng này sang thị trường Trung
Quốc đạt 12,34 tỷ USD, tăng mạnh 48,8%; sang EU (28 nước) đạt 10,06 tỷ USD, giảm 18,6%;
sang thị trường Hoa Kỳ đạt trị giá 8,79 tỷ USD, giảm 1,2%; sang Hàn Quốc đạt 4,58 tỷ USD,
giảm 11%... so với năm trước.
Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện
Trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 4,31 tỷ USD, tăng 11,9% so với tháng trước,
đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong cả năm 2020 đạt 44,58 tỷ USD, tăng 24,1% so với
năm 2019. Trong năm 2020, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Trung
Quốc đạt 11,09 tỷ USD, tăng 16% so với năm trước; sang thị trường Hoa Kỳ đạt 10,39 tỷ USD,
tăng mạnh 71,7%; sang thị trường EU (28 nước) đạt 6,51 tỷ USD, tăng 28,7%; sang Hồng Kông
đạt 4,19 tỷ USD, tăng 38,2%...
Nhờ những nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành với hàng loạt giải pháp ứng phó dịch
COVID-19 hiệu quả, bảo đảm tăng trưởng kinh tế, cùng nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp,
hoạt động xuất - nhập khẩu đã giữ được đà tăng trưởng khá, trở thành động lực quan trọng đóng
góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.

592


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

2.3. Thị trường xuất khẩu
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa năm 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam với kim ngạch đạt 76,4 tỷ USD, tăng 24,5% so với năm trước; tiếp đến là Trung Quốc
đạt 48,5 tỷ USD, tăng 17,1%; thị trường EU đạt 34,8 tỷ USD, giảm 2,7%; thị trường ASEAN đạt
23,1 tỷ USD, giảm 8,7%; Nhật Bản đạt 19,2 tỷ USD, giảm 5,7%; Hàn Quốc đạt 18,7 tỷ USD,
giảm 5,1%. Trong năm 2020, trao đổi thương mại hàng hóa của Việt Nam với châu  Mỹ đạt

112,02 tỷ USD, tăng 16,2% so với năm 2019, liên tục là châu lục đạt mức tăng trưởng cao nhất.
Xuất - nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với châu Á tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất (64,7%)
trong tổng trị giá xuất - nhập khẩu của cả nước. Trị giá xuất - nhập khẩu trong năm 2020 với thị
trường này đạt 352,97 tỷ USD, tăng 4,2% so với năm 2019, trong đó trị giá xuất khẩu là 140,25
tỷ USD, tăng 3,4% và trị giá nhập khẩu là 212,72 tỷ USD, tăng 4,7%. Trị giá xuất - nhập khẩu
giữa Việt Nam với các châu lục khác lần lượt là: châu Âu: 63,85 tỷ USD, giảm 3,1%; châu Đại
Dương: 9,79 tỷ USD, tăng 2,4% và châu Phi: 6,72 tỷ USD, giảm 5,0% so với năm 2019.
Diễn biến dịch bệnh tại các thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn khó đốn định. Do vậy, Bộ
Công Thương đã thông qua hệ thống thương vụ, cơ quan đại diện thương mại tại nước ngoài để
tiếp tục theo sát diễn biến tình hình thị trường, nhất là tình hình phịng, chống dịch COVID-19 ở
các thị trường đối tác lớn, quan trọng của Việt Nam nhằm kịp thời đề xuất, báo cáo Chính phủ;
chủ động triển khai các biện pháp nhằm tận dụng cơ hội thị trường, giảm khó khăn, tác động bất
lợi đối với hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thách thức, hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam trong năm tới cũng có một số thuận lợi nhất định. Đó là các biện
pháp thực thi EVFTA đã và đang mang lại kết quả bước đầu rất tích cực. Sản xuất trong nước
được khôi phục. Một số nước dự kiến triển khai các gói kích thích kinh tế “hậu COVID-19”, qua
đó có thể thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu hàng hóa trong năm 2021. Theo các chuyên
gia, bước sang năm 2021, xuất khẩu cùng với vốn đầu tư toàn xã hội và tiêu dùng nội địa vẫn
sẽ là “cỗ xe tam mã” của nền kinh tế, là động lực chính để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. 
Bảng 1. Trị giá xuất khẩu, nhập khẩu theo châu lục, khối nước và một số thị trường lớn
trong năm 2020
 Xuất khẩu

 Nhập khẩu

 So với
năm 2019
(%)

 Tỷ trọng

(%)

 Trị giá
(Tỷ USD)

140,25

3,4

49,6

212,72

4,7

81,0

ASEAN

23,09

-7,7

8,2

30,47

-5,5

11,6


Trung Quốc

48,87

17,9

17,3

84,19

11,5

32,0

Hàn Quốc

19,11

-3,2

6,8

46,90

-0,3

17,9

Nhật Bản


19,28

-5,2

6,8

20,34

4,1

7,7

Châu Mỹ

90,17

22,1

31,9

21,85

-3,0

8,3

Hoa Kỳ

77,08


25,7

27,3

13,71

-5,0

5,2

Châu Âu

44,71

-5,4

15,8

19,14

2,7

7,3

 Thị trường

Châu Á

 Trị giá

(Tỷ USD)

 So với
năm 2019
(%)

 Tỷ trọng
(%)

593


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

 Xuất khẩu

 Nhập khẩu

 So với
năm 2019
(%)

 Tỷ trọng
(%)

 Trị giá
(Tỷ USD)

40,05


-3,4

14,2

15,34

2,9

5,8

Châu Đại Dương

4,47

1,0

1,6

5,33

3,7

2,0

Châu Phi

3,06

-1,9


1,1

3,67

-7,5

1,4

282,65

7,0

100,0

262,70

3,7

100,0

 Thị trường

EU (28)

Tổng

 Trị giá
(Tỷ USD)

 So với

năm 2019
(%)

 Tỷ trọng
(%)

Nguồn: Tổng cục Hải quan

3. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
ĐẠI DỊCH COVID-19
Dự báo sức mua thị trường năm 2021 vẫn sẽ giẫm chân tại chỗ, khơng có sự tăng trưởng đột phá
nếu tình hình dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp. Về kịch bản nguyên phụ liệu, năm 2021 và
2022, Việt Nam có thể vẫn thu hút nhiều dự án đầu tư sợi, dệt, nhuộm, chuyển tiếp từ 2019 - 2020
sang, có thể đảm bảo phần cung thiếu hụt của dệt may Việt Nam. Nguyên nhân là do sự thay đổi
phương thức mua hàng ở các quốc gia, sau khi chuỗi cung ứng tồn cầu có “trục trặc”, các nhãn hàng
thời trang chấp nhận mua nguyên phụ liệu của Việt Nam, trong khi đó, các nhà máy của Việt Nam
sản xuất sợi và dệt đã phát huy tốt năng lực phục vụ tại thị trường trong nước và xuất khẩu. Dự kiến,
với khả năng kịch bản dịch bệnh được kiểm soát tốt hơn trên thế giới trong quý I/2021, xuất khẩu dệt
may năm 2021 có thể đạt khoảng 37 - 38 tỷ USD, có tăng trưởng nhẹ so với 2020. Bên cạnh đó, các
hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA), Hiệp định Đối tác
Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may dễ dàng
khai thác lợi ích của các hiệp định đã có và thúc đẩy chuỗi sản xuất trong khu vực.
Với nhiều mặt hàng như: giày dép, dệt may, sản phẩm gỗ, máy tính, sản phẩm điện tử, linh
kiện..., một năm sẽ có hai mùa sản xuất chính là đầu năm và cuối năm. Do vậy, thời điểm này
cũng là thời điểm vào mùa sản xuất, xuất khẩu nên các doanh nghiệp đang “tăng tốc” để hoàn
thành các đơn hàng. Các doanh nghiệp đang kỳ vọng vào mùa sản xuất đầu năm 2021. Đến nay,
nhiều doanh nghiệp trên lĩnh vực dệt may, giày dép, máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng, máy
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đã nhận được đơn hàng đến quý II/2021. Vào cuối năm, thị
trường xuất khẩu từng bước được khơi thông nên đầu ra của các doanh nghiệp thuận lợi hơn.

Tới đây, nếu dịch bệnh COVID-19 được khống chế hoàn toàn, các nước đồng loạt mở rộng
thị trường sẽ giúp cho các doanh nghiệp tăng xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu
nhận được các đơn hàng lớn của đối tác nước ngồi nên sản xuất được khơi phục. Nhiều doanh
nghiệp lớn ở Việt Nam kỳ vọng, khi dịch COVID-19 được kiểm sốt tốt thì sẽ thúc đẩy xuất khẩu
được tốt hơn, dự kiến, xuất khẩu ngành da, giày, túi xách sẽ tăng trưởng 15 - 20% trong năm 2021
nếu tình hình dịch COVID-19 được kiểm sốt tốt. Cho tới thời điểm này, có thể thấy, da giày là
một trong những ngành tận dụng tốt nhất Hiệp định EVFTA. Thời gian tới, ngành da giày vẫn
594


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

xác định tập trung cho xuất khẩu, tham gia mạnh vào chuỗi giá trị. Từ đại dịch COVID-19 cho
thấy đứt gãy chuỗi cung gây ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng tới sản xuất, buộc toàn ngành phải
nhìn nhận lại chiến lược. Nếu phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên phụ liệu, khi xảy ra
vấn đề chuỗi cung doanh nghiệp sẽ rất bị động. Thời gian sắp tới là cơ hội rất tốt để toàn ngành
và Chính phủ thiết lập lại chính sách mạnh hơn cho phát triển công nghiệp hỗ trợ. Việt Nam phải
chớp lấy cơ hội này để phát triển sản xuất nguyên phụ liệu ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy năm 2020, Việt Nam đạt được kết quả xuất khẩu khả quan trong bối cảnh
dịch COVID-19 là bởi Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) với hầu hết các đối tác,
doanh nghiệp tận dụng tốt các FTA đã đưa vào thực thi. Chẳng hạn trong năm 2020, số lượng bộ
C/O ưu đãi được cấp tăng 9% so với năm 2019 cho thấy doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu từ
Việt Nam đang dần nâng cao tỷ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan tại các thị trường có FTA.
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam sang một số thị trường truyền thống gặp nhiều khó khăn, nhưng xuất khẩu
vẫn có tăng trưởng dương do các doanh nghiệp đã tận dụng được cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu
sang các thị trường thay thế. Thực tế cho thấy, đến năm 2020, Việt Nam có 31 thị trường xuất
khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, tăng mạnh so với con số 24 thị trường đạt kim ngạch trên 1

tỷ USD vào năm 2016, chưa kể trong đó có đến 5 thị trường đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD và 8
thị trường trên 5 tỷ USD. Dù thừa nhận xuất khẩu trong năm 2021 sẽ tiếp tục đối diện với nhiều
rủi ro do dịch COVID-19 nhưng vẫn có triển vọng tích cực nhờ các FTA thế hệ mới như: CPTPP
và EVFTA, với ưu đãi về thuế quan và các điều kiện tiếp cận thị trường. Hơn nữa, sau thời gian
bị trì hoãn bởi dịch bệnh, năm 2021 dự báo sẽ chứng kiến sự dịch chuyển luồng đầu tư của các
doanh nghiệp FDI từ các nước trong khu vực sang Việt Nam, định vị lại chuỗi cung ứng cũng
như tận dụng các ưu đãi mang lại từ các FTA.
Số lượng doanh nghiệp FDI tăng sẽ tạo ra tăng trưởng cao về xuất khẩu do xuất khẩu của
khối FDI luôn chiếm tỷ trọng cao (trên 80%) trong tổng kim ngạch nhiều năm qua. “Dịch bệnh
COVID-19 được nhận định là trong “nguy” có “cơ”. Các doanh nghiệp có cơ hội để tái cấu trúc,
nâng cao khả năng ứng phó trước các biến động của thương mại thế giới, phù hợp với độ mở lớn
của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Khi năng lực của cộng đồng doanh nghiệp được nâng
cao, xuất khẩu được kỳ vọng sẽ tăng trưởng tích cực hơn, bền vững hơn”.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, năm 2021, xuất khẩu nơng, lâm, thủy sản của
Việt Nam có nhiều triển vọng tăng trưởng ở hầu hết các ngành hàng. Việt Nam đang có cơ hội
hưởng lợi từ các hiệp định thương mại tự do đã ký như: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam EU (EVFTA); Hiệp định Ðối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP); Hiệp định Thương mại tự
do giữa Việt Nam và Vương quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA). Trong đó, ngồi EVFTA đã có
hiệu lực từ ngày 01/8/2020 và được các doanh nghiệp đẩy mạnh khai thác lợi thế thuế quan thì
UKVFTA cũng đang mang đến những cơ hội lớn cho xuất khẩu nông sản.
Ðối với ngành lúa gạo, tháng 3/2021, Công ty cổ phần Giống cây trồng Trung ương (Vinaseed)
đã xuất lô hàng 80 tấn gạo thơm thượng hạng sang thị trường Anh theo UKVFTA. Lô hàng này
được doanh nghiệp Long Dan tại Anh nhập và bày bán trong chuỗi siêu thị Long Dan với giá bán

595


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

lẻ 15,5 bảng/10 kg (465.000 đồng/10kg). Khơng chỉ gạo, Anh cịn là một trong những thị trường
nhập khẩu thủy sản lớn trên thế giới, khoảng 4,4 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, thị phần của thủy sản

Việt Nam trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của Anh hiện chỉ chiếm khoảng 6,7%, nên với
UKVFTA, cánh cửa xuất khẩu thủy sản đang rộng mở với các doanh nghiệp Việt Nam. Về đồ gỗ,
hiện Việt Nam là quốc gia xuất khẩu đồ gỗ lớn thứ 6 vào Anh. Theo UKVFTA, trong vòng 5 năm,
nhiều mặt hàng gỗ và sản phẩm từ gỗ sẽ có thuế suất về 0% (gỗ nguyên liệu hiện có thuế suất từ
2% đến 10%), chắc chắn sẽ mang lại nhiều cơ hội hưởng lợi cho ngành hàng này.
Cùng với cơ hội sẵn có, năm 2021 cũng đang đặt ra nhiều thách thức mới cho hoạt động xuất
khẩu chung của toàn ngành, nhất là trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp trong
nước và thế giới. Theo đó, hàng hóa vừa phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm
vừa phải bảo đảm cơng tác phịng, chống dịch. Ðối với lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, trong năm
2020, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, chỉ có thị trường Mỹ và Trung Quốc duy trì được tăng
trưởng dương, mức tăng lần lượt là 13% và 5%. Riêng thị trường EU, dù sụt giảm nhưng lại
ghi nhận sự bứt phá đáng kể sau khi EVFTA có hiệu lực. Năm 2021, ngành thủy sản vẫn hưởng
nhiều lợi thế từ các FTA, nhưng để có thể chinh phục được đa dạng thị trường thì cần tạo ra sự
khác biệt rõ nét cho sản phẩm về cả chất lượng và hình thức. Cụ thể như sản phẩm chủ lực tơm
xuất khẩu, khi khó giảm giá thành thì buộc phải tạo ra sự khác biệt về chất lượng để cạnh tranh
với sản phẩm tương đồng đến từ các quốc gia khác như Ấn Ðộ, Indonesia… Hay như cá tra, cần
đa dạng các sản phẩm chế biến sâu, phù hợp nhu cầu người tiêu dùng từng quốc gia, khu vực.
Các mặt hàng rau, quả cũng đối mặt nhiều thách thức do những yêu cầu ngày càng cao về
chất lượng, mẫu mã ở hầu hết các thị trường. Ngay cả Trung Quốc - một trong những thị trường
truyền thống, chiếm thị phần lớn trong xuất khẩu rau quả, trái cây của Việt Nam cũng đang liên
tục tăng cường các biện pháp thắt chặt kiểm dịch và an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc sản
phẩm, cùng nhiều yêu cầu chi tiết về cơ sở đóng gói, nhãn mác..., tạo ra những rào cản không
nhỏ đối với các mặt hàng xuất khẩu.
Các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường cần tăng cường giám sát chất lượng hàng hóa,
kiểm nghiệm kiểm dịch, tránh hiện tượng tồn ứ lượng lớn hàng nông sản do không đủ điều kiện
thông quan. Bên cạnh đó, với khối thị trường ASEAN, dù có lợi thế từ Hiệp định Ðối tác Kinh
tế Toàn diện khu vực (RCEP) thì thách thức lớn lại chính là buộc phải tăng tối đa khả năng cạnh
tranh cho sản phẩm vì hầu hết các quốc gia đều có chung những mặt hàng nông sản tương đối
tương đồng. Riêng thị trường Mỹ, hiện cũng có nhiều lo ngại về việc Mỹ tiếp tục gia tăng hàng
rào kỹ thuật đối với nhóm hàng lớn như thủy sản, hồ tiêu, gỗ và các sản phẩm gỗ…, cho nên các

doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cũng cần chủ động có giải pháp ứng phó linh hoạt.
Có thể thấy, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đã bổ sung nguồn thu ngoại tệ, ổn
định kinh tế vĩ mô, tạo động lực cho việc tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới cũng
như thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, hiệu quả của công tác hội nhập đã được thể hiện rõ ràng hơn,
khi hoạt động xuất - nhập khẩu không bị tác động quá lớn bởi sự phụ thuộc vào một số thị trường
và những xáo trộn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

596


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

4. GIẢI PHÁP ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH
COVID-19
4.1. Phát triển xuất khẩu trong bối cảnh đại dịch COVID-19
Hiện tại, nền kinh tế Việt Nam vẫn khá ổn định trước những thách thức của đại dịch COVID-19.
Tuy nhiên, nguy cơ lớn vẫn còn và tiềm ẩn nhiều bất ổn nếu dịch bùng phát trở lại. Đại dịch
COVID-19 kéo dài trên toàn cầu vẫn là nguy cơ lớn nhất đối với triển vọng tăng trưởng kinh tế
và phát triển bền vững. Theo Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
trong năm 2021, nền kinh tế Việt Nam sẽ đứng thứ 4 trong khu vực Đơng Nam Á, vượt Singapore
và Malaysia. Việt Nam đang có vị thế tốt để thoát khỏi bẫy kinh tế của đại dịch COVID-19. Ðể
đạt mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi tăng trưởng, bảo đảm an sinh
xã hội, phát triển bền vững, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục duy trì gói hỗ trợ tài chính đủ lớn và hiệu quả để tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế, trong đó tập trung vào đối tượng doanh nghiệp, vì đây là khu
vực đóng góp lớn cho tăng trưởng GDP.
Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, đạt tỷ lệ giải ngân cao nhất, chú trọng
đến việc tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, nhất là các dự án trọng điểm, quy mơ

lớn, có sức lan tỏa rộng, tạo đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng và tạo động lực cho tăng trưởng
kinh tế.
Thứ ba, kích cầu đầu tư trong khối doanh nghiệp sản xuất phục vụ xuất khẩu để chủ động
nguồn hàng khi thị trường thế giới mở lại bình thường. 
Thứ tư, thực hiện tốt việc phịng ngừa lây lan của bệnh dịch để không tái phát dịch, tạo điều
kiện cho việc mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là thương mại.
Để tận dụng các cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục thực hiện
đồng bộ các nhóm giải pháp:
Thứ nhất, tập trung rà sốt pháp luật trong q trình thực thi các FTA để sửa đổi, bổ sung các văn
bản quy phạm pháp luật, các nội dung đã cam kết, bảo đảm tính nhất quán của hệ thống luật pháp.
Thứ hai, tăng cường phổ biến về nội dung cam kết, công việc cần triển khai cho các doanh
nghiệp dưới nhiều hình thức đổi mới, sáng tạo hơn thông qua phương tiện truyền thông, trang
thông tin điện tử, các ấn phẩm, tài liệu, chương trình phát thanh và truyền hình hoặc các lớp tập
huấn, hội thảo; xây dựng các đầu mối hỗ trợ để thực thi hiệu quả; liên kết đầu mối thực thi tại
các bộ, ngành và địa phương.
Thứ ba, nghiên cứu kỹ lưỡng từng mặt hàng tại thị trường cụ thể, từ đó định hướng doanh
nghiệp về các ngành hàng có tiềm năng xuất khẩu sang thị trường này, thơng tin về nhu cầu nhập
khẩu của các nước và định hướng hoạt động xúc tiến thương mại.
Thứ tư, xây dựng các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, kết hợp đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cho các ngành hàng, doanh nghiệp, phù
hợp cam kết quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị,

597


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

chuỗi cung ứng khu vực và tồn cầu. Đối với ngành nơng nghiệp, ngành phải tiếp tục đổi mới
toàn diện các lĩnh vực, từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ để tạo ra sản phẩm đồng nhất về chất
lượng, mẫu mã. Theo đó, cần sự ý thức, chung tay của từng hộ sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp

chế biến, xuất khẩu… để hồn thiện chuỗi nơng sản khép kín trên cơ sở đa dạng hóa sản phẩm
chế biến; chú trọng chất lượng thay vì chạy theo số lượng; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các quy
định về kiểm dịch thực vật; thực hiện tốt các yêu cầu về lao động, môi trường và phát triển bền
vững… Ðồng thời, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ để tạo
ra nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn nữa. Mặt khác, dịch COVID-19 chắc chắn sẽ cịn
tác động lớn đến giao thương nơng sản trên tồn cầu, cho nên các ngành chức năng cần theo dõi
chặt diễn biến của dịch để sớm đưa ra giải pháp phù hợp trong từng thời điểm cụ thể, bảo đảm
cho hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản được thông suốt và hiệu quả.
Thứ năm, sử dụng hiệu quả các công cụ phù hợp cam kết quốc tế, nhất là phòng vệ thương
mại và phòng, chống gian lận xuất xứ. Triển khai các chương trình, đề án lớn về phịng vệ thương
mại, phòng, chống gian lận xuất xứ nhằm tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng cho các ngành
sản xuất trong nước, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy sản xuất trong
nước, duy trì việc làm cho người lao động.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi và
tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp. Trong dài hạn, để bảo đảm được tăng trưởng bền
vững cho xuất khẩu, yếu tố then chốt nhất vẫn là tiếp tục tái cơ cấu sản xuất, cải tiến chất lượng
sản phẩm đi liền với cắt giảm chi phí vận hành để đưa ra thị trường các sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh hơn so với các đối thủ.
Thứ bảy, các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, dịch vụ... đang chịu tác động nặng nề có
động lực để đổi mới và sáng tạo nhanh hơn, ứng dụng cơng nghệ 4.0 trong q trình sản xuất.
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên các doanh nghiệp cần phải tăng cường áp dụng các công
nghệ kỹ thuật số trong quá trình sản xuất - kinh doanh và tận dụng cơng nghệ để duy trì các hoạt
động kết nối, tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trước các thách thức trong chuỗi cung
ứng, pháp lý và quản lý lực lượng lao động từ xa. Sự phát triển của kỹ thuật số chắc chắn sẽ là
một trong những động lực tăng năng suất mới. Tự động hóa, số hóa sẽ dần thay thế nhiều khâu
trong quy trình sản xuất của nhiều ngành kinh tế, góp phần làm giảm chi phí, tăng lợi nhuận và sử
dụng ít lao động hơn, giảm tiếp xúc trực tiếp hơn. Cơng nghệ số có khả năng ứng dụng ở hầu hết
ngành kinh tế, có thể tạo nên những thay đổi lớn về phương thức sản xuất và năng suất lao động.
Thứ tám, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang “chuỗi cung ứng xanh” để chuẩn bị tái gia
nhập thị trường tiêu dùng toàn cầu. Người tiêu dùng trên khắp thế giới đang ngày càng ủng hộ

hàng hóa và dịch vụ đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững, bao gồm năng lượng gió và năng
lượng mặt trời, cũng như nền kinh tế tuần hoàn cho nhựa và chất thải khác. Việt Nam cũng nhanh
chóng đưa các yếu tố này vào chuỗi cung ứng nội địa của mình để nâng cao giá trị của các sản
phẩm xuất khẩu khi đại dịch đi qua. Khi đối mặt với dịch bệnh nguy hiểm như COVID-19, rất
nhiều người đã nhận ra rằng, sức khỏe là thứ vốn quý nhất mà tiền bạc, danh vọng khơng thể thay
thế được. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, những thực phẩm chất lượng, mang giá trị dinh dưỡng
cao, tốt cho sức khỏe sẽ được người tiêu dùng đón nhận nhiệt tình hơn.

598


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

4.2. Giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Trong khi trên thế giới đại dịch COVID-19 vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt hẳn thì tại Việt
Nam, các doanh nghiệp cần khôi phục sản xuất và trở lại hoạt động bình thường khi đã kiểm sốt
tốt được dịch bệnh. Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, cũng có rất nhiều các doanh nghiệp ở
một số lĩnh vực nắm được thời cơ từ đại dịch COVID-19. Chẳng hạn như các doanh nghiệp bán
lẻ trực tuyến, doanh nghiệp cung cấp giải pháp công nghệ hỗ trợ làm việc từ xa (phần mềm học
tập, tư vấn dịch vụ trực tuyến, khám bệnh trực tuyến,…), các doanh nghiệp sản xuất khẩu trang
y tế, thiết bị y tế phòng dịch, các doanh nghiệp cung ứng hàng thiết yếu ra thị trường. Ngồi ra,
những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh thì có thể nắm bắt thời cơ, tập trung đầu tư và
những lĩnh vực mà thị trường đang cần để mở rộng hoạt động sản xuất bằng cách xây dựng các
nhà máy và cơ sở kinh doanh.
Theo các dự báo, có thể có đến 30% - 40% doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam sẽ phá
sản. Trong số các doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực thì doanh nghiệp vừa và nhỏ là những
doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhiều nhất. Bản chất các doanh nghiệp này dễ bị tổn thương vì sở
hữu nguồn vốn hạn chế, kinh nghiệm tích lũy ít, nhiều doanh nghiệp mới thành lập cịn non trẻ

nhưng lại là thành phần kinh tế chính của nền kinh tế nội địa. Khi đại dịch COVID-19 xảy ra,
việc xoay sở và chống chọi đối với họ quả thực là một bài tốn khó. Đối với nhóm doanh nghiệp
này, khuyến nghị đưa ra dựa trên giải pháp hướng đến mục tiêu là giảm thiểu thiệt hại tới mức
tối thiểu hoặc chuẩn bị những nguồn lực mới cho những cơ hội mới giống như người ta thường
ví là “xóa ván cờ đi đánh lại ván khác”.
Các chủ doanh nghiệp, nhà quản lý, người phụ trách kinh doanh, marketing, nhà khởi nghiệp
cần quan tâm đến việc xây dựng các bộ quy trình khác nhau trong các khâu tác nghiệp khác nhau
của một q trình phục vụ khách hàng để tạo tính thống nhất, nâng cao năng suất lao động, giảm
chi phí, giảm hao hụt, cải tiến chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Điều này sẽ gia tăng hiệu quả kinh
doanh, giảm chi phí cho doanh nghiệp sau khủng hoảng COVID-19. Tập trung vào xây dựng quy
trình và cải tiến quy trình, cải tiến liên tục hằng ngày, hằng tuần để có được quy trình sản xuất
tốt hơn. Trong q trình kinh doanh và marketing sắp tới, các doanh nghiệp hoặc các nhà khởi
nghiệp cần phải xây dựng trọn vẹn quy trình từ nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng,
phát triển sản phẩm mới, xây dựng kênh phân phối, xây dựng chiến lược bán hàng, phát triển
thương hiệu và quảng cáo, bán hàng và chăm sóc khách hàng sau bán, lắng nghe ý kiến phản hồi
của khách hàng và tiếp tục sản xuất… Mỗi một khâu đều cần doanh nghiệp xây dựng một hay
nhiều quy trình. Ví dụ như quy trình bán hàng tại shop; quy trình nhận và xử lý phản hồi của
khách hàng, quy trình chạy quảng cáo, quy trình nhận sản phẩm bảo hành và thực hiện bảo hành
sản phẩm, quy trình chốt sales, quy trình xử lý khủng hoảng truyền thông… để chuẩn bị cho việc
tái kinh doanh trở nên hiệu quả hơn.
5. KẾT LUẬN
Tại Việt Nam, dịch bệnh về cơ bản vẫn diễn biến rất phức tạp và khó lường bởi trước đó, các
tổ chức y tế đánh giá là có nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh COVID-19 rất cao. Việt Nam là quốc
gia có độ hài lòng cao nhất thế giới về phản ứng của Chính phủ đối với dịch bệnh. Ngồi ra, cần
phải xây dựng nhiều kịch bản chính sách kinh tế khác nhau từ ngắn đến dài hạn để đối phó với

599


KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


tình hình dịch tại Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới. Các phản ứng chính sách chủ yếu
nên mang tính hỗ trợ, kéo dài khả năng chống đỡ cho xã hội. Nếu tình hình bệnh dịch kéo dài,
Chính phủ cần phải tính tới các biện pháp mạnh mẽ hơn mang tính giải cứu. Đồng thời, các giải
pháp chính sách đưa ra cần tính tốn một cách linh hoạt, đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả khi
triển khai. Sự nguy hiểm của đại dịch COVID-19 hiện nay đã gây ra sự bất ổn về kinh tế và xã
hội trên toàn cầu. Nhờ những nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành với hàng loạt giải pháp ứng
phó dịch COVID-19 hiệu quả, bảo đảm tăng trưởng kinh tế, cùng nỗ lực của cộng đồng doanh
nghiệp, hoạt động xuất - nhập khẩu đã và đang giữ được đà tăng trưởng khá, trở thành động lực
quan trọng đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Các đề xuất và kiến nghị ở trên sẽ
góp phần quan trọng trong định hình chính sách thúc đẩy xuất khẩu bền vững các hàng hóa của
Việt Nam ra thị trường thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Báo cáo đánh giá ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 đối
với phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Cùng nỗ lực - Vượt thách thức - Đón thời cơ - Phục hồi nền
kinh tế.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Báo cáo số 6219-BC/BKHĐT ngày 22 tháng 9 năm 2020 về
đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và dự kiến Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.
4. Congressional Research Service (CRS) (2020), Global Economic Effects of COVID -19.
5. Phan Thế Công và cộng sự (2020), Tác động của đại dịch COVID-19 và ứng phó của Việt
Nam. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. Sách chuyên khảo.
6. Trần Thọ Đạt (2020), Tác động của đại dịch COVID-19 đến nền kinh tế Việt Nam và giải
pháp ứng phó, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 274, tr.14 - 22.
7. Đinh Trường Hinh (2020), Một số giải pháp cho kinh tế Việt Nam mùa dịch COVID-19.
8. H. Lambert (2020), Government documents show no planning for ventilators in the event of
a pandemic.
9. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV (2020), Báo cáo đánh giá
sơ bộ tác động của dịch nCoV đến kinh tế thế giới và Việt Nam.

10.Phan Kim Châu Mẫn, Trần Xuân Chương (2020), Đặc điểm virus của Coronavirus và chủng
Sars-Cov-2.
11.Ministry of Economy and Finance, Korea (2020), Tackling COVID-19: Health, Quarantine
and Economic Measures: Korean Experience.
12.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá tác động của dịch COVID-19 lên
kinh tế, tiền tệ và các giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng.

600


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

13.PWC (2020), COVID-19 Impact Assessment: Analysis of the Potential Impacts of Covid -19
on Vietnamese Economy.
14.Đinh Văn Sơn và cộng sự (2019, 2020), Báo cáo kinh tế - thương mại thường niên; năm
2019, năm 2020. NXB Thống kê.
15.Tô Trung Thành, Bùi Trinh (2020), Tác động của COVID-19 đến nền kinh tế - Những đánh
giá ban đầu và hàm ý chính sách, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 274, tr. 23-30.
16.Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo (Ban Tuyên giáo Trung ương) (2020), COVID-19:
Những tác động, hệ lụy và giải pháp ứng phó.
17.Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2020), Đánh giá tác động của COVID-19 đến nền kinh
tế và các chính sách.
18.Tố Uyên (2021), Điểm sáng xuất nhập khẩu, Website: />pages/nhip-song-tai-chinh/2021-01-03/diem-sang-xuat-nhap-khau-97783.aspx.
19.Lê Thị Thùy Vân (2020), Suy thối kinh tế tồn cầu do tác động của đại dịch COVID-19 và
phản ứng chính sách các nền kinh tế.
20.World Bank (2020), COVID-19 policy response notes for Viet Nam.
21.World Bank (2020), East Asia and Pacific in the time of COVID-19.
22.Wuhan Municipal Health Commission (2020), Experts explain the lastest bulletin of unknown

cause of viral pneumonia.

601



×