TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH TẾ NGOẠI
THƯƠNG
POREIGN
TĨĨADE
UNIVERSiry
KHOA
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
(ĐA tài!
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YỂU ĐỂ THÚC ĐAY XUẤT KHAU HÀNG HÓA
CỦA VIỆT
NAM SANG KHU
vực
MẬU DỊCH Tự DO ASEAN
(AFTA)
TRONG
GIAI ĐOẠN
ĐẾN 2010
Giáo viên hướng dẫn
:
TS. Bùi Thị
Lý
Sinh viên thực hin : Nguyễn Hương Quyên
Lớp . A10 K39C- KTNT
THI/ VIÊN
THOÁNG
ĐAI
HÓC
N
so
AI
ĩ
MUÔN
tì
HÀ NỘI
-
2004
Xhoá luận
tất
nạhỉêp.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG
ì:
KHU vục MẬU
DỊCH
Tự DO ASEAN
(AFTA)
VÀ
NHŨNG
ẢNH HƯỞNG
CỦA AFTA ĐẾN
XUẤT
KHAU
HÀNG
HOA CỦA
VIỆT
NAM 4
I-Khái quát
chung
về khu vực
Mậu
dịch
Tự do ASEAN(AFTA) 4
Ì
.Sự ra đời
và mục
tiêu
của
AFTA
4
2.Cơ
chế và các đặc
trưng
về tổ
chức
của
AFTA
8
2.
Ì
.Hiệp
định
ưu
đãi thuế
quan
có
hiệu lực
chung
(CEPT)
-
Cơ
chế chủ
yếu
để
thực hiện
AFTA
8
2.2. Vấn
đề
loại
bỏ
các hạn chế về số
lượng
và
các
hàng
rào phi thuế
quan
khác
trong
tiến
trình
thực hiện
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự do
AFTA.
10
2.3.Vấn
đề hẩi
quan
trong
tiến
trình
thực hiện
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự
do
AFTA li
2.4.
Các
thể chế phối
hợp
trong
tiến
trình
thực hiện
Khu
vực
Mậu Dịch
Tự do
AI
TA 13
II-Đặc
điểm thương
mại của
các nước
ASEAN
và ẩnh hưởng
của
AFTA
đến xuất
khẩu
hàng hoa
của
Việt
nam 14
Ì.
Đặc điểm thương
mại của các
nước
ASEAN
14
2.
Ảnh
hưởng
của
AFTA
đến xuất
khẩu
hàng
hoa của
Việt
Nam 15
2.1.Cán cân thương
mại
16
2.2.Cơ
cấu
hàng
xuất
khẩu
19
2.3. Thị
trường
xuất
khẩu
20
CHƯƠNG
li:
THỰC
TRẠNG
XUẤT
KHAU
HÀNG
HOA CỦA
VIỆT
NAM
SANG
KHU
Vực MẬU
DỊCH
Tự DO
ASEAN(AFTA)
22
ì-
Khái quát
quan
hệ
thương
mại
Việt
Nam -
ASEAN
22
Ì
.Kim
ngạch
thương
mại giữa
Việt
Nam và các nước thành viên 22
2.Cơ
cấu
hàng
xuất
nhập
khẩu
của
Việt
nam
với thị truồng
ASEAN
26
QỈẨỊXiụễit 7ổưe'nạ
Qụụên
-
CÀI03C39&
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
II-Thực
trạng xuất
khẩu
hàng hoa
của
Việt
Nam
sang
từng
nước
ASEAN
28
no
1.Singapore
zo
2.Malaysia
31
3.Indonesia
31
4.Philippin
32
5.Thái
Lan
33
Ó.Lào
34
7.Campuchia
35
8.
Myanma
36
9.Bruney
37
ni-
Những
tồn
tại
trong
hoạt
động
xuất
khẩu
hàng hoa
của
Việt
nam
sang
các nước
ASEAN
thòi
gian
qua
37
IV-
Đánh giá
khả
năng
cạnh
tranh
của
các mặt hàng
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
trong
bôi
cảnh
thực hiện
cát
giảm
thuê
quan
ưu
đãi có
hiệu
lực
chung
CEPT 43
ì
.Dâu thô
44
2.Các
mặt hàng
dệt
may 45
3.Mặt hàng thúy
sản
47
4.
Mặt hàng gạo
49
5.
Mặt hàng cà phê
50
CHƯƠNG
HI:
NHỮNG
GIẢI PHÁP CHÚ YÊU ĐẾ THÚC ĐAY
XUẤT KHẨU
HÀNG
HOA CỦA
VIỆT
NAM SANG KHU
vực
MẬU DỊCH Tự DO
ASEAN(AÍTA)
TRONG
GIAI
ĐOẠN
ĐẾN
2010
53
ì-
Chiến
lược
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
giai
đoạn 2001-2010
53
1.
Mục
tiêu
phát
triển
kinh
tế
xã
hội
thởi
kỳ
2001-2010
53
2.Chiến
lược
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
giai
đoạn 2001-2010
54
2.1.Về
quy
mô
và
tốc
độ tăng
trưởng
54
2.2.Về
cơ
cấu
mặt hàng
xuất
khẩu
55
2.3.Về
cơ
cấu
thị
trưởng
57
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
II-Những
giải
pháp
chủ yếu
để thúc đẩy
xuất
khẩu
hàng hoa
của
Việt
Nam
sang
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự
do
ASEAN(AFTA)
trong
giai
đoạn
đến 2010
59
Ì
.Về phía
nhà
nước
59
Ì. Ì
.Thực
hiện
đúng
những
lộ
trình
AFTA,
CEPT mà
Việt
Nam đã cam
kết
đổng
thời
cần
phải
đẩy
nhanh
tiến
trình
này 59
1.2.
Hoàn
thiện
chính sách thương mại
60
1.3.Chính
sách
họ
trợ
doanh
nghiệp
65
1.4.
Đảm
bảo
quyền
bình đẳng của
các
chủ
thể
tham
gia hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
70
2.
Về
phía
các
doanh
nghiệp
71
2.
Ì
.Lựa
chọn
sản
phẩm
để
thâm
nhập
thị
trường
ASEAN 71
2.2.
Nâng cao
chất
lượng
sản phẩm, tăng tính
cạnh
tranh
của sản
phẩm
73
2.3.
Tăng
hiểu
biết
về
thị
trường
ASEAN 77
2.4.Nâng cao
chất
lượng
lao
động
và
quản
lý
lao
động
trong
doanh
nghiệp
78
KẾT
LUẬN
80
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
Díhoá luận
tốt
nạlùĨỊL
LỜI
MỞ ĐẤU
Thế
giới
đã và đang
diễn
ra những
biến
đổi to lớn
và sâu
sắc.
Các
quốc
gia
trên
thế
giới
phụ
thuộc
lẫn
nhau
trong
mối
quan
hệ
kinh
tế,
không có
quốc
gia
nào phát
triển
mà không mở
rộng
mối
quan
hệ
kinh tế đối ngoại,
đặc
biệt
là
ngoại
thương. Xu
hướng
khu vực hoa và toàn cầu hoa càng
thể
hiện
một
cách rõ nét
chọng
hạn như sự
lớn
mạnh
của các
tổ
chức
kinh tế
khu
vực và
thế
giới:
WTO, EU,
ASEAN,
APEC
Thêm vào đó,
cuộc
cách
mạng
khoa
học
công
nghệ
với
những
bước
tiến
vượt bậc,
đặc
biệt
trong lĩnh
vực công
nghệ
thông
tin,
viễn
thông,
sinh
học, vật
liệu
mới và năng
lượng
mới là
xung
Lực
mạnh
mẽ thúc đẩy quá trình
quốc
tế
hoa trên
tất
cả các
lĩnh
vực của
đời sống
xã
hội,
dẫn đến sự phân công
lao
động
quốc
tế
ngày càng sâu sắc và làm cho
ranh
giới
giữa
các
quốc
gia trở
nên tương
đối.
Hoa
nhập
với
xu
thế
trên,
trong
công
cuộc
phái
triển
kinh tế
.xây
dựng
đất
nước,
đặc
biệt
là sau
khi
tiến
hành
dổi
mới
kinh tế
xã
hội,
Đảng
và Chính
phủ
Việt
Nam
rất coi trọng
hoạt
động
kinh tế đối ngoại.
Thúc đẩy
xuất
khẩu
là
một
trong
những
định
hướng
quan
trọng
dể
khai
thác các
lợi
thế
so sánh
quốc
gia
nhằm nâng cao
hiệu
quả của nền
kinh tế
các nước
trong
xu
thế
toàn cầu
hoa
và khu vực
hoa.
Hiện
nay,
Việt
Nam đang
tiến
hành công
nghiệp
hoa,
hiện
đại
hoa
hướng
về
xuất
khẩu
với
mục tiêu
phấn
đấu về cơ bản
trớ
thành
một
nước công
nghiệp
vào năm
2020.
về bản
chất,
hoạt
động
xuất
khẩu
cho
phép
khai
thác các
lợi
thế
so sánh của
từng
quốc
gia trong
từng
thời
kỳ phát
triển
và xây
dựng
cơ cấu
kinh tế
tối
ưu. Tuy nhiên, trên
thực
tế,
để
khai
thác
được
hết
các
thế
mạnh
của các
nguồn
lực
phát
triển
bên ngoài đòi
hỏi
chúng
ta
phải
có định
hướng
đúng đắn cùng
với
những
giải
pháp và bước đi thích hợp.
Đây được
coi
là nền
tảng
cho sự
hội
nhập
thành công của nền
kinh
tế
Việt
Nam
với kinh tế
khu
vực và
thế
giới.
Để
thực
hiện chiến
lược
trên,
trong
những
năm qua
Việt
Nam đã không
ngừng
mở
rộng
quan
hệ
kinh tế với
các
nước,
các
tổ chức
kinh tế
khu vực và
QíạiiỊ/ĩn
7Ểuónạ Quụèii
-
dl103(39&
I
Díhoá luận
tốt
nạlùĨỊL
thế
giới.
Việc
gia
nhập
ASEAN
(07/1995)
đánh dấu một bước
khởi
đầu cho
Việt
Nam
trong
tiến
trình
hội
nhập
với
các
tổ
chức
kinh tế
trên
thế
giới.
Mặc
dù
thị
trường
ASEAN
chiếm
tỷ trọng
không
lớn trong
tổng
kim
ngạch
ngoại
thương
của
chúng
ta
nhưng
việc
chúng
ta
chuỳn
bị hội
nhập
như
thế
nào
với
khu vực
AFTA-
nơi được
xem
như
là
"sân
tập" cho
toàn bộ
tiến
trình
hội
nhập
với
nền kinh tế thế
giới
của Việt
Nam,
việc
xây
dựng
chiến
lược
thúc đỳy
xuất
khỳu
ra sao,
chuỳn
bị đội
ngũ cán bộ cho
AFTA
nói riêng và toàn bộ
thời
kỳ
hội
nhập
như
thế nào, cải
tiến
bộ máy
quản
lý
và
phương
thức
hoạt
động
thương
mại
quốc
tế
như
thế
nào để
chủ
động
hội
nhập,
trước mắt
là với
AFTA
là
những
vấn
đề
rất
đáng
quan
tâm.
Việc
đánh
giá
tình hình
xuất
khỳu
hàng hoa của
Việt
Nam
sang
khu vực
AFTA
để
từ
đó để
ra
những
giải
pháp chủ yếu nhằm thúc đỳy
xuất
khỳu
hàng hoa cùa
Việt
Nam
sang
các
nước
thuộc
AFTA
trong
giai
đoạn
mới-
giai
đoạn đỳy
mạnh
công
nghiệp
hoa, hiện đại
hoa
và
hội
nhập
với kinh tế khu vực
và
thế
giới
có
ý
nghĩa
sâu
sắc cả về lý luận
và
thực
tiễn.
Xuất
phát
từ lý
do
đó,
em
đã
chọn
đề
tài
"
Những
giải
pháp chủ
yếu
đế
thúc đỳy
xuất
khỳu
hàng hoa
của Việt
Nam
sang
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự
do
ASEAN(AFTA)
trong
giai
đoạn đến
2010" với
hy
vọng
góp một nỗ
lực
nhỏ trong
hành trình dài
xây
dựng
chiến
lược
xuất
khỳu
hàng hoa của
Việt
Nam
ra thị
trường
bên
ngoài,
trước
hết
là
sang
AFTA
trong
điều
kiện
chủ
động
hội
nhập.
Ngoài
lòi
mở
đầu, kết luận,
mục
lục
và
danh
mục
tài
liệu
tham
khảo,
khoa
luận
tốt
nghiệp
gồm
có ba
chương
chính
:
Chương
ì:
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự
do
ASEAN
(AFTA)
và
những
ảnh hưởng
của
AFTA
đến
xuất
khỳu
hàng
hoa của Việt
Nam
Chương
li:
Thực
trạng
xuất
khỳu
hàng hoa
của Việt
Nam
sang
Khu
vực
Mậu
dịch
tự
do
ASEAN(AFTA)
Chương
LU:
Những
giải
pháp
chủ yếu
để thúc đỳy
xuất
khỳu
hàng hoa của
Việt
Nam
sang
các
nước
AFTA
trong
giai
đoạn
đến 2010.
QíạiiỊ/ĩn
7Ểuónạ Quụèii
-
dl103(39&
2
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
Do
điều
kiện
về
thời
gian,
nguồn
tài
liệu
và trình độ còn
nhiều
hạn chế nên
khoa
luận
không
thể
tránh
khỏi
những
thiếu sót.
Do
vậy,
em
rất
mong
nhận
được
sự chỉ
bảo và đóng góp ý
kiến
của các
thầy
cô để em có
thể
hoàn
thiện
khả năng
nghiên cịu của
mình.
Nhân
đây,
em
cũng
xin
được
gửi
lời
cảm ơn chân thành
tới
cô giáo
-
TS.Bùi Thị Lý đã
nhiệt
tình
hướng
dẫn và
tạo
mọi
điều
kiện
để em có
thể
hoàn thành
khoa
luận
tốt
nghiệp
này.
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
3
DCltởă
luân
tối
nụhìêp.
CHƯƠNG ì
KHU Vực MẬU
DỊCH
Tự
DO
ASEAN
(AFTA)
VÀ
NHỮNG
ẢNH
HƯỞNG
CỦA
AFTA
ĐÈN
XUẤT
KHAU
HÀNG
HOA
CỦA VIỆT
NAM
I-KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHU vực MẬU DỊCH Tự DO ASEAN(AFTA)
l.Sự
ra đời
và
mục
tiêu của
AFTA
Lịch sử
hình thành
tổ
chức
ASEAN
(The
Association
of
South
East
Asia
Nations,
1967)
trước
hết bắt
nguồn
từ
lý
do chính
trị
và an
ninh
khu vực
vào
thập
kỷ
60.
ở
Việt
Nam,
cuộc
chiến
tranh
chống
Mỹ
đang
diờn
ra hết
sức
khốc
liệt
còn
tại
Trung
Quốc,
Cách
mạng
văn
hoa
ảnh
hưởng
sâu
rộng
đến
đời
sống
tinh
thần
của cộng
đồng
người
Hoa
ở
Đông
Nam
Á.
Trong
khi
đó,
Liên
Xô cũ hình thành hệ
thống
an
ninh
tập thể
Châu
Á
Trước hàng
loạt
những
thách
thức
kinh
tế,
chính
trị
của khu vực
đồng
thời
phải
giải
quyết
những
khó
khăn
và
sức
ép
từ
bên
ngoài,
nhu cẩu liên
kết
khu vực nhằm
tập
trung
sức
mạnh
tiềm
lực
để
đối
phó
với
những
thách
thức
nêu
trên
ngày càng
trở
nên
cấp
bách
đối với
các dân
tộc
Đông
Nam Á.
Trong
bối
cảnh
đó,
ngày
8/8/1967,
tuyên bố Băng Cốc đã được Bộ trưởng
Ngoại
giao
của
năm
nước:
Indonesia,
Malaysia,
Philippin,
Singapore
và Thái
Lan
ký
kết.
Hiệp
hội
các
quốc
gia
Đông
Nam Á
chính
thức
được thành
lập.
Mười
bảy
năm
sau,
ngày
8/8/1984, Bruney là
thành viên
thứ
sáu
của
ASEAN.
Ngày
28/7/1995,
Việt
Nam
gia
nhập
ASEAN.
Đến
năm
2000,
Lào và Mianma
gia
nhập
ASEAN
và
năm
2002,
Campuchia tham
gia
vào
tổ
chức
này đã nâng
tổng
số
thành viên
của
ASEAN
lên 10
thành viên.
Từ
năm
1976,
vấn đề hợp tác
kinh
tế
ASEAN đã
được chú
trọng
trở lại
với
kế hoạch
hợp
tác
kinh
tế
mà
lĩnh
vực
ưu
tiên
là cung
ứng và
sản
xuất
hàng
hoa
cơ
bản,
các
xí
nghiệp
công
nghiệp
lớn,
các
thoa
thuận
thương mại ưu đãi
Qlạiiụễit
76ưđnạ Q/iạin
-
cềt03C39ẽ
4
Dơirìá
luận
lốt
lUịhìíp.
và
các
quan
hệ
kinh tế đối ngoại
như
thoa thuận
thương mại
ưu đãi PTA, kế
hoach
hơD
tác côns
nghiệp
ASEAN
AIC,
kế
hoạch
hợp tác
từng
khu vực
BBC,
liên
doanh
công
nghiệp
AUV
Tuy
đã có
rất
nhiều
nỗ
lực
để
thúc đẩy hợp tác
kinh
tế trong
ASEAN,
nhưng
kết
quả của các
nỗ
lực
đó
không
đạt
được
mục
tiêu
như
mong
đợi.
Đồng
thời,
vào
đổu
những
năm
90,
môi
trường chính
trị,
kinh
tế
quốc
tế
và khu vực
đã có
những
thay
đổi quan
trọng.
Sự
kết
thúc của
chiến
tranh lạnh
trên toàn
cổu,
một
mặt,
đã làm
xuất hiện nhiều
đối thủ cạnh
tranh
nguồn
đổu tư nước
ngoài,
mặt khác
cũng
tạo
nên
nền
tảng
hoa bình cho
khu
vực.
Vì
vậy,
vai
trò của khu vực
ASEAN
cũng
thay đổi,
tập
trung nhiều
hơn
vào
hợp tác
kinh tế thay
vì an
ninh
khu vực
thuổn tuy.
Chính
những
nhãn
tố
đó đã
thiết
lập
nền
tảng
cho sự
ra
đời
của khu vực
mậu
dịch tự
do ASEAN
(AFTA),
mà
nhiều
người
tin rằng
sẽ
phục
vụ
tốt
hơn cho
quyền
lợi
của
ASEAN
cũng
như
củng
cố
tiếng
nói
của
khu vực này trên
diễn
đàn
quốc
tế.
Vì
vậy,
đến
năm
1992
khi
các nước thành viên
ASEAN ký
kết
một
Hiệp
định
về
Khu
vực
Mậu
dịch
tự
do ASEAN AFTA
(ASEAN
Free Trade Area)
tại
Hội
nghị
thượng đỉnh
ASEAN
lổn thứ
tư
tại
Singapore
thì hợp tác
kinh tế
của
các
nước
ASEAN
mới
thực
sự được đưa lên một tổm cao
mới.
Có
thể
kể
ra
đây
nhiều
nguyên nhân đưa đến sụ hình thành
AFTA,
nhung chủ yếu là
do
hai
nguyên nhân chính
sau:
Thứ
nhất,
có năm xu
hướng
lớn,
xét
trẽn
quan
điểm
toàn
cổu,
thúc
đẩy
các nước thành viên
ASEAN
hình thành
AFTA :
-
Sự
hình thành của
môi
trường
kinh
tế
toàn cổu
với
tính
cạnh
tranh
cao
hơn;
- Cuộc cách
mạng
điện tử
mở
đổu cho
kỷ
nguyên thông
tin
làm
cho nền
kinh
tế
ngày càng mang tính toàn cổu
và
phụ
thuộc lẫn
nhau
với
chu
kỳ
kinh
doanh
vận hành ngày càng
nhanh
hơn;
-
Sự
quốc
tế
hoa quá trình sản
xuất
hay quá trình
sinh
sản giá
trị
gia
tăng
đi
liền
với
mức độ
cạnh
tranh
chưa
từng
có;
Qlạtụiền 76ưđnạ Quyên
-
cầt03C39€
5
DChtìú- luăti
tóc
tUịhìệp.
-
Sự
phổ
biến
của cách
mạng văn
hoa,
xã
hội
toàn cầu
đã
thúc
đẩy các
giao
dịch
xuyên biên
giới,
kích thích
các
hoạt
động
kinh tế
bên
trong
và
giữa
các
quốc
gia;
-
Sự
lớn
mạnh
của chủ
nghĩa
khu vực.
Thứ hai,
về
phía
các
nước
ASEAN, có
hai
lý do
cần
phải
có AFTA. Đó
là, tất
cả các
nước
ASEAN ở mức độ
khác
nhau,
đều
chọn
chiến
lưục phát
triển
kinh tế
hướng
vào
xuất
khẩu,
vì
thế, tự
do
hoa thương mại
là
điều
kiện
tiên
quyết
cho thành công
của
những
nước
này.
Bên
cạnh
đó,
phát
triển
kinh tế
của
các
nước
ASEAN
trong
một
mức độ
lớn
phụ
thuộc
vào
luồng
đầu tư
trực
tiếp
của nước ngoài
(FDI). Với việc
hình thành
AFTA,
các nước
ASEAN
sẽ
hy
vọng
làm
tăng tính hấp dẫn của
họ
đối với
các
nguồn
FDI.
AFTA
đưục
thiết
lập
nhằm vào
các
mục
tiêu
cơ
bản sau
đây:
Thứ
nhất,
tự
do
hoa thương mại
trong nội
bộ ASEAN
bằng
cách
loại
bỏ
các hàng rào
thuế
quan
và
phi thuế
quan.
Đây
là
mục
tiêu đẩu tiên
song
không
phải
là mục
tiêu
quan
trọng
nhất
của
AFTA.VÌ
lẽ,
quy mô của
thị
trường
ASEAN
tương
đối
nhỏ so
với
các
thị
trường thương mại khu vực khác
như EU
và
NAFTA,
hầu
hết
các
nguồn
cung
cấp
sản
phẩm
chế tạo
nằm
ngoài
ASEAN,
điều
này làm cho
kim
ngạch
thương
mại
chịu
ảnh
hưởng của
AFTA
không
lớn.
Hiện
nay,
hầu
hết
các
quốc
gia
ASEAN còn
phải
phụ
thuộc
rất
nhiều
vào
công
nghệ,
đầu
lư,
bí
quyết
quản
lý của các
quốc
gia
ngoài khu vực.
Thư
hai,
tiến
hành
thu
hút các
nhà
đầu tư nước ngoài
bằng
cách
tạo
dựng
một khối thị
trường
thống
nhất.
Việc
thành
lập
AFTA sẽ
tạo
điểu
kiện
cho
việc
đẩy
mạnh
phân công
lao
động
quốc
tế trong nội
bộ ASEAN,
nghĩa
là
các
quốc
gia
khác
dù
đầu tư vào
bất
kỳ
quốc
gia
nào
trong khối
ASEAN
đều đưục
thụ
hưởng
những
ưu
đãi dành riêng cho
thị
trường khu vực
ASEAN,
đổng
thời
nhờ
sự
lớn
mạnh
của
thị
trường khu
vực,
đầu tư nước ngoài
vào các
quốc
gia
ASEAN sẽ
tăng
nhờ sự
tăng
lên
trong
sức mua của
thị
trường
khu vực
ASEAN. Đày
chính là
mục
tiêu
trung
tâm
của
AFTA. AFTA có
khả năng
tạo
OỈỢIH/ỈH 76ư<fnạ Quụên
-
CÂ10DC39&
ỏ
DChúá luận
tốt
nghiên
ra
một cơ sở
sản
xuất
thống
nhất
cho
ASEAN,
từ
dó
tạo
điều
kiện
cho phép
hợp
lý
hoa sản
xuất,
chuyên
môn
hoa
trong nội
bộ
khu vực
và
khai
thác
các
thế
mạnh
của
nhiều
nền
kinh tế
khác
nhau.
Tuy
nhiên,
để
đạt
được
mục
tiêu
này,
các
thành viên
ASEAN
cần
phải
nỗ
lực cải
thiện
môi
trường
đầu tư và
thông qua
AFTA làm
cho các
môi
trương đầu tư của
ASEAN
trở
nền hấp dỹn
hơn so
với
các
khu vực khác.
Vấn đề
đáng lưu
ý
là
ASEAN
cần
phải
đón
bắt
dược
các
dòng đầu
tư
quốc
tế
đang
trong
xu
hướng
chuyển
mạnh
từ
các khu
vực
Âu,
Mỹ
trở
lại
Châu Á.
Dĩ
nhiên,
đầu tư
trực
tiếp
nước ngoài vào
ASEAN
không
phải
là
một
hiện
tượng
mới,
song
những
tác động của
AFTA
sẽ nâng
cao
và
thúc đẩy chúng
khởi sắc.
Với định
hướng
phát
triển
ra
ngoài khu vực
trên
cơ sở
liên
kết thị
trường
bên
trong
AFTA, ASEAN
hoàn toàn
có
thể
kỳ
vọng
tới
khả năng
đẩy
mạnh
thế
thương
lượng
cạnh
tranh
về
thu
hút đẩu tư
trực
tiếp
nước ngoài.
Thư
ba,
khu vực Mậu
dịch
tự
do ASEAN góp
phẩn
làm cho ASEAN
thích
nghi
hơn
với
điểu
kiện
nền
kinh tế
quốc
tế
đang
diễn ra
những
thay đổi
mạnh
mẽ
cùng
với
xu
hướng
tự
do
hoa nền
kinh tế thế
giới,
trợ
giúp các
quốc
gia
thành viên
ASEAN
thích ứng
với chế
độ thương mại
đa
biên đang tăng
lên
nhanh
chóng. Tuy
nhiên,
AFTA
mới
chỉ
dừng
lại
ở mốc
thang
đẩu của sự hợp
tác
kinh tế khu vực.
Để AFTA
khỏi
bị
lu
mờ
trước sức
ép
của các
khối kinh
tế
khu
vực khác
và
các
thiết
chế thương mại
quốc
tế
khác
như Tổ
chức
Thương
Mại
Thế
Giới,
Diễn
đàn
Hợp
tác
Kinh
tế
Châu
Á-
Thái Bình Dương ,
AFTA
buộc
phải
đẩy
nhanh
tốc
độ
thực
hiện
và có
thể
không
chỉ
dừng
lại
ở
một Liên
minh
Thuế
quan
hay một
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự
do
mà có
thể
vươn lên
những
tầm
cao
mới
trong
tương
lai
như
thành
lập
Khối
thị
trường
chung
hay
Liên
minh
kinh tế
Tóm
lại,
AFTA
ra đời
đã
trở
thành một bộ
phận
hợp thành của xu
thế tự
do
hoa
thương mại
rộng
lớn
ở
khu vực Châu
Á
-
Thái Bình Dương
và
toàn
cầu.
Do
đó, tạo lập
APTA
cho
ASEAN
cũng
chính là
tạo lập
khu vực
mở,
một sự thích
ứng
cho
sự
phát
triển
của
ASEAN
trong
xu
thế khu vực hoa,
toàn
cầu
hoa.
QíạiiỊ/ĩn
7Cưanạ QaụỈH
-
cề10Dí3Ọ<ẵ
7
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
2.Cơ
chế và
các đặc trưng
về
tổ
chức của
AFTA
2.í.Hiệp
định
ưu
đãi thuế quan
có
hiệu lực chung (CEPT)
-
Cơ
chế chủ yếu
để thực hiện AFTA
Để
thực hiện
thành công Khu vực
Mậu
dịch
tự
do ASEAN(AFTA), các
Bộ trưởng
Kinh tế
các
quốc
gia
thành viên
ASEAN
tại
Hội nghị
thượng đỉnh
ASEAN
lần thứ
IV
tại
Singapore
ngày 28 tháng
Ì
năm
1992 đã cùng
ký
Hiệp
định
về Chương trình ưu đãi
thuế
quan
có
hiệu lực
chung (CEPT).
Hiệp
định
CEPT gảm
10
điều.
Sau
đó,
Hiệp
định
này đước
sửa
đổi
tại
Hội nghị
Thượng
đỉnh
ASEAN
lần thứ
V
tại
Băng
Cốc
(Thái
Lan)
để định
lại
lịch
trình
giảm
thuế từ
15
năm
xuống
còn 10
năm
và đưa các
sản
phẩm nông
nghiệp
vào
nội
dung
thoa thuận
của
Hiệp
định.
Như
vậy,
Hiệp
định
CEPT
về
thực chất
là
một
thoa thuận giữa
các
quốc
gia
thành viên
ASEAN
về
việc
giảm
thuế
quan
trong
nội
bộ
ASEAN
xuống
còn 0-5% thông qua "cơ
cấu
thuế
quan
ưu đãi có
hiệu
lực
chung",
đảng
thời
loại
bỏ các hạn
chế về
định lượng và các hàng rào
phi
thuế
quan
trong
vòng
lo
năm,
bắt
đầu
từ
ngày
Ì
tháng
Ì
năm
1993
đến ngày
Ì
tháng
Ì
năm
2003.
Hiệp
định
này được áp
dụng cả
đối với
các
sản
phẩm công
nghiệp
chế
biến,
bao
gảm cả các
hàng
hóa tư
bản
và
các snả phẩm nông
nghiệp
đã qua
chế
biến.
Như
vậy,
công cụ chính để
thực hiện
AFTA
là vấn
đề
cắt
giảm
thuế
quan
trong
quan hệ
thương
mại
nội
bộ
xuống
còn 0-5%.
Hiệp
định
CEPT
nhấn
mạnh
cho các mặt hàng công
nghiệp
chế
biến
là
đối
tượng
chủ yếu
được
thụ
hưởng các ưu
đãi
thuế
quan của
chương
trình
giảm
thuế
quan.
Việc cắt
giảm
thuế
quan cho những
mặt hàng này
sẽ
được áp
dụng
theo
một
lịch
trình cụ
thể theo hai
kênh
giảm nhanh
và
giảm
thông thường
đảng
tuyến,
nghĩa là
trong
vòng
từ
7 đến 10
năm,
phải
đưa được
khoảng
90%
trong
số hơn
40.000
dòng
thuế
của
các
quốc
gia
thành viên
ASEAN
xuống
mức
thuế dưới
5%
vào
năm
2000
và
sau
đó
sẽ
đưa được
mức
thuế
quan
bình
quân
của
toàn
khối
ASEAN
vào năm
2003
khoảng
2,63%.
(6)
Kênh
giảm
thuế
nhanh
(Fast Track)
(còn
gọi
là kế
hoạch giảm
thuế
tăng
tốc),
được
áp
dụng
cho
15
nhóm hàng
hóa
sản phẩm công
nghiệp
chế
biến
của
ASEAN
là
: xi
măng, hoa
chất,
phân
bón,
chất
dẻo,
hàng
điện
tử,
hàng
dệt,
dầu
thực
vật,
sản
phẩm
da,
sản
phẩm cao
su,
giày,
đả gốm
và thúy
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
8
Dơirìá
luận
lốt
lUịhìíp.
tinh,
đổ
dùng
bằng
gỗ và
song
mây, dược phẩm
với
khoảng
3200
mặt hàng,
chiếm
34%
tổng
danh
mục
giảm
thuế
của
toàn
ASEAN.
Lịch
trình
giảm
thuế
nhanh
được phân định thành
hai
giai
đoạn:
các
sản phẩm
có
thuế suất
trên
20%
được
giảm xuống
còn 0-5% vào ngày
Ì
tháng
Ì
năm
2000,
các
sản
phẩm
có
thuế suất
bằng hoặc
thấp
hơn 20% được
giảm xuống
còn 0-5% vào ngày
Ì
tháng
Ì
năm
1998.
(6)
Kênh
giảm
thuế
bình thường
(Normal
track)
(còn
gọi
là
chương trình
giảm
thuế
quan
theo lịch
trình
thông
thường)
được áp
dụng
cho
tất
cả các
sản
phẩm công
nghiữp
chế
biến
còn
lại.
Đối
với
các sản phẩm
có
thuế suất
trên
20%,
viữc
giảm
thuế theo lịch
trình
này
được
tiến
hành
theo hai
nấc: giảm
thuế suất
xuống
còn 20% vào năm 1998 và
sau
đó
tiếp
tục
giảm xuống
còn 0-
5% vào
năm
2003.
Đối với
các
sản
phẩm đã có
thuế suất
bằng hoặc
thấp
hơn
20%,
sản
phẩm này được
giảm
thuế
đến
0-5%
trong
vòng
7 năm
và được
kết
thúc vào năm
2000.
(6)
Kênh
loại
trừ
hoàn toàn hay
danh
mục
loại
trừ
hoàn toàn
(General
Exception
List
-
GEL) bao
gồm
những sản
phẩm không
tham
gia
Hiữp
định
CEPT.
Các
sản
phàm
trong
danh
mục
này
phải
là những sản
phẩm ảnh
hưởng
đến
an
ninh
quốc
gia,
đến đạo đức
xã
hội,
cuộc sống,
sức
khoe
con
người,
động
thực
vất,
bảo
tổn
các giá
trị
vãn hoa
nghữ
thuật,
di
tích
lịch sử,
khảo cổ.
Viữc cắt
giảm
thuế
cũng
như
xoa
bỏ các
biữn
pháp
phi thuế
quan
đối với
các
mặt
hàng này
sẽ
không được
xét
đến
theo
Hiữp
định
CEPT.
Xuất
phát
từ
hoàn
cảnh
đặc
biữt
của
từng
quốc
gia
thành viên
mà CEPT
còn quy định
danh
mục
các sản phẩm tạm
thời
chưa
tham
gia
giảm
thuê
(Temporary
Exclusion
List-
TEL) (còn
gọi
là danh
mục
loại trừ
tạm
thời).
Các
sản
phẩm
nằm
trong
danh
mục
này không được
hưởng
nhượng bộ
từ
các
quốc
gia
thành viên và
chỉ tồn
tại
mang
tính
chất
tạm
thời,
nghĩa là sau
5 năm,
các sản phàm
này
sẽ
phải
chuyển sang danh
mục
giảm
thuế theo hai
kênh
đổng
tuyến
đã
định.
Do
đó,
theo
kế
hoạch,
trong
thòi
gian từ
ngày
Ì
tháng
Ì
năm
2000,
hàng hoa
trong
danh
mục
loại trừ
tạm
thời
phải
chuyển sang danh
mục
giảm
thuế theo
CEPT
bình quân 20% mỗi năm.
Loại
danh
mục này
không
nhiều, chỉ
chiếm khoảng
8%
tổng
số các danh
mục
tham
gia
giảm
thuế.
Qlạtụiền 76ưđnạ Quyên
-
cầt03C39€
9
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
Ngoài
ra,
khi
áp
dụng
Hiệp
định
CEPT,
cần
lưu ý về
những
nhượng
bộ
trao
đổi
giữa
các
nước thành viên
ASEAN
khi
thực hiện
CEPT
trên nguyên
tác
có đi có
lại.
Đây là
diều kiện
mang
tính
bổ
sung
cho
cơ
chế
giảm
thuế
theo
Hiệp
định
CEPT.
Theo
nguyên
tắc
này,
các
quốc
gia
thành viên
Hiệp hội
để được
hưởng
các
ưu
đãi về
thuế
quan cằa nhau
khi xuất
khẩu
theo
Hiệp
định
CEPT
phải
tuân
thằ
một số yêu cầu
sau:
Một
là,
sản phẩm
đó
phải
nằm
trong
danh
mục
giảm
cắt
thuế
cằa
cả
quốc
gia
xuất
khẩu
và
quốc
gia
nhập khẩu
và
phải
có mức
thuế
quan
tối
đa
là 20%;
Hai
là,
sản
phẩm
đó
phải
có
chương trình
giảm
thuế
được Hội đồng
AFTA
thông qua;
Ba
là,
sản phẩm
đó
phải
là
những
sản phẩm
có hàm
lượng
xuất
xứ
từ
các
quốc
gia
thành viên
ASEAN
ít nhất
là 40%.
Để
xác
định
các
sản phẩm
có đằ
điều
kiện
để
được
hưởng
thuế
quan
ưu
đãi
theo
chương trình
CEPT
không,
các
quốc gia
thành viên hàng
năm
phải
công bố "Tài
liệu
trao
đổi
ưu
đãi
CEPT",
trong
đó
cần
thể
hiện
được
mức
thuế
quan
cằa các
sản
phẩm
theo
CEPT
và các sản phẩm
có đằ
điều
kiện
ưu
đãi.
Tuy
nhiên,
tỷ
lệ
giảm
thuế
quan
cằa các
quốc
gia
thành viên không
giống
nhau.
Chẳng
hạn,
nếu
Singapore
đã
là một
thị
trường hoàn toàn
tự
do
thì Thái
Lan
vãn là một
quốc
gia
có
tỷ
lệ thuế
bình quân cao
nhất. Tinh
hình còn
phức
tạp
hơn
khi
hầu
hết
các
quốc
gia
ASEAN
là thành viên cằa
Tổ
chức
Thương
mại
Thế
Giới
nên một số
quốc
gia
thành
viên,
ví
dụ
Philippin
đã
viện
dẫn
Hiệp
định
về hàng nông sản cằa Vòng
đàm
phán
Uruguay
để
trì
hoãn
việc
tham
gia
giảm
thuế,
thậm
chí có
quốc gia
như
Inđonexia
chẳng
hạn,
đã mặc
nhiên
tuyên bố
rút danh
mục
hàng nông sản qua
chế
biến
ra
khỏi lịch
trình
CEPT.
2.2,
Vấn đề
loại
bỏ
các
hạn chế
về
số
lượng
và các
hàng
rào phi
thuế quan
khác trong tiến trình thực hiện
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự
do
AFTA.
Việc
loại
bỏ các
hàng
rào
phi
thuế
quan
được
tiến
hành đồng
thời
với
việc
thực hiện
Hiệp
định
CEPT. Các
quốc
gia
thành viên
Hiệp hội
các
quốc
gia
Đông
Nam Á sẽ
xoa
bỏ các
hạn chế về
số
lượng
đối với
các
sản phẩm
CEPT
trên
cơ
sở
chế
độ
un
đãi
thuế
quan
được
áp
dụng
cho các sản phẩm
đó.
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
lo
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
Các hàng
rào
phi thuế
quan
khác
cũng
đước xoa
bỏ
dần
trong
vòng
năm năm
sau khi
sản phẩm được
hưởng
ưu
đãi.
Đây là
sự
hỗ
trợ
cực
kỳ
quan
trọng
cho
tiến
trình
AFTA vì
lẽ cắt
giảm
thuế
là
biện
pháp cần
thiết,
đẩu
tiên
song
đó
không
phải
là
biện
pháp
duy
nhất
của
chương trình
tổng
hợp về
tự
do hoa
thương
mừi:
các
kênh
giảm
thuế
đồng
tuyến,
danh
mục
loừi
trừ
từm
thời,
danh
mục
hàng nông
nghiệp
chưa qua
chế
biến .chỉ
là
những
khía
cừnh
khác
nhau
cấu
thành
nên
mặt
kỹ
thuật
và cơ
chế điều
hoa
thuế
quan
của chính sách
tự
do
hoa
thương
mừi.
Còn một
mặt khác
rất
quan
trọng
cấu thành
nên sự
tác động
có tính
chất
hành
chính,
pháp lý
giữa
các
quốc
gia trong
tiến
trình chu
chuyển
thương mừi
như các
biện
pháp
về
giấy
phép
xuất
nhập khẩu,
hừn
ngừch,
các
hừn
chế về tỷ giá
hối
đoái,
các
biện
pháp
về
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật
hàng
hoa
.Những
rào
cản
này
thể hiện trong thực
tiễn
hoừt
động thương mừi
ở các
nước
thường
rất
"bảo
thủ",
nó gắn
chặt với
các
chính sách
bảo hộ mậu
dịch
nặng
nề và
theo
đó,
việc
loừi
bỏ
chúng sẽ không
dễ
dàng nếu không
có
sự
cải
cách toàn
diện
ở
tầm
vĩ
mô
nền
kinh tế
của
từng
nước thành viên.
Các
biện
pháp
phi thuế
quan
thường
có ở
Việt
Nam
hiện
nay
là hừn
chế
về
số
lượng,
bao gồm cả
biện
pháp
cấm
hoặc
hừn
chế
nhập khẩu,
cấp
giấy
phép,
chỉ
định đầu mối
xuất,
nhập
khẩu,
phụ
thu,
tính
gia
nhập khẩu
tối
thiểu,
quy
định
về
xuất
xứ
hàng
hoa,
nhãn
hiệu
thương
mừi,
hừn
chế
có
tính
thời
vụ,
thủ
tục
thương
mừi,
giấy
tò
thương
mừi, thủ tục hải
quan Ngoài
ra,
các cơ
quan
chính phủ
còn có
thể
áp
dụng
các
biện
pháp
đối với
hàng
nhập khẩu
như
các
biện
pháp
kỹ
thuật đối với
thương
mừi,
các
biện
pháp vệ
sinh
dịch
tễ
2.3.Vấn
đề
hải
quan
trong tiến trình thực hiện
Khu
vực
Mậu
dịch
Tự
do
AFTA
Phối
hợp
hải
quan
là một
trong
các
biện
pháp cùng
với
việc
giảm
thuế
quan
và xoa bỏ các
hàng
rào
phi
thuế
quan
để
thực hiện
Khu vực
tự
do
Thương mừi
ASEAN.
Phối
hợp
hải
quan
biểu hiện trong
cơ
chế
thực hiện
Hiệp
định
CEPT
là
sự hỗ
trợ
các
quốc
gia
thành viên
thống
nhất
biểu thuế
quan
theo
Hệ
thống
hài
hoà(Harmonised System-HS) của
các
quốc
gia
thành viên.
Phối
họp
hải
quan cũng
từo
điểu
kiện
thuận
lợi
cho
việc thực hiện
giảm
thuế khi
hệ
thống
tính
giá
hải quan
và các
thủ tục hải quan
được
thống
nhất.
Hiệp
định
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
LI
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
ASEAN
về
Hải quan
đã được các
Bộ
trường Tài chính các
quốc
gia
ASEAN
ký ngày Ì tháng
3 năm
1995
tại
Phu két (Thái
Lan). Hiệp
định
gồm
13
điều.
trong
đó xác
định
mục
tiêu của
Hiệp
định là
đơn
giản
hoa
và
hài hoa hoa
phương pháp
định
giá
hải
quan,
biểu thuế
quan
và các
thủ tục hải
quan,
thống
nhất lấy
Hệ
thống
hài hoa
ở mức độ 6
chữ
số
làm
cơ
sờ cho
biểu thuế
quan
chung
của cả
Hiệp
hội,
sẽ thầc hiện theo Hiệp
định định
giá
hải
quan của
Hiệp
định
về
thuế
quan
và thương
mại
GATT
Hợp
tác
hải
quan
trong
Hiệp hội
các
quốc
gia
Đông
Nam Á
thể hiện
trên
các
khiu
cạnh sau:
-
Các
quốc
gia
ASEAN
sẽ thòng
nhất
biêu
thuế
quan:
Các
quốc gia
thành viên
ASEAN
sử
dụng
biểu thuế
quan
theo
Hệ
thống
điều
hòa
của Hội
đồng
Hợp
tác Hải quan (HS)
ở
các
mức
độ khác
nhau.
từ
6 đến
10 chữ
số.
Hội
nghị
Bộ trường
Kinh
tế
ASEAN
lần
thứ
26
tháng
9
năm 1995 đã
quyết
định
sẽ
thống nhất biểu thuế
quan
trong
Khối
ASEAN ờ mức
8
chữ
số.
-
Các
quốc
gia
ASEAN
sẽ thống
nhát hệ
thống
tính giá
hải
quan:
Các
quốc
gia
thành viên
ASEAN cam
kết thầc hiện
phương pháp xác định
trị
giá
hải
quan
theo
GATT-GTV(GATT
Transactions
Value)
tại
Vòng
đàm
phán
Uruguay
cùa
GATT
(trừ
Việt
Nam
do
Việt
Nam
chưa
trở
thành thành viên
của
GATTẠVTO)
vào
năm
2000
được nêu
trong
Hiệp
định
thầc hiện
điều khoản
VU
của
Hiệp
định
chung
về
Thuế quan
và Thương mại
năm
1994 để tính giá
hải
quan.
-
Các
quốc
gia
ASEAN
sẽ
xây
dầng
hệ
thống luồng
xanh
hải
quan:
Hội
nghị Hội
đổng
AFTA
lần thứ
8 đã thông qua
Khuyến nahị
của
Hội nghị
Tổng
cục trưởng Hải
quan
ASEAN để xây
dầng
hệ
thống
Luồna xanh hải
quan
và
thầc hiện từ
ngày
Ì
tháng
Ì
năm
1996.
- Các
quốc
gia
ASEAN
sẽ
thông
nhất thủ tục hải
quan:
Các
quốc
gia
thành viên
ASEAN
thoa thuận hai
vấn
đề
cần
thiết
trong
việc
thống nhất thủ
tục
hải
quan là:
+Mầu
tờ
khai hải
quan chung
cho hàng hoa
thuộc
phạm
vi Hiệp
định
CEPT:
Tất
cả các
hàng hoa
giao
dịch
theo Hiệp
định
CEPT
phải
có
Giấy
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
12
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
chứng nhận
xuất
xứ
(C/0)
Mẫu D dể xác
định
mặt
hàng
đó có
ít
nhất
40%
hàm lượng
ASEAN. Sau
đó,
hàng hoa
này
phải
được hoàn thành
thủ tục
xuất
nhập
khẩu.
Do các tò
khai hải
quan
của
các
quốc
gia
thành viên tương
tự
như
nhau
nên
thủ tục
có
thể
dược
đơn
giản
hoa
bằng
cách
gộp ba
loới
tờ khai
trên
thành
một mẫu
tờ khai hải
quan chung
cho hàng hoa
theo Hiệp
định
CEPT.
+Thủ
tục
xuất
nhập khẩu chung:
Để xây
dựng
thủ tục
xuất
nhập khẩu
chung
trong khối
ASEAN, các
quốc
gia
thành viên đang
tập trung
vào các
vấn
đề
sau:
a)
Các
thủ tục
trước
khi
nộp tò
khai
hàng hoa
xuất
khẩu;
b)
Các
thủ tục
trước
khi
nộp
tờ khai
hàng hoa
nhập
khẩu;
c)
Các
vấn
đề
về giám định hàng hoa;
d)
Các
vấn
đề về
gửi
hàng
trong
đó
Giấy
chứng nhận
xuất
xứ
được
cấp
sau
và có
hiệu lực hổi tố;
e)
Các
vấn
đề
liên
quan
đến hoàn
trả
2.4.
Các
thể chế
phôi
hợp
trong tiên trình thực hiện
Khu
vực
Mậu
Dịch
Tụ
do
AFTA
Thiết
lập
các
thể
chế
phối
hợp
giữa
các
nước thành viên
ASEAN
là một
vấn
đề
cần
thiết,
có ý
nghĩa
quyết
định
đối với
việc
duy
trì
xu
hướng
và đảm
bảo
thực hiện
thành công
CEPT.
Cơ
quan
đặc
trách
để duy
trì, phối
hợp và
điều
chỉnh
các
hoớt
động
của
AFTA
là
Hội
đồng
AFTA.
Hội
đồng
AFTA gồm
đới diện
các Bộ
trưởng
từ
các
nước
thành viên
và
Tổng
Thư Ký ASEAN. Các Bộ
trướng
tham
gia
Hội đồng
AFTA có
thể
khác
nhau
tuy theo từng
quốc
gia,
ở
Việt
Nam đó là Bộ
trưởng
Bộ
Tài
chính.
Hội
đổng
AFTA
được thành
lập
theo
điều
7
Hiệp
định
CEPT/AFTA
nhằm
thảo luận
và
thông
qua các
khuyến nghị
liên
quan
đến
AFTA do
SEOM
đệ
trình.
Hội đồng nhóm họp
ít nhất
một năm một
lẩn
và có
thể
họp
khi
cần
thiết.
Hội
đổng
AFTA có
nhiệm
vụ báo cáo lên
Hội
nghị
các
Bộ trưởng
Kinh tế
ASEAN.
Trong
quá
trình
thực
hiện,
để hỗ
trợ
cho
Hội
đồng
AFTA
thực hiện
nghĩa
vụ
của mình
với
Hội
nghị
Bộ
trưởng
Kinh
tế,
Hội
nghị
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
13
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
các
quan
chức
cao cấp
họp
thường xuyên hàng
quý để
phối
hợp
thực
hiện
CEPT
giữa
các
quốc
gia
thành viên
ASEAN.
Ngoài
ra,
để
thực
hiện
AFTA còn
có các
cơ
quan
khác như
uỷ
ban
điều
phối
CEPT
và Ban
Thư ký ASEAN.
Các
điều
khoản
an toàn
cũng
thuộc nội
dung
các
thể chế
điều
chỉnh
Khu
vực
Tự do
Thương mại
AFTA.
Theo
đó,
trong
trường hợp
việc
nhập
khởu
sản
phởm
nào đó
theo
Hiệp
định
CEPT
được
thực
hiện
theo
phương
thức
gãy
sức
ép
hoặc
làm ảnh
hưởng
đến các
khu vực
tạo ra
các
sản phởm tương
tự
hoặc
cạnh
tranh
trực
tiếp
trong
các
quốc
gia
nhập
khởu
thì
các
quốc
gia
này có
thể
đình chỉ
các
điều
khoản
ưu
đãi.
Nếu một
quốc
gia
thành viên
thấy
cởn
thiết
hoặc
tăng cường
các
hạn chế về số lượng
hoặc
các
biện
pháp
thu
hẹp
nhập
khởu
để
ngăn
chặn
các sức
ép làm
giảm
sút nghiêm
trọng
dự
trữ
tiền
tệ
của
họ
thì
nỗ
lực
của các
quốc
gia
này
được
coi
là
đã
tuân
thủ theo
phương
thức
bảo
toàn giá
trị
đã
thoa thuận.
Tuy
nhiên,
khi thực
hiện
các
biện
pháp cấp bách
nói
trên,
các
quốc
gia
này
phải
thông báo
ngay
cho
Hội
đổng
AFTA.
II-ĐẶC
ĐIỂM
THƯƠNG
MẠI CỦA CÁC
NƯỚC
ASEAN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
AFTA
ĐẾN XUẤT
KHẨU
HÀNG
HOA CỦA
VIỆT
NAM
1.
Đặc
điểm
thương mại của các nước
ASEAN
Nhiều
nghiên cứu
đã
chứng
tỏ rằng,
trao
đổi
thương mại
giữa
các
nước
ASEAN
với
phần
còn
lại
của
thế
giới
quan
trọng
hơn
nhiều
so
với
thương mại
giữa
các
nước
trong khối.
Trong
nhiều
năm, thương
mại
trong
nội
bộ của
ASEAN
chỉ
chiếm
15% đến 20%
trong
tổng
khối
lượng thương
mại của
ASEAN mặc dù đã có một số
biện
pháp nhằm thúc
đởy hợp tác
kinh
tẻ'."
7
'
Singapore
là nước đóng
vai
trò chủ đạo
trong
thương mại
nội
bộ
của
ASEAN.
Ngay
từ
những
năm
70,
hơn
80% thương mại
trong
nội
bộ ASEAN
được
thực
hiện
thông qua
Singapore.
Ngoài
ra,
thương mại
trong
khu vực
diễn
ra
không
sôi
động.
Thương mại
song
phương
giữa
các nước
trong
khu
vực, ngoại
trừ
với
Singapore
thì
thương
mại
giữa Malaysia
và
Thái
Lan là cao
nhất
trong
khi
thương mại
giữa
Philippin
và
các nước
còn
lại
là
thấp nhất.
Có
thể
nêu
ra hai
nhận
xét liên
quan
tới
thực tế
này:
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
DCỈiOíi
luân
tót
ttựhỉỀp.
Thứ nhất,
chính sách phân
biệt
đối
xử
giữa
thương mại
nội
bộ ASEAN và
thương mại
giữa
ASEAN
với
các nước ngoài
khối
có
thể
sẽ
phải trả
giá
đắt
vì
lý
do đơn
giản
là
nó
sẽ
dãn
tới
triệt
tiêu thương mại
hơn
là phát
triển
thương
mại.
Tuy
vậy, nhiều
công trình nghiên cứu chỉ ra
rằng
thương
mại sẽ
phát
triển
khi
thương mại
nội
bộ
của
ASEAN
đưỡc
tự
do hoa một
phẩn
hay toàn bộ.
Một khi
chương trình của
AFTA
đưỡc
thực
hiện
cùng
với
quá
trình
giảm
và
tiến
tới
dỡ bỏ các rào
cản thương mại
giữa
ASEAN
với
phần
còn
lại
của
thế
giới
như
là
các cam
kết
của
các
nước
ASEAN
là thành viên của
các
tổ
chức
thương
mại
khác
như APEC và GATTẠVTO
thì
sẽ
không
dẫn
tới
triệt
tiêu
thương mại.
Thứ
hai,
dạng
thức
thương mại
giữa
các
nước thành viên phụ
thuộc
vào
trình
độ
phát
triển
và
có
thể
dự báo
rằng
thương mại
nội
bộ ngành công
nghiệp
sẽ
ngày càng đóng
vai
trò
quan
trọng. Việt
Nam
tham
gia
vào
AFTA
với
trình
độ phát
triển
thấp
sẽ gặp
phải nhiều
khó
khăn
trong việc
phải
đương đầu
với
một
môi
trường
cạnh
tranh
mới.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
nảy
sinh
sẽ
trở
nên dễ dàng
hơn thông qua các liên
doanh
giữa
các công
ty
để
tạo
nên
một
mạng
sản
xuất
hiệu
quả
trong
toàn
khối
ASEAN.
Đầu tư nước ngoài
trực
tiếp
hướng
vào
xuất
khẩu
có
thể
sẽ là một
nguồn
quan
trọng
cho
việc
mở
rộng
và
phát
triển
thương
mại nội
bộ
một ngành sản
xuất
của
Việt
Nam
với
các nước khác
trong
thời
kỳ
hậu
AFTA. Do
đó,
những
lỡi
ích mà
Việt
Nam
thu
đưỡc
do
tham
gia
vào
AFTA
không
thể
bị đánh giá
thấp.
2.
Ảnh
hưởng
của
AFTA
đến
xuất
khẩu
hàng hoa
của
Việt
Nam
Về
lý
thuyết
thì
việc
tham
gia
AFTA có
thể tạo
điều
kiện
thuận
lỡi
cho
việc
sản
xuất
hàng hoa
xuất
khẩu
sang
các
nước thành viên
ASEAN
vì hàng
rào bảo
hộ
của các nước
đó
cũng
đưỡc
cắt
giảm
tương
ứng
khi
Việt
Nam
cắt
giảm
bảo
hộ
của mình. Trước mắt các
doanh
nghiệp
Việt
Nam, ASEAN
sẽ
là
một thị
trường
rộng
lớn
nằm
kề trên
với
số dân
khoảng
500
triệu
của
ASEAN-
10,
có
đòi
hỏi
về
chất
lưỡng
không
quá
cao
và
các
ưu
đãi sẽ đưỡc
mở
ra
cho
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam. Có
thị
trường tiêu
thụ
mới
với
tiềm
năng,
sức
Qlạtiyễn 76uWiiạ Quyên
-
cề10jC39&
15
DClitìú
luân
tót
nghiệp.
mua
lớn
là
một
yếu
tố
giúp
Việt
Nam
huy
động các
tiềm
lực
về
lao
động và
tài
nguyên
của
mình vào
sản
xuất
để phát
triển
xuất
khẩu.
Ảnh
hưởng
của
việc
thực
hiện
AFTA
trên
thực tế với tốc
độ
tăng
và
tỷ
trọng
của kim ngạch
buôn bán
giữa
Việt
Nam
với
ASEAN
và
đối với
sản
xuất
hàng
xuất
khẩu
đưậc phân
tích
dưới
góc
độ
sau
:
2.1.Cán
cân
thương
mại
Việc
xoa
bỏ các hàng rào thương
mại của
AFTA
góp
phần
thúc đẩy phát
triển
thương
mại
Việt
Nam -
ASEAN.
Trong
giai
đoạn
1995-2002, kim ngạch
xuất
nhập khẩu
giữa
Việt
Nam
và
ASEAN
chiếm
tỉ trọng
đáng kể
trong
tổng
kim
ngạch
xuất
nhập khẩu
của
Việt
Nam
(Bảng
1).
Như
vậy,
việc
gia
nhập
AFTA có
một
ý
nghĩa quan
trọng
đối với hoạt
động
xuất
nhập khẩu của
Việt
Nam
với
các nước
ASEAN,
nhất
là
việc
mở
rộng
thị
trường
xuất
khẩu cho
các
sản
phẩm
của
Việt
Nam.
Bảng
Ì
:
Tỷ
trọng
kim ngạch
xuất
nhập khẩu của
Việt
nam
-
ASEAN
so
với
tổng
kim ngạch
xuất
khẩu của
Việt
nam
giai
đoạn
1995-2002
Đơn
vị:
Tỷ
USD
Năm
Tổng
kim ngạch
XNK
Việt
Nam-
ASEAN
Tăng
trưởng
Tổng
kim ngạch
XNK
của
Việt
Nam
Tỷ
trọng
1995
3,490
-
13,604
25,65%
1996
5,200
49% 18,399 28,26%
1997
5,077
-2,37%
20,777
24,43%
1998
6,122
20,58%
20,859
29,35%
1999
5,751 -6,06% 23,283
24,7%
2000
7,131 24%
30,119 23,67%
2001
6,770
-4,96%
31,189 21,73%
2002
7,420 9,6%
35,181
21,09%
(Nguổn:Bộ
Thương mại)
Qlạuyễn 76ư<fnạ Q/tụin
-
c4l()3C39ẽ
16
~Kltóá
luận
tót
nghiệp.
Bảng
2
:
Kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu
Việt
nam- ASEAN
giai
đoạn
1995-2002
Đan
vị:
Tỷ USD
Năm
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Cân đôi
Tổng kim
ngạch
1995
1,112
2,378
-1,266
3,490
1996
2,252 2,948
-696
5,200
1997 1,911 3,166
-1,255
5,077
1998
2,372
3,749
-1,377
6,122
1999
2,463
3,288
-0,825
5,751
2000
2,612 4,519
-1,907
7,131
2001
2,551
4,226
-1,675
6,777
2002
2,475 4,765
-2,290
7,240
(Nguồn
:
Bộ
Thương
mại)
Sau
một
thời
gian
thúc
hiện
CEPT
(AFTA),
quan
hệ
thương mại
giữa
Việt
Nam
với
các nước
ASEAN
đã có
những
bước tăng trưởng
vượt
bậc.
Qua
bảng
Ì
và
2
ta
thấy kim
ngạch
buôn bán
hai chiều giữa
Việt
Nam
với
các nước
ASEAN
tâng
2
lần:
nếu như
năm
1995
tổng
kim
ngạch
nhập
khẩu
giữa
Việt
Nam
với
các nước
ASEAN
mới chỉ đạt
3,5
tỷ
USD
thì
đến
năm
2002
là
7,2
tỷ
USD.
(2I>
Nhưng về mủt tương
đối, tỷ trọng
kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu
sang
ASEAN
so
với tổng
kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
ổn định
trong
giai
đoạn
1996-2000,
dao động
từ
23% đến 25% và có
xu
hướng
giảm
dần
từ
năm
2001.
Nguyên nhân
của hiện
tượng này có
thể
phân tích trên
những
nét chủ
yếu
sau:
-Giai
đoạn
1996-2000
là
giai
đoạn
Việt
Nam
bắt
đầu
triển
khai thực hiện
AFTA.Thực
chất
mấy
năm
qua,
chúng
ta
mới
bắt
đầu đưa vào
cắt
giảm
những
mủt
hàng
mà
ta
có
lợi
thế xuất
khẩu
hoủc
có
nhu cầu
nhập
mà
trong
nước chưa
có
khả
năng
sản xuất
được.Những mủt hàng này
bản
thán đã có
mức
thuế suất
nhập
khẩu
ưu
đãi hiện
hành
(gọi tắt
là
mức
thuế
spậ'l
MFN|
diếp,
chủ yếu
dưới
20%
và nằm
trong trong dải
0-5% là
chính.
Do
(MPViirT
Vht.v
hiện cắt
giám
•NGOAI
ŨV.;0N6
Qlạuụễn
Tỗutittợ
Q/tụÌM
-
c4.10Jí3ỌŨ
17
DChoá luân
tất
nụhỉêặi
thuế suất theo
AFTA
hầu
như chưa có
nhiều biến
động so
với thuế suất thuế
nhập
khẩu
hiện
hành do
đó,
chưa gây
ra
những
tác
động
lớn đến
các
hoạt
động
sản xuất
và
xuất
nhập
khẩu
của
doanh
nghiệp.
Hơn
nữa,
Việt
Nam
có một số
lợi
thế
cạnh
tranh
về
tự
nhiên,
về
lao
động
rẻ,
về tính
chịu
khó
cần
cù
của
ngưẹi
lao
động
trong
sản
xuất
để
xuất
khẩu
các mặt hàng nông
sản,
nguyên
liệu
thô và một
số sản
phẩm công
nghiệp
nhẹ
như may mặc, dày
da .thì
da số
các nước
ASEAN
cũng
có
lợi
thế này.
Mặt
khác,
thị
trưẹng chính
để
xuất
khẩu
những
mặt hàng này
với
Việt
Nam
cũng
là
thị
trưẹng
chính
của
các nước
ASEAN
khác.
Việc xuất
khẩu
sang
nhau
có tính
chất
phục
vụ
tái chế biến
để
đưa
sang
thị
trưẹng
thứ ba.
Trong
khi đó, nhiều
mặt hàng có giá
trị
kim
ngạch
cao trong giao
dịch
hai chiểu
vẫn chưa được đưa vào
cắt
giảm
thuế,
đặc
biệt
các
biện
pháp bảo hộ
phi thuế
quan
về định lượng vẫn còn được duy
trì.
Do
đó, nhiều
mặt hàng
xuất
khẩu
của
ta
vẫn
chưa được hưởng
thuế
CEPT
của
các
nước
ASEAN,
cũng
như
nhiều
mặt hàng
nhập
khẩu
của
ASEAN
cũng
chưa
được
hưởng
ưu
đãi
thuế
CEPT
của
Việt
Nam. Vì
thế,
tác động
khi thực hiện
cắt
giảm
thuế
quan
theo
CEPT/AFTA
đến các
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
của
các
doanh
nghiệp
là
không đáng
kể trong
giai
đoạn
1996-2000.
Cũng
trong
giai
đoạn
1996-2000,
với
tình hình
và
thị
trưẹng
xuất
nhập
khẩu
như
trên,
hàng
hoa của
các nước
ASEAN
vào nước
ta
chưa
nhiều.
Xét về
tương
quan
giữa
lợi
thế so
sánh
của
các
sản
phẩm
của
các nước
ASEAN
với
nước
ta,
thì
nhũng
sản
phẩm
mà
họ có
lợi
hơn
ta, lại
đều
là
những
sản phẩm
thuộc
danh
mục
các mặt hàng
mà
ta
đang
sử
dụng
các
biện
pháp
phi thuế
quan
(cả
về
lượng
và các
biện
pháp
kĩ
thuật)
để
khống
chế.
Chẳng
hạn:
phân
urê của
Indonesia,
xe máy
của Thái
lan,
ôtô
của
Malaysia,
hay đồ
điện tử
của
Singapore Vì
thế,
tác động của các sản phẩm
từ
các nước
ASEAN
vào
thị
trưẹng
trong
nước
của ta trong
giai
đoạn này chưa có ảnh hưởng
lớn
đến tình
hình và
khả
năng
cạnh
tranh của
các
doanh
nghiệp
trong
nước.
-Trong
giai
đoạn
2001
đến
nay:
Tỷ
trọng kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
với
các nước
ASEAN
trong
tổng
kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu
giảm.
Một trong
những
nguyên nhân
của sự thay đổi
này
là
do
Việt
Nam
đã ký được
Qlạnụỉn 76ươnạ Quyên
-
(A103C39Ẽ
18
DỈItoẵ
luân
tôi
tiạ/tỉèp.
những
thoa thuận
quan
trọng
với
các
đối
tác mới mà
Việt
Nam có
thế
mạnh
nổi
bật.
Điển
hình
là
mặt hàng
dệt
may
(Mỹ, EU),
thúy sản
(Mỹ, Nhật
Bản ,
Australia),
da dày
(Bắc
Mỹ,
EU).
Năm
2002,
sự tăng trưởng
đột
biển
về kim
ngạch
cợa các mặt hàng này(đặc
biệt
là hàng hoa
xuất
nhập
khẩu sang
Mỹ
được
coi
là
thành công
lớn nhất
cợa
Việt
Nam.
2.2.CƠ
cấu
hàng xuất khẩu
Với
cơ cấu
xuất
khẩu
như
hiện
nay
lợi
ích mà
Việt
Nam
thu
được từ
AFTA
không đáng
kể.
Sản phẩm
xuất
sang
thị
trường
ASEAN
gồm: dầu thô,
gạo, đậu,
cao
su,
ngô,
hạt
điều,
rau
quả
tươi,
thợy sản,
thép,
gỗ, than
thiếc,
da
thuộc,
hàng
thợ
công. Chỉ có một số
rất
ít
trong
số các mặt hàng này
hiện
đang được
hưởng
thuế suất
ưu
đãi
theo hiệp
định
CEPT.
Trong
khi
dầu thô và hàng nông sản chưa
chế
biến
là
nguồn
xuất
khẩu
chợ lực
cợa
Việt
Nam
lại
nằm ngoài
danh
mục
cắt
giảm.
Có
thể
dễ dàng
nhận
thấy
cơ cấu
xuất
khẩu
cợa
Việt
Nam
với nhiều
nước
ASEAN
không khác
nhiều lắm.
Indonesia,
Thái
Lan,
Philippin
là
những
nước
xuất
khẩu
nông
sản
chưa
chế
biến rất
mạnh. Nếu
Việt
Nam có
xuất
các
sản
phẩm nông
sản sang
các nước
này
chỉ
mang tính
chất
bổ
sung chứ
chưa
phải
tính
cạnh
tranh.
Với
cơ
cấu
xuất
khẩu
như
vậy, Việt
Nam
hầu như
không
thu
được
nhiều
lợi
ích
từ
AFTA.
Nếu như cơ
cấu
xuất
khẩu chuyển dịch
theo
hướng
tăng
mạnh
những
sản
phẩm công
nghiệp
chế
biến
thì
sự
cắt
giảm
đáng kể về
thuế
có
thể trở
thành
một
nhân
tố
kích thích
đối với
các
doanh
nghiệp
sản
xuất
hàng
xuất
khẩu.
Tuy
nhiên sức
cạnh
tranh
cợa hàng hoa
Việt
Nam so
với
hàng hoa các nước
ASEAN
trên
thị
trường nước này còn
rất
yếu
ớt,
bởi
vì
những
hàng hoa công
nghiệp
mà
Việt
Nam đang và
sẽ sản
xuất
cũng
tương
tự
như các hàng hoa cợa
các nước
ASEAN.
Với
trình độ công
nghiệp thua
kém hơn
thì
Việt
Nam chỉ
có
thể
cạnh
tranh
trên
thị
trường
ASEAN
dựa
trên
tính độc đáo
cợa chợng
loại
và mẫu mã hàng
hoa.
Vì
vậy,
việc
cắt giảm
thuế
nhập
khẩu
cợa các nước
ASEAN
sẽ
không làm tăng rõ
rệt
sức cạnh
tranh
cợa
hàng hoa
Việt
Nam trên
các
thị
trường
này.
QO/III/ỈII
76ươtiạ Quyên
-
cé10Jí3Ọ&
19
Díhoá luận
tốt
nạlùĨỊL
2.3.
Thị
trường xuất
khẩu
Y4t
yể han hàn
0
2/3
doanh
số buôn bán của
Việt
Nam
với
ASEAN
là
thực hiện
với
Singapore.*
7
'
Hàng hoa của
Việt
Nam
xuất
khẩu
qua
Singapore
và được tái
xuất
tiếp
tục sang
các nước
khác.
Singapore
là
cảng
trung
chuyến
chứ
không
phải
là
điểm
tiêu dùng. Vốn dĩ đã từ lâu là một
cảng
tự
do,
hệ
thống
thuế xuất
nhập
của
Singapore
98%
(57.000
mặt hàng) của
Singapore
hiện
đã nạm
trong
CEPT
với thuế xuất
bình quân 0
tức
là
miễn
thuế
hoàn toàn.
Với
các nước khác như
Indonesia,
Thái
Lan,
Philippin,
hàng
xuất
khẩu
của
Việt
Nam chủ yếu là nông sản chưa
chế
biến.
Những nước
này, cũng
xuất
khẩu
hàng nông sản
rất
mạnh
và
nhiều
mặt hàng nông sản chưa chế
biến
đều
được
các nưóc này xếp
trong
danh
mục hàng nông sản
nhạy
cảm để chưa
phải
thực hiện
cắt giảm
thuế.
Có
thể nhận
xét
rạng
CEPT
chưa làm
thay
đổi
cục
diện
của
xuất
khẩu
Việt
Nam
sang
ASEAN.
Chỉ
khi
mà
Việt
Nam
chuyển dịch
mạnh
cơ cấu sản
xuất
và
xuất
khẩu
theo
hướng sản
xuất
ra
những
hàng hoa nạm
trong
danh
mục
cắt giảm
thuế
của
CEPT,
thì các
doanh
nghiệp
Việt
Nam mới có thêm
được
thuận
lợi
về yếu
tố
giá cả
khi
muốn
xuất
khẩu sang
ASEAN.
Đối
với xuất
khẩu sang
các
thị
trường ngoài
ASEAN
thì
lợi
ích mà
AFTA
đem
lại
cho sản
xuất
của
Việt
Nam là
giảm
giá thành sản
xuất,
nhờ mua được
các
vật
tư đầu vào
với
giá hạ hơn
từ
các nước
ASEAN.
Tuy nhiên
cũng
cần
thấy
các nước
ASEAN
khác
cũng
xuất
khẩu sang thị
trường
thế
giới
những
hàng hoa tương
tự
Việt
Nam, và
với
AFTA
họ
cũng
hưởng
những
lợi
ích tương
tự.
Do vậy
trong
tương
lai,
lợi
ích mà
AFTA
mang
lại
cho
xuất
khẩu
Việt
Nam
là ở chỗ
tạo
ra sức
cạnh
tranh
cao hơn trên
thị
trường
quốc tế
nhiều
hơn là
trong
thị
trường khu
vực.
Điều
này
cũng
phù hợp
với
nhận
định của chúng
ta
rạng
Việt
Nam
tham gia
vào
ASEAN
không có
nghĩa
là
chuyển
hướng thị
trường
của
Việt
Nam chủ yếu vào khu vực mà hơn thế nữa, thông qua
ASEAN/AFTA
sẽ giúp
Việt
Nam mở mang các
thị
trường khác.
Như
vậy,
cục
diện xuất
khẩu
của
Việt
Nam có
chuyển
hay không tuy
thuộc
ở ý chí vươn lên
của
chính
người
Việt
Nam hơn là
tuy
thuộc
ờ
việc
tham
QíạiiỊ/ĩn
7Ểuónạ Quụèii
-
dl103(39&
20