Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Chuyển thể cốt truyện và nhân vật từ chùa đàn đến mê thảo thời vang bóng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN HỒNG THẮM

CHUYỂN THỂ CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TỪ
CHÙA ĐÀN ĐẾN MÊ THẢO THỜI VANG BĨNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên, 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN HỒNG THẮM

CHUYỂN THỂ CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TỪ
CHÙA ĐÀN ĐẾN MÊ THẢO THỜI VANG BÓNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. VŨ THỊ HẠNH

Thái Nguyên, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Chuyển thể cốt truyện và nhân vật từ
Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng” là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi, những phân tích và kết quả nghiên cứu đề tài đưa ra đều dựa trên thực tế
tìm hiểu, nghiên cứu và chưa từng được ai công bố.
Nếu những thơng tin tơi cung cấp khơng chính xác, tơi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm trước những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Tác giả

Nguyễn Hồng Thắm


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến cô giáo -TS.Vũ Thị
Hạnh, người không chỉ hướng dẫn, góp ý trao đổi về phương pháp luận, nội
dung nghiên cứu và các hướng dẫn khoa học mà cịn động viên, khích lệ đảm
bảo cho luận văn hồn thành có chất lượng.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy giáo, cơ giáo trong
khoa Báo chí truyền thông và Văn học, bộ phận Sau đại học - Phòng Đào tạo,
Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế trường Đại học Khoa học Thái Nguyên,
các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã
tạo mọi
điều kiện cho tôi trong việc học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn bè
đồng nghiệp đã ln động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Học viên


Nguyễn Hồng Thắm

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1


1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 9
4. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn.............................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 10
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 11
CHƯƠNG 1. LOẠI THỂ TƯ SƯ VÀ VẤN ĐÊ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC
PHẨM TƯ SƯ SANG ĐIỆN ẢNH .............................................................. 12
1.1. Khái quát chung vê loại thể tự sự ......................................................... 12
1.1.1. Tự sự và những đặc trưng cơ bản của tự sự.......................................... 12
1.1.2. Truyện ngắn - một thể loại tự sự cỡ nhỏ............................................... 17
1.2. Vấn đê chuyển thể và chuyển thể tác phẩm tự sự sang điện ảnh ...... 18
1.2.1. Chuyển thể và những khái niệm có liên quan....................................... 18
1.2.2. Sự phổ biến của chuyển thể .................................................................. 21
1.2.3. Bản chất kép của chuyển thể................................................................. 23
1.2.4. Các hình thức chuyển thể...................................................................... 24
1.2.5. Tác phẩm tự sự - nguồn chất liệu chuyển thể ....................................... 26
1.3. Chuyển thể từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng - kha năng, sức
hấp dẫn và nhưng thách thức ...................................................................... 27
1.3.1. Nguyễn Tuân với tác phẩm Chùa Đàn ................................................. 27
1.3.2. Sức hấp dẫn khi chuyển thể Chùa Đàn................................................. 29
1.3.3. Việt Linh và những thách thức khi chuyển thể Chùa Đàn ................... 31

CHƯƠNG 2. CHUYỂN THỂ CỐT TRUYỆN TỪ CHÙA ĐÀN ĐẾN MÊ
THẢO THỜI VANG BÓNG .......................................................................... 36
2.1. Cốt truyện trong tác phẩm văn học và điện ảnh................................. 36
2.2. Cốt truyện của Chùa Đàn ...................................................................... 38
2.2.1. Cách mở đầu và kết thúc Chùa Đàn ..................................................... 38


2.2.2. Cách tổ chức, sắp xếp sự kiện trong Chùa Đàn.................................... 40
2.3. Cốt truyện phim Mê Thảo thời vang bóng ........................................... 42
2.3.1. Cách mở đầu và kết thúc phim Mê Thảo thời vang bóng ..................... 42
2.3.2. Cách tổ chức, sắp xếp sự kiện phim Mê Thảo thời vang bóng ............. 45
2.4. Chuyển thể cốt truyện từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng ... 48
2.4.1. Kế thừa cốt truyện và các chi tiết nghệ thuật........................................ 48
2.4.2. Sáng tạo cốt truyện và các chi tiết nghệ thuật....................................... 53
2.4.3. Sáng tạo cách mở đầu và kết thúc......................................................... 57
CHƯƠNG 3. CHUYỂN THỂ NHÂN VẬT TỪ CHÙA ĐÀN ĐẾN MÊ
THẢO THỜI VANG BÓNG .......................................................................... 60
3.1. Nhân vật trong tác phẩm văn học và phim truyện điện ảnh ............. 60
3.2. Nhân vật trong Chùa Đàn ..................................................................... 61
3.2.1. Hệ thống nhân vật và mối quan hệ giữa các nhân vật. ......................... 61
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 63
3.3. Nhân vật trong Mê Thảo thời vang bóng.............................................. 66
3.3.1. Hệ thống nhân vật và mối quan hệ giữa các nhân vật .......................... 66
3.3.2. Nhân vật được xây dựng bằng ngôn ngữ điện ảnh ............................... 68
3.4. Chuyển thể nhân vật từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng...... 72
3.4.1. Kế thừa hệ thống nhân vật .................................................................... 72
3.4.2. Sáng tạo hệ thống nhân vật ................................................................... 73
3.4.3. Thay đổi tình tiết và mối quan hệ giữa các nhân vật ............................ 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đê tài
Văn học và điện ảnh là hai loại hình quan trọng trong “gia đình nghệ
thuật”. Chúng mang tính nghệ thuật cao, đều chịu ảnh hưởng của các loại hình
khác và giữa chúng có sự thâm nhập, và ảnh hưởng lẫn nhau. Chính vì thế mà
nhà văn Tơ Hồi cho rằng: “Văn học và điện ảnh - cuộc nhân duyên này đã
nằm ngay từ trong bản chất” [22, tr.23]. Ngay từ khi điện ảnh ra đời (cuối thế
kỷ 19), văn chương và điện ảnh luôn song hành cùng nhau trong tòa lâu đài
nghệ thuật. Hai ngành nghệ thuật ấy đi song song bên nhau, tự kiến tạo cho
mình những đặc trưng riêng và khơng ít lần văn chương đã đến với điện ảnh
để thăng hoa và tỏa sáng.
Kể từ khi nghệ thuật điện ảnh ra đời, việc chuyển thể các tác phẩm văn
học sang điện ảnh ngày càng được chú trọng trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Nhiều bộ phim lấy cảm hứng từ tác phẩm văn học đã trở thành những
tác phẩm
điện ảnh kinh điển như Đồi gió hú; Tiếng chim hót trong bụi mận gai; Tam
quốc diễn nghĩa; Chiến tranh và hòa bình…và đặc biệt cũng có khơng ít
những tác phẩm điện ảnh chuyển thể thành công dành được nhiều giải thưởng
lớn như Cuốn theo chiều gió (10 giải Oscar).
Ơ Việt Nam, việc chuyển thể tác phẩm văn học sang phim truyện điện
ảnh xuất hiện khá sớm vào thế kỷ XX đánh dấu bằng bộ phim Kim Vân Kiều
do Công ty Chiếu bóng Đơng Dương thực hiện năm 1923 và cơng chiếu vào
năm 1924 dựa trên tác phẩm bất hủ Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Từ đó trong suốt lịch sử phát triển của mình, điện ảnh Việt Nam đã tiếp tục
ghi
được những dấu mốc ấn tượng với những bộ phim chuyển thể khá thành công

tạo nên bước chuyển biến quan trọng cho điện ảnh nước nhà như: Chi Dậu;
Làng Vu Đại ngày ấy; Vơ chồng APhủ… Đặc biệt từ sau năm 1986, điện ảnh


2

chuyển thể phát triển ngày càng mạnh me đánh dấu là các bộ phim: Tôi thấy
hoa vàng trên co xanh của đạo diễn Victor Vũ được chuyển thể từ tiểu thuyết
cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh; Cô gái đến tư hôm qua của đạo diễn
Phan Gia Nhật Linh được chuyển thể từ truyện dài cùng tên của nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh; Cánh đồng bất tận của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình
dựa trên tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và đặc biệt là bộ
phim Mê Thảo thời vang bóng của đạo diễn Việt Linh được chuyển thể từ
truyện ngắn Chùa Đàn của Nguyễn Tuân.
Chùa Đàn là truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân. Với một cốt truyện
hấp dẫn mang màu sắc ma mị kết hợp với lối kể chuyện cuốn hút đầy bất ngờ,
với giọng tả và lối dẫn chuyện mông lung đã tạo cho người đọc nhiều cung
bậc cảm xúc khi tiếp cận tác phẩm: vừa thích thú vừa sợ hãi, vừa gợi sự tị mị
và khao khát khám phá. Đó cũng là một phương diện mang lại sự thành công
của tác phẩm Chùa Đàn. Truyện ngắn Chùa Đàn của Nguyễn Tuân một lần
nữa
được tái hiện chân thực qua bộ phim Mê Thảo thời vang bóng của đạo diễn
Việt
Linh.
Bộ phim Mê Thảo thời vang bóng đã giành được nhiều giải thưởng
quan trọng: Giải nhì của Qũy cổ động phát hành quốc tế (Prmotion Internationale des Filmsdu Sud), giải Bông hồng vàng - tại Liên hoan phim
Bergamo năm
2003, giải khuyến khích Hội Điện ảnh Việt Nam năm 2002, và giải nữ diễn
viên phụ xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 14 năm 2004. Chính
những giải thưởng này đã mang lại cho bộ phim những tiếng vang, ghi nhận

thành công của Mê Thảo thời vang bóng với tư cách là bộ phim chuyển thể
hấp dẫn của đạo diễn Việt Linh.
Dù đã được ghi nhận ở cả lĩnh vực văn học cũng như lĩnh vực điện ảnh
nhưng tính đến thời điểm hiện tại chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun


3

biệt về vấn đề chuyển thể Chùa Đàn sang tác phẩm điện ảnh Mê Thảo thời
vang


4

bóng. Đó cũng chính là gợi mở cho chúng tơi lựa chọn vấn đề Chuyển thể cốt
truyện và nhân vật từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng làm đề tài
nghiên cứu của mình.
Luận văn xác lập một cái nhìn khái quát về vấn đề chuyển thể tác phẩm
văn học sang tác phẩm điện ảnh và nét riêng của chuyển thể cốt truyện và
nhân vật từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng. Chúng tơi hy vọng luận
văn se là một đóng góp nhỏ trong nghiên cứu khoa học, đồng thời có thể làm
cơ sở để gợi ra những hướng nghiên cứu mới cho các cơng trình sau. Chúng
tơi mong rằng, cơng trình nghiên cứu này se giúp độc giả hiểu hơn về tác
phẩm văn học khi được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh đồng thời thấy
được cái hay, sức hấp dẫn và sự thành công của Chùa Đàn khi được chuyển
thể thành phim Mê Thảo thời vang bóng.
2. Lịch sử vấn đê nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
Văn học và điện ảnh là hai ngành nghệ thuật có mối quan hệ gắn bó mật
thiết và tác động qua lại lẫn nhau.Văn học là nguồn chất liệu trực tiếp phong

phú và vô cùng quan trọng của điện ảnh, ngược lại với tính ưu việt vốn có của
mình (tổng hợp của các ngành nghệ thuật: âm nhạc, hội họa và văn học) điện
ảnh đã biến những con chữ trong trang văn trở thành những thực thể sinh động
có hồn.
Khi phân tích mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, các nhà lí luận đều
cho rằng bên cạnh quá trình điện ảnh hấp thu và cải tiến những kinh nghiệm
nghệ thuật của văn học, một hiện tượng không kém phần quan trọng là tác
động
ngược lại rất to lớn của điện ảnh đối với văn học.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, những năm gần đây đã có những
cuốn sách, những cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai loại hình
nghệ


5

thuật này. Cuốn sách đầu tiên đề cập đến mối quan hệ này là cuốn Văn học
với
điện ảnh (Mai Hồng dịch, NXB Văn học, 1961) là cuốn sách tập hợp những
bài giảng của M.Rome, I. Case Fistcher, E. Gaborilovist đã đưa ra mấy đặc
trưng quan trọng trong việc viết truyện phim, đặc điểm thành phần văn xuôi
trong truyện phim… nhằm “nâng cao tác dụng của văn học trong điện ảnh, để
sáng tạo những truyện phim và những bộ phim kiểu mới thể hiện đời sống vô
cùng phong phú một cách chân thực” [23, tr.125]. Cuốn sách mới chỉ dừng lại
ở mặt gợi mở cho những nhà làm phim khi chuyển thể từ tác phẩm văn học
chứ chưa chỉ ra một cách có hệ thống và chuyên sâu mối quan hệ giữa văn
học với điện ảnh.
Mới đây nhất là cuốn Dẫn luận và nghiên cứu “Điện ảnh và văn học”
(Timothy Corrigan). Trên cơ sở tái hiện một loạt giai đoạn lịch sử, các phong
tục văn hố và phương pháp phê bình, người viết đã chỉ ra khá nhiều điểm

tương đồng cũng như khác biệt giữa văn học và điện ảnh. Cuốn sách gồm ba
phần. Phần một phác hoạ những khác biệt và động lực lịch sử hình thành nên
chủ đề, nhấn mạnh những đặc thù và di sản theo sau cuộc tranh luận trong suốt
những năm 1990. Phần hai, tác giả trình bày về những khái niệm cơ bản mà
văn học và điện ảnh thường đề cập đến, cái thường tạo nên đặc thù của mỗi
chuyên ngành. Phần ba là trọng tâm cuốn sách, đem đến những tuyên bố chủ
đạo về mối quan hệ giữa điện ảnh và văn chương đã xuất hiện. Nhờ vậy mà
Timothy Corrigan có được cái nhìn tổng quan nhất về mối quan hệ của hai
loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, xét về góc độ cốt truyện và nhân vật có ý
nghĩa như thế nào trong việc chuyển thể dường như vẫn chưa được tác giả của
cuốn sách chú trọng.
Hai cuốn sách trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu lịch sử phát triển,
đặc trưng, các yếu tố phong cách của hai loại hình nghệ thuật văn học và điện


6

ảnh còn vấn đề chuyển thể và phương thức chuyển thể từ tác phẩm văn học
sang phim truyện điện ảnh chưa được nghiên cứu chuyên sâu.
Tại Việt Nam, đã xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu có liên quan
đến vấn đề chuyển thể văn học và điện ảnh như: Về cái gọi là tính văn học
trong
điện ảnh (Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 6 -1984, Lê Châu); Tư văn học
đến điện ảnh (Tạp chí Văn hố Nghệ thuật, số 6 -1999, Phạm Vũ Dũng); Bài
viết “Văn học trong điện ảnh và điện ảnh với văn học” (Phim Việt Nam
thưởng thức - bình luận, NXB Văn hố văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Trần
Trọng Đăng Đàn); Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hố
nghệ thuật, số
10-2002, Minh Trí).
Mặc dù các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến mối quan hệ của

hai ngành nghệ thuật văn học và điện ảnh nhưng dường như chỉ có tính chất
giới thiệu khái qt về mối quan hệ giữa hai ngành nghệ thuật này, trong đó
chủ yếu nhấn mạnh vai trò, ảnh hưởng của văn học với điện ảnh qua việc
chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh chứ chưa đi vào những
phân tích cụ thể ảnh hưởng ở điểm nào, tác động như thế nào đến điện ảnh và
có tác dụng ra sao.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đê nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học
sang tác phẩm điện ảnh điện ảnh từ phương diện cốt truyện và nhân vật
Ngay từ khi điện ảnh ra đời đã xuất hiện một trào lưu trong giới làm
phim đó là việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh, và thực
tế đã có rất nhiều bộ phim chuyển thể “đắt khách”. Tuy nhiên việc nghiên cứu
một cách bài bản có hệ thống trên phương diện lý thuyết của vấn đề chuyển
thể này thì vấn cịn là những điều mới mẻ đối với các nhà lí luận phê bình văn
học cũng như điện ảnh Việt Nam.


7

Cuốn Bàn về cải biên tiểu thuyết thành phim (Hạ Diễn - Mao Thuẫn Dương Thiên Hỉ, NXB Văn hoá Nghệ thuật, 1964) là cuốn sách nói về vấn đề
cải biên khá sớm giữa văn học - điện ảnh.Tuy nhiên, người viết ở đây lại đứng
trên góc nhìn khách quan để tổng hợp các ý kiến khác nhau xung quanh việc
đánh giá giá trị của việc cải biên tác phẩm chỉ trong vài trang ít ỏi.
Với sự thành cơng của một số phim chuyển thể, tại Việt Nam đã có một
số chuyên luận nghiên cứu về vấn đề này. Cụ thể như:
Nhìn nhận chuyển thể như một quá trình với sự tham gia của nhiều yếu
tố, cơng trình Tư tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh của Phan Bích
Thủy (NXB Mĩ thuật, 2014) tiến hành khảo sát hoạt động chuyển thể qua ba
cấp độ: đồng nhất, tương đồng và khác biệt, nhằm đánh giá những ảnh hưởng,
tác động của lý luận văn học và tác phẩm văn học trong việc xây dựng kịch
bản văn học và phim truyện chuyển thể. Đóng góp quan trọng của cơng trình

này là hệ thống hóa được cơ chế và quy trình thực hiện chuyển thể từ văn học
sang phim truyện
điện ảnh, đồng thời giới thiệu khái quát những thành tựu tiêu biểu của phim
truyện Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Cuốn sách quan trọng phải kể đến là cuốn Chuyển thể văn học - điện
ảnh (nghiên cứu liên văn bản) của Lê Thị Dương (2016), NXB Khoa học Xã
hôi. Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến quan niệm về chuyển thể, bản
chất của chuyển thể và các hình thức của chuyển thể, nghiên cứu liên văn bản
giữa tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh.
Bên cạnh những cuốn sách trên, thời gian qua đã xuất hiện các cơng
trình nghiên cứu về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang phim truyện
điện ảnh.
Luận văn thạc sỹ Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm
điện ảnh (tư góc nhìn tự sự) của Đỗ Thị Ngọc Diệp - ĐH Khoa học Xã hội và


8

Nhân văn Hà Nội năm 2010. Trên cơ sở phân tích một số bộ phim chuyển thể
như Mê thảo thời vang bóng, Thời xa vắng, Mùa len trâu,Chuyện của Pao, tác
giả đã cung cấp một cái nhìn tồn diện và đầy đủ về vấn đề chuyển thể và có
những nhận xét và phát hiện khá tinh tế về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh.
Đặc biệt là Luận văn thạc sỹ Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học
sang điện ảnh nhìn tư phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi đáy
giếng, Cánh đồng bất tận) của Trần Thị Dung Trường ĐH Khoa học Xã hội
và Nhân văn Hà Nội năm 2016. Trên cơ sở phân tích, so sánh đối chiếu về
phương diện cốt truyện và nhân vật trong hai tác phẩm Trăng nơi đáy giếng
và Cánh đồng bất tận, người viết đã cung cấp một cái nhìn cơ bản nhất về vấn
đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh trên phương diện cốt

truyện và nhân vật.
Bên cạnh đó, báo chí cũng có một số bài viết về vấn đề này như trên
báo Người lao động online có bài Văn học - điện ảnh: Hiệu ứng cộng sinh. Bài
viết nói về ảnh hưởng của mối quan hệ này đồng thời chỉ ra những áp lực của
nhà làm phim trước áp lực từ phía khán giả khi chuyển thể một bộ phim từ tác
phẩm văn học nổi tiếng.
Báo An ninh thế giới online có bài Chuyển thể tác phẩm văn học thành
tác phẩm điện ảnh: Khó để so sánh.Trong bài viết này, tác giả Mỹ Trân đã
tổng hợp về tình hình của các bộ phim chuyển thể gần đây dưới sự đánh giá đa
chiều của người xem và chính tác giả của những tác phẩm văn học. Dù nhìn
nhận thế nào thì phim cũng là một tác phẩm điện ảnh riêng biệt chứ không
phải là bản sao của văn học.
Mỗi cơng trình nghiên cứu hay bài báo của các tác giả đi trước dù ở góc
độ nào cũng là những tư liệu q báu để chúng tơi có cách nhìn đầy đủ và toàn


9

diện, sâu sắc hơn về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh.
2.3. Lịch sử nghiên cứu vấn đê chuyển thể tác phẩm văn học Chùa Đàn
sang phim Mê Thảo thời vang bóng
Chùa Đàn là truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân, đạo diễn Việt Linh
đã dựng lại tác phẩm này thành bộ phim Mê Thảo thời vang bóng. Nghiên cứu
mối quan hệ giữa Chùa Đàn và Mê Thảo thời vang bóng, Nguyễn Nam có bài
viết: “Tư Chùa Đàn đến Mê Thảo, vấn đề liên văn bản trong văn học và điện
ảnh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12/2006. Trong cơng trình này, thơng
qua khảo sát liên văn bản, tác giả đã chỉ ra hệ thống ký hiệu trong Chùa Đàn
đã được chọn lọc và thâu nhập vào hệ thống ký hiệu mới của phim Mê Thảo
thời vang bóng.

Cơng trình Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh (tư góc nhìn tự sự) của Đỗ Thị Ngọc Điệp - ĐH Khoa học Xã hội và Nhân
văn Hà Nội năm 2010. Với cơng trình này, Đỗ Thị Ngọc Điệp đã phân tích và
chỉ ra mối quan hệ giữa Chùa Đàn và Mê Thảo thời vang bóng ở góc nhìn tự
sự.
Hồng Hải Thủy có bài viết: Đọc Chùa Đàn xem Mê Thảo ở trang web
hoanghaithuy.wordpress.com /2007/10/25.Trên cơ sở phân tích và chỉ ra điểm
tương đồng và khác biệt giữa Mê Thảo thời vang bóng so với Chùa Đàn đồng
thời tác giả đã lý giải sự khác biệt đó.
Kế thừa thành tựu của những cơng trình nghiên cứu trước, với mong
muốn có một cái nhìn bổ sung thêm về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học
sang tác phẩm điện ảnh, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: Chuyển thể cốt
truyện và nhân vật từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng.


10

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề chuyển thể cốt truyện và
nhân vật.
Phạm vi nghiên cứu: tác phẩm Chùa Đàn của Nguyễn Tuân và bộ phim
Mê Thảo thời vang bóng của đạo diễn Việt Linh
4. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn Chuyển thể cốt truyện và nhân vật tư Chùa Đàn đến Mê
Thảo thời vang bóng chúng tơi đặt ra những mục đích sau:
Một là: Trên cơ sở phân tích cốt truyện trong Chùa Đàn và cốt truyện
trong Mê Thảo thời vang bóng, luận văn chỉ ra những yếu tố kế thừa về cốt
truyện và các chi tiết nghệ thuật trong Mê Thảo thời vang bóng cũng như
những yếu tố đổi mới, sáng tạo trong cốt truyện phim.
Hai là: Trên cơ sở phân tích nhân vật trong Chùa Đàn và cốt truyện

trong Mê Thảo thời vang bóng, luận văn chỉ ra những kế thừa về nhân vật
trong Mê Thảo thời vang bóng và những yếu tố sáng tạo trong việc lựa chọn
và xây dựng các nhân vật trong phim.
Từ mục đích trên, luận văn chỉ ra được mối quan hệ giữa cốt truyện,
nhân vật trong Chùa Đàn và phim Mê Thảo thời vang bóng đồng thời thấy
được những thành công của bộ phim Mê Thảo thời vang bóng khi chọn Chùa
Đàn làm nguồn để chuyển thể.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi có sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau, cụ thể:
- Phương pháp phân tích tổng hợp được vận dụng để khai thác tài liệu
liên quan đến nội dung luận văn. Từ việc phân tích những nghiên cứu về nhân


11

vật và cốt truyện trong văn học và điện ảnh, người viết tổng hợp và đưa ra
những ý kiến đánh giá riêng về việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm
điện ảnh trên hai phương diện đó.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu là phương pháp dùng để nhìn nhận,
đánh giá giữa tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh trên bình diện nhân vật
và cốt truyện. Việc vận dụng phương pháp này giúp luận văn có cái nhìn thấu
đáo, sâu sắc khi phân tích tác phẩm gốc và tác phẩm chuyển thể.
- Phương pháp liên ngành là nhu cầu, là thuộc tính của mọi khoa học
xã hội và nhân văn. Vận dụng các nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử, văn học,
văn hoá, điện ảnh... đã giúp người viết có nhiều kiến thức để khai thác, đào
sâu và làm phong phú, toàn diện cho đề tài của mình.
- Thao tác thống kê, phân loại được sử dụng linh hoạt trong từng luận
điểm của luận văn, nhất là khi chỉ ra các khía cạnh khác biệt trong tác phẩm

văn học Chùa Đàn và tác phẩm điện ảnh Mê Thảo thời vang bóng.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu những đặc trưng của loại thể tự sự và vấn đề
chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh ở phương diện cốt truyện và nhân
vật chúng tôi chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong phương thức tự sự
của hai loại hình nghệ thuật này. Đặc biệt khi xem xét chuyển thể cốt truyện
và nhân vật từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang bóng để nhằm làm sáng tỏ
vấn đề cơ bản: ở cốt truyện những yếu tố nào của tác phẩm văn học có thể đi
vào điện ảnh, những yếu tố nào se bị lược bỏ hoặc thay đổi cho phù hợp với
ngôn ngữ điện ảnh trong quá trình chuyển thể. Ơ phương diện nhân vật, khi
chuyển thể, những nhân vật nào trong tác phẩm văn học se được giữ lại và
những nhân vật nào se được thêm vào trong phim.


12

Từ việc đi sâu vào hai phương diện cốt truyện và nhân vật, chúng tôi
luận giải sự thành công của tác phẩm chuyển thể và tác động ngược lại của nó
đến văn học, thấy được mối quan hệ giữa hai loại hình nghệ thuật này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn gồm
ba chương:
Chương 1: Loại thể tự sự và vấn đề chuyển thể từ tác phẩm tự sự sang
điện ảnh.


13

Chương 2: Chuyển thể cốt truyện từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang
bóng.

Chương 3: Chuyển thể nhân vật từ Chùa Đàn đến Mê Thảo thời vang
bóng.


CHƯƠNG 1
LOẠI THỂ TƯ SƯ VÀ VẤN ĐÊ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM TƯ
SƯ SANG ĐIỆN ẢNH
1.1. Khái quát chung vê loại thể tự sự
1.1.1. Tự sự và những đặc trưng cơ bản của tự sự
Tự sự là một loại văn học được đề cập đến từ rất sớm, bên cạnh loại thể
trữ tình và kịch. Ngay từ thời kỳ cổ đại, qua Nghệ thuật thi ca, Aristotle đã
chú ý đến tự sự ở phương thức mô phỏng thông qua “kể một sự việc, sự kiện
nào đó tách khỏi bản thân mình” [1, tr.19]. Aristotle so sánh loại thể tự sự với
loại thể trữ tình và kịch để thấy rằng: nếu tự sự kể về một sự việc, sự kiện nào
đó tách biệt khỏi bản thân mình thì trữ tình lại bộc lộ tư tưởng cảm xúc của
mình trước hiện tượng và kịch trình bày nhân vật bằng cách bắt chước những
hành động của họ.
Heghen trong Mỹ học thì lại quan tâm đến tự sự ở đối tượng mô tả. Tự
sự trở nên khác biệt với các loại hình nghệ thuật khác ở chỗ là mô tả sự kiện:
nếu tự sự mơ tả sự kiện thì trữ tình mơ tả trạng thái và kịch mô tả hành động.
Trong bài Sự phân chia thơ ra loại và kiểu, Belinxikin lại chú ý đến tự sự ở
mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể của nhận thức nghệ thuật. Ông cho
rằng: nếu tự sự gắn liền với quan niệm về khách thể nhận thức, tái hiện đời
sống thông qua việc mô tả sự kiện thì trữ tình gắn liền với chủ thể nhận thức,
tái hiện đời sống thông qua việc bộc lộ tình cảm của chủ thể. Pospelov trong
Dẫn luận nghiên cứu văn học lại chỉ ra sự khác biệt của tự sự với trữ tình và
kịch ở tiêu chí ngơn ngữ: ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự là ngôn ngữ trần
thuật, đặc trưng là lời kể, lời thuật; ngôn ngữ trong tác phẩm trữ tình là ngơn
ngữ bộc bạch, những lời nói tâm tình biểu cảm; ngơn ngữ kịch đặc trưng bởi
tính đối thoại.



Như vậy, thông qua quan điểm của các nhà nghiên cứu về loại thể tự sự
ta nhận thấy: mỗi nhà nghiên cứu đều quan tâm đến một khía cạnh nào đó của
tác phẩm tự sự.Tổng hợp các quan niệm trên giúp ta thấy được điểm chung
nhất của tác phẩm tự sự: đó là một loại văn học đậm tính khách quan, phán
ánh hiện thực thông qua việc mô tả chuỗi các sự kiện, hành động và cần có
một người đứng ra để kể lại những sự kiện, hành động đó bằng ngôn ngữ trần
thuật.
Mỗi loại thể văn học đều mang trong mình những dấu hiệu đặc trưng
riêng để phân biệt với những loại thể khác. Loại thể tự sự có những đặc trưng
sau:
Một là: Tính khách quan.Tự sự phản ánh đời sống trong tính khách
quan thơng qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể
chuyện. Tính khách quan được coi là đặc trưng cơ bản nhất của tác phẩm tự
sự bởi nó
được lấy làm căn cứ để phân biệt tác phẩm tự sự với những loại văn học khác.
Tính khách quan của tác phẩm tự sự chỉ mang tính tương đối. Thực chất, mọi
tác phẩm văn học đều là sự tái hiện đời sống khách quan qua nhận thức, khái
quát, đánh giá chủ quan của người nghệ sĩ. Do đó, nó là sự thống nhất biện
chứng giữa chủ quan và khách quan. Tính khách quan của tác phẩm tự sự cịn
được thể hiện thơng qua việc xây dựng hình tượng người kể chuyện kể lại cho
độc giả nghe câu chuyện diễn ra trong tác phẩm - một câu chuyện tự nó xảy ra
như vậy và người kể chuyện chỉ đảm nhận vai trò trần thuật. Như vậy, tính
khách quan ở đây thực chất chỉ là nguyên tắc tái hiện đời sống và thuyết phục
người đọc tác phẩm tự sự
Để tái hiện đời sống một cách khách quan, tác phẩm tự sự tập trung
phản ánh đời sống, con người qua các biến cố, sự kiện xảy ra với nó, có tác
dụng phơi bày những mặt nhất định của bản chất con người. Do đó, tính



khách quan là nguyên tắc phản ánh hiện thực rất quan trọng của tác phẩm tự
sự.
Hai là: Có cốt truyện. Nghiên cứu cốt truyện được bắt đầu với Aristote
trong công trình Nghệ thuật thi ca. Ngay từ khi phân biệt tự sự với các loại thể
khác - kể về cái gì đó (để kể được nó phải có yếu tố cốt truyện). Theo Aristote,
cốt truyện là yếu tố cơ bản khơng thể thiếu được của tác phẩm tự sự. Có thể
nói, Aristote là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết nghiên cứu cốt
truyện.
Ơ Việt Nam, khái niệm cốt truyện được đề cập đến trong nhiều cơng
trình nghiên cứu.Trong giáo trình Ly luận văn học, Trần Đình Sử đã đưa ra cái
nhìn cụ thể về cốt truyện: “Cốt truyện là một chuỗi các sự kiện được tạo dựng
trong tác phẩm tự sự, kịch. Một số văn bản trữ tình cũng có yếu tố cốt truyện.
Khái niệm cốt truyện nhằm tách truyện làm hai phần: một phần là chuỗi các sự
kiện rất đặc trưng cho thể loại tự sự và kịch và một phần khác quan trọng
không kém là yếu tố miêu tả, lời kể, lời bình. Thiếu các yếu tố này thì truyện
khơng thể thành truyện” [51, tr.56].
Ơ một cơng trình khác, Lê Bá Hán trong Tư điển thuật ngữ văn học
định nghĩa về cốt truyện như sau:“Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được
tổ chức theo nhu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ
bản, quan trọng trong hình thức tác động của tác phẩm văn học thuộc loại tự
sự và kịch. Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm văn học.
Trong tác phẩm trữ tình, cốt truyện khơng tồn tại vì ở đây tác giả biểu hiện sự
diễn biến của tính cách, tâm trạng” [21, tr.586].Trong giáo trình Ly luận văn
học do Phương Lựu chủ biên cũng đưa ra định nghĩa về cốt truyện: “Cốt
truyện thực chất là cái lõi diễn biến của truyện từ lúc xảy ra cho đến lúc kết
thúc” [30, tr.304]. Hoàng Phê trong cuốn Tư điển Tiếng Việt lại cho rằng: “cốt
truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ
phức tạp của



tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học tự sự” [44, tr.206]. Trong 150 thuật
ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng: “Cốt truyện là sự phát triển hành động,
tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả
trong các tác phẩm trữ tình” [2, tr.112].
Như vậy chỉ riêng khái niệm về cốt truyện đã có nhiều nhà nghiên cứu
đưa ra định nghĩa khác nhau nhưng tất cả các định nghĩa ấy đều có một điểm
chung: Cốt truyện chính là trật tự sự sắp xếp của các sự kiện trong tác phẩm.
Nói đến cốt truyện là nói đến hệ thống các sự kiện. Nếu khơng có sự kiện thì
khơng có cốt truyện. Sự kiện là những biến đổi, chuyển biến, những sự cố có
ý nghĩa quan trọng đối với nhân vật, làm cho nhân vật và quan hệ của chúng
không giữ được nguyên trạng mà phải thay đổi theo.
Nghiên cứu vai trò của cốt truyện, các nhà lý luận đã đưa ra những quan
điểm khác nhau thậm trí trái ngược nhau khi xem xét vấn đề này. Theo quan
niệm của lý luận văn học truyền thống thì cốt truyện được coi là một trong
những tiêu chí hàng đầu của tác phẩm tự sự. Tuy nhiên một số nhà lý luận văn
học hiện đại và hậu hiện đại lại phủ nhận vai trị của cốt truyện để từ đó đưa
đến một thuật ngữ mới truyện khơng có cốt truyện. Quan niệm này cho rằng
đã có tự sự - đã có việc kể thì phải có chuyện để kể và trong câu chuyện đó có
cốt truyện. Ơ Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng: thực ra
khơng thể có truyện khơng có cốt truyện mà vấn đề là có những truyện có cốt
truyện đơn giản nhưng cũng có những chuyện có cốt truyện đơn giản - tưởng
chừng như khơng có cốt truyện.
Khi phân loại cốt truyện, Ly luận văn học đã ghi nhận nhiều cách phân
loại cốt truyện khác nhau nhưng tựu trung lại người ta chia cốt truyện thành
những kiểu sau: Cốt truyện biên niên (cốt truyện ly tâm); Cốt truyện đồng tâm
(cốt truyện hướng tâm) hoặc cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến; Cốt
truyện truyện ngắn và cốt truyện tiểu thuyết; Cốt truyện truyện sự kiện và cốt



truyện luận đề, theo tính chất của sự kiện trong truyện thì lại có kiểu cốt
truyện mang kịch tính cao và cốt truyện tâm lý…
Mặc dù các nhà nghiên cứu đã có cái nhìn khác nhau về vai trị cũng
như phân loại cốt truyện, nhưng có thể nhận thấy rằng dù muốn hay không ta
cũng không thể phủ nhận vai trò của cốt truyện trong tác phẩm tự sự. Cốt
truyện và sự hấp dẫn của cốt truyện vẫn là một tiêu chí mang tính cổ điển làm
nên sự thành cơng của tác phẩm văn xuôi. Đặc biệt, trong vấn đề chuyển thể
tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh, cốt truyện vẫn là yếu tố hàng đầu
thu hút sự quan tâm của người chuyển thể kịch bản và các đạo diễn.
Ba là: Nhân vật trong tác phẩm tự sự. Nhà văn Tơ Hồi đã cho rằng:
“Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một
sáng tác” [22, tr.127]. Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được
nhà văn miêu tả thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện ngôn ngữ.
Trong tác phẩm tự sự, nhân vật giữ vai trò quan trọng. Nó là điều kiện
thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có được chiều sâu và
tính hình tượng: “chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc
sống con người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kỳ vọng về con
người” [22, tr.261].
Như vậy có thể thấy rằng, nhân vật trong tác phẩm tự sự giữ vai trò
quan trọng trong việc biểu đạt nội dung tư tưởng của tác phẩm tự sự, vì vậy
nhà văn ln dồn tâm huyết và tài năng của mình vào việc khắc họa đứa con
tinh thần của mình. Nhân vật có vai trị khái quát những tính cách, hiện thực
cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Do đó khi phân
tích, nghiên cứu và đặc biệt là chuyển thể nhân vật ấy lên màn hình cần phải
so sánh, đối chiếu để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có
nguyên mẫu cuộc đời.


1.1.2. Truyện ngắn - một thể loại tự sự cỡ nhỏ
Tư điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Truyện ngắn là tác phẩm tự sự

cỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời
sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn
được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [21, tr.125].
Là một thể loại tự sự, truyện ngắn có những đặc trưng riêng về tính
chất, dung lượng so với các thể loại khác. Do đó nhà văn khi viết truyện ngắn
cần đặc biệt chú ý đến các vấn đề mang tính riêng biệt như: cốt truyện, nhân
vật, chi tiết nghệ thuật và kết cấu của tác phẩm.
Cốt truyện là thành phần quan trọng của tác phẩm tự sự, đặc biệt trong
truyện ngắn. Cốt truyện của truyện ngắn có thể được khai thác từ sự kiện có
thật trong đời sống, trong tác phẩm văn học hay từ kinh nghiệm sống của bản
thân tác giả hoặc tưởng tượng hoàn toàn qua sự hư cấu của nhà văn.
Ngoài chú ý đến cốt truyện, khi xây dựng truyện ngắn nhà văn cũng cần
chú ý hai yếu tố quan trọng là chi tiết và kết cấu của tác phẩm. Chi tiết chiếm
dung lượng lớn của truyện ngắn vì nó se cụ thể hóa tính cách, hành động, tâm
tư của nhân vật trong truyện. Vì là dung lượng ngắn, địi hỏi nhà văn khơng
ngừng sáng tạo, tìm hiểu xây dựng được các chi tiết nghệ thuật. Khi nhà văn
chọn chi tiết nào thì chi tiết ấy phải có ý nghĩa gì đối với truyện, giúp bộc lộ tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm. Như vậy, chi tiết vừa là phương tiện cho nhà văn
khắc họa nhân vật vừa góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của truyện.
Nhà văn khi sáng tạo truyện ngắn cần chú ý đến cách tổ chức tác phẩm.
Truyện ngắn có thể được kết cấu xâu chuỗi theo trình tự thời gian, theo hành
động, sự kiện. Các truyện ngắn thường được xây dựng theo một trong số các
hình thức kết cấu sau: kết cấu tâm lý, kết cấu lồng ghép hoặc kết cấu đồng
hiện.


×