Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

XÃ HỘI PHONG KIẾN ĐẠI VIỆT CUỐI THẾ KỈ XIV ĐẦU THẾ KỈ XV VÀ NHÂN VẬT TRẦN NGUYÊN HÃN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.81 KB, 55 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Khởi nghĩa Lam Sơn là một dấu mốc lịch sử huy hoàng của lịch sử đấu
tranh chống ngoại xâm giành độc lập của dân tộc ta. Trong cuộc khởi nghĩa đó,
có hai vị lãnh tụ tối cao là Lê Lợi và Nguyễn Trãi, còn có những nhà quân sự có
tài như Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Lê Sát… Mỗi người đều có cống hiến
xứng đáng mà đến ngày nay sử sách nước ta vẫn chưa đánh giá hết được.
Riêng Trần Nguyên Hãn là danh tướng tài được ghi danh trong lịch sử dân
tộc. Ông là người xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Là người có
học thức, giỏi binh pháp, có tâm, có tài, có tâm nguyện cứu nước, cứu dân. Ông
theo Lê Lợi khởi nghĩa được phong hàm Đại tư đồ, chức Tả tướng quốc. Nhưng
vì sau cuộc khởi nghĩa chống Minh, ông bị Lê Thái Tổ nghi can và giết hại, vì
vậy mà công lao của ông đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không được ghi
chép đầy đủ.
Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa dân tộc, được rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm. Ông và Trần Nguyên Hãn có quan hệ ruột thịt, cùng nhau tham gia và
đóng vai trò quan trọng trong khởi nghĩa Lam Sơn, đều là khai quốc công thần
nhưng đến nay Trần Nguyên Hãn lại chưa được đánh giá đúng mức. Các tài liệu
viết về ông hiện nay chưa đánh giá hết về con người và vai trò của ông đối với
lịch sử, còn mang tính dàn trải. Vì vậy, chúng tôi chọn nhân vật lịch sử Trần
Nguyên Hãn làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
Và cũng trong thời gian thu thập tài liệu, rất may mắn là chúng tôi được sự
giúp đỡ của nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên. Ông là người chuyên nghiên cứu
về lịch sử địa phương, lịch sử danh nhân, thần tích, thần sắc của tỉnh Vĩnh Phú,
đồng thời cụ cũng là người con của quê hương danh tướng Trần Nguyên Hãn đã


2

có những nghiên cứu về Người. Theo Lê Kim Thuyên, nghiên cứu về Trần
Nguyên Hãn còn rất nhiều vấn đề để nghiên cứu, có thể có những kiến giải mới.


Được sự định hướng nghiên cứu đó, chúng tôi đã tìm ra hướng nghiên cứu và
quyết định chọn nhân vật Trần Nguyên Hãn làm đối tượng nghiên cứu của
mình, vấn đề nghiên cứu là “Tầm nhìn thời đại và tài thao lược quân sự của
Trần Nguyên Hãn”.
Và là người con của quê hương danh tướng với niềm tự hào, kính phục,
“uống nước nhớ nguồn”, nghiên cứu về danh tướng chúng tôi hi vọng trước hết
là hiểu đúng, hiểu sâu sắc đồng thời thấy được vai trò của Trần Nguyên Hãn đối
với lịch sử dân tộc, góp phần giáo dục thanh thiếu niên ngày nay nêu cao tinh
thần tự hào, noi theo cha ông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Trần Nguyên Hãn là nhân vật lịch sử lớn của thời kì trung đại Việt Nam.
Ông xuất thân tại trang Sơn Đông, tham gia khởi nghĩa Lam sơn có nhiều công
tích. Ông được xếp vào hàng tướng có tài.
Nghiên cứu về một nhân vật lịch sử trong thời trung đại thì chủ yếu nghiên
cứu trên tài liệu đã có là chính, vì tài liệu là không khí thở của nhà khoa học.
Nghiên cứu về nhân vật lịch sử Trần Nguyên Hãn, chúng tôi đã tiến hành thu
thập và nghiên cứu tài liệu. Hiện nay có nhiều tài liệu viết về ông, chính sử cũng
như nhiều tài liệu nghiên cứu khác. Một số tài liệu mà chúng tôi đã thu thập
được như: Đại Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Đại Việt thông sử của Lê quý
Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú), Đại tư đồ Trần Nguyên
Hãn (Quỳnh Cư), Hội thảo khoa học Trần Nguyên Hãn ( Sở VHTT&TT Vĩnh
Phú), Trần Nguyên Hãn (Lê Kim Thuyên)…
Những vấn đề được các tài liệu nghiên cứu trên đề cập đến như sau:
Trước hết về tài liệu chính sử như Đại Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên),
Đại Việt thông sử (Lê quý Đôn), Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy


3

Chú) có những ghi chép về chút thân thế, về sự nghiệp quân sự của ông nhưng

cũng chỉ sơ lược. Dù sao qua tổng hợp các tư liệu đó chúng tôi cũng đã phần
nào thấy được bối cảnh lịch sử của nhân vật lịch sử, gồm những bước ngoặt và
biến động của xã hội lớn từ cuối đời Trần đầu đời Hồ đến thời thuộc Minh và
phong trào chống Minh xâm lược của nhân dân ta “Diệt Minh phù Trần” cuồi
thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV. Đồng thời, cũng qua nguồn sử ấy chúng ta hiểu biết
phần nào con đường Trần Nguyên Hãn đến với khởi nghĩa Lam Sơn.
Những tài liệu hiện nay đã nghiên cứu được những vấn đề về Trần Nguyên
Hãn như: Đại tư đồ Trần Nguyên Hãn (Quỳnh Cư) được tác giả nghiên cứu về
cuộc đời sự nghiệp Trần Nguyên Hãn qua những câu chuyện, truyền thuyết. Hội
thảo khoa học Trần Nguyên Hãn ( Sở VHTT&TT Vĩnh Phú) đã đề cập đến
nhiều vấn đề quan trọng như năm sinh năm mất, dòng họ, quá trình vào Lam
Sơn khởi nghĩa, tư tưởng quân sự, dấu tích lưu niệm và tưởng niệm của nhân vật
lịch sử Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn (Lê Kim Thuyên) đã đề cập đến
những vấn đề thân thế, sự nghiệp của Trần Nguyên Hãn trong kháng chiến
chống Minh. Trong đó có những vấn đề trọng tâm như, năm sinh năm mất, vai
trò của Trần Nguyên Hãn trong kháng chiến chống Minh, cái chết của Trần
Nguyên Hãn…
Qua quá trình tìm đọc tài liệu liên quan, chúng tôi thấy rằng còn nhiều vấn
đề chưa đi sâu, còn bỏ ngỏ, có thể khai thác như: Năm sinh năm mất của ông
hiện chưa rõ và thống nhất; tư tưởng quân sự của ông như thế nào? Đặc biệt,
ông là đại diện duy nhất của quý tộc nhà Trần đi theo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Vì sao ông lại đi theo Lê Lợi mà ông lại không đi theo cuộc khởi nghĩa của Trần
Ngỗi, Trần Qúy Khoáng…? Ông là người có học thức, giỏi binh pháp được biểu
hiện như thế nào?
Những vấn đề tồn tại này chưa được giải đáp thỏa đáng, chính vì vậy chúng
tôi đã chọn đề tài này mong muốn có thể lý giải phần nào vấn đề, góp phần vào


4


việc tìm hiểu cuộc đời sự nghiệp Trần Nguyên Hãn. Đồng thời thấy được tài
năng , vai trò của ông đối với lịch sử dân tộc.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nhân vật Trần Nguyên Hãn.
3.2.Phạm vi nghiên cứu.
Tầm nhìn thời đại và tài thao lược về quân sự của nhân vật lịch sử Trần
Nguyên Hãn.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục tiêu nghiên cứu.
Làm rõ tầm nhìn thời đại của Trần Nguyên Hãn và tài thao lược về quân
sự của ông trong cuộc kháng chiến chống Minh.
4.2.Nhiệm vụ nghiên cứu.
Dựa trên tài liệu lịch sử, đưa ra quan điểm để làm rõ cái “tài” của Trần
Nguyên Hãn, từ đó đánh giá đúng vai trò của ông, tăng cường giáo dục tấm
gương Trần Nguyên Hãn.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu liên nghành.
5.3. Phương pháp phỏng vấn điều tra.
5.4.Phương pháp logic, phương pháp lịch sử.
5.5.Phương pháp so sánh.
5.6. Phương pháp phân tích tổng hợp.
5.7. Phương pháp tiếp cận hệ thống.


5

6.


Giới thiệu cấu trúc đề tài.

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT XÃ HỘI PHONG KIẾN ĐẠI VIỆT CUỐI
THẾ KỈ XIV ĐẦU THẾ KỈ XV VÀ NHÂN VẬT TRẦN NGUYÊN HÃN.
1.1. Khái quát xã hội phong kiến Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV.
1.1.1 Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt vào cuối thế kỉ XIV
đầu thế kỉ XV.
1.1.2. Sự xâm lược và những chính sách đô hộ của nhà Minh đối với Đại
Việt (1407 – 1427).
1.2. Khái quát nhân vật lịch sử Trần Nguyên Hãn.
CHƯƠNG 2: TẦM NHÌN THỜI ĐẠI CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRẦN
NGUYÊN HÃN.
2.1.Trần Nguyên Hãn với căn cứ rừng thần.
2.1.1. Trần Nguyên Hãn xây dựng nghĩa quân, xây dựng căn cứ Rừng thần.
2.1.2. Phân tích tầm nhìn thời đại của Trần Nguyên Hãn qua việc chiêu tập
nghĩa quân, xây dựng căn cứ Rừng thần.
2.2. Trần Nguyên Hãn trước cuộc khởi nghĩa của quý tộc nhà Trần và
các cuộc khởi nghĩa khác.
2.2.1. Các cuộc khởi nghĩa của quý tộc Trần.
2.2.2 Cuộc đấu tranh chống giặc Minh của các lực lượng khác.
2.3. Trần Nguyên Hãn với quyết định vào Lam Sơn tìm minh chủ.
2.3.1. Trần Nguyên Hãn đến với khởi nghĩa Lam Sơn.
2.3.1. Tầm nhìn thời đại của Trần Nguyên Hãn khi đến với khởi nghĩa Lam
Sơn.
2.4. Trần Nguyên Hãn trong quyết định lui về ở ẩn tại Sơn Đông.
CHƯƠNG 3: TÀI THAO LƯỢC QUÂN SỰ CỦA TRẦN NGUYÊN
HÃN.



6

3.1. Trần Nguyên Hãn với chiến thắng Tân Bình – Thuận Hóa.
3.1.1. Hoàn cảnh của trận đánh Tân Bình – Thuận Hóa.
3.1.2. Chiến thắng Tân Bình – Thuẫn Hóa và vai trò của Trần Nguyên
Hãn.
3.2 . Trần Nguyên Hãn với chiến thắng Xương Giang.
3.2.1. Hoàn cảnh của trận đánh thành Xương Giang.
3.2.2. Chiến thắng Xương Giang và vai trò của Trần Nguyên Hãn.
PHẦN KẾT LUẬN.
7. Dự kiến kết luận.
Làm rõ tầm nhìn thời đại của Trần Nguyên Hãn và tài thao lược về quân sự
của ông trong cuộc kháng chiến chống Minh, từ đó đánh giá đúng vai trò của
ông, tăng cường giáo dục tấm gương Trần Nguyên Hãn.


7

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT XÃ HỘI PHONG KIẾN CUỐI THẾ KỈ XIV ĐẦU
THẾ KỈ XV VÀ NHÂN VẬT TRẦN NGUYÊN HÃN.
1.1. Khái quát xã hội phong kiến Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV.
1.1.1 Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt vào cuối thế kỉ XIV
đầu thế kỉ XV.
Sau hơn một nghìn năm bắc thuộc, năm 938, với chiến thắng Bạch Đằng
đập tan quân xâm lược Nam Hán của Ngô Quyền đã đưa dân tộc ta sang một
thời kì mới, thời kì phát triển rực rỡ của chế độ phong kiến Việt Nam. Từ thế kỉ
X đến thế kỉ XIV trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần các triều
đại phong kiến Việt Nam đang trên đà phát triển và được củng cố mạnh mẽ.

Đặc trưng văn hóa nước ta là một nền văn hóa nông nghiệp nên quy định
đặc điểm của chế độ phong kiến nước ta thời kì này là chế độ sở hữu nhà nước
về ruộng đất chiếm ưu thế và kinh tế điền trang đang phát triển.
Đại bộ phận ruộng đất trong nước lúc bấy giờ thuộc quyền sở hữu của triều
đình trong đó đứng đầu là nhà vua. Loại ruộng trực tiếp do nhà nước quản lý
như sơn lăng, tịch điền, quốc khố… có bộ phận triều đình chỉ nắm quyền sở hữu
gián tiếp như ruộng công của các hương ấp (công xã nông thôn); có bộ phận nhà
vua phong cấp cho các vương hầu, quý tộc, công thần dưới hình thức thác đao
điền (đời Lý) hay thái ấp (đời Trần). Từ năm 1266, một số vương hầu, quý tộc
được phép chiêu mộ dân nghèo khai khẩn đất hoang, lập thành điền trang. Loại
hình kinh tế điền trang hình thành với chế độ bóc lột nông nô, nô tì một cách
nặng nề, đạt mức phát triển cao vào thời Lý và đầu đời Trần. Thời kì đó hình
thức kinh tế này còn có tác dụng phát triển sản xuất.


8

Bên cạnh chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước, chế độ tư hữu về ruộng
đất cũng chiếm một vị trí quan trọng. Cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu
về ruộng đất, tầng lớp điạ chủ và nông dân tự canh ngày càng mở rộng. Giống
với loại hình kinh tế điền trang, kinh tế địa chủ cũng thuộc loại hình kinh tế
phong kiến. Nhưng khác ở chỗ kinh tế địa chủ bóc lột địa tô theo quan hệ địa
chủ - tá điền.
Thông qua bộ phận kinh tế điền trang, kinh tế địa chủ và nông dân tự canh,
nền kinh tế thời Lý và đầu đời Trần có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong
thời kì này, những hệ thống đê điều dọc theo hệ thống sông Nhị (đê Cơ Xá, đê
Quai Vạc), sông Chu, sông Mã… được xây dựng và tu bổ. Nhiều vùng đất được
khẩn hoang ở miền ven biển và miền trung du được tiến hành để mở rộng thêm
diện tích canh tác.
Trên cơ sở kinh tế ấy, quốc gia phong kiến ngày càng được củng cố vững

chắc. Đặc biệt thời Lý, Trần, chế độ phong kiến phát triển rực rỡ cả về văn trị và
võ trị. Nền kinh tế phát triển. Văn hóa rực rỡ. Nhiều chiến công hiển hách chống
ngoại xâm được ghi thêm vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Đó là thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Tống và ba lần chống Mông – Nguyên.
Nhưng vào cuối đời Trần, chế độ phong kiến bước vào thời kì khủng hoảng
sâu sắc.
Nguyên nhân chính xuất phát từ nền kinh tế điền trang thái ấp với chế độ
bóc lột nông nô, nô tì đã trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển. Với chế độ bóc
lột nông nô, nô tì, tầng lớp nông nô, nô tì phải làm không công cho quan lại và
quý tộc Trần. Số phận của họ gắn chặt với mảnh đất trong điền trang. Điều này
khiến tầng lớp này không còn hứng thú sản xuất, năng suất giảm. Trong khi đó
diện tích đất trong điền trang khá lớn mà lực lượng nông nô, nô tì có hạn, nên
nhiều diện tích đất bị bỏ hoang. Như vậy phần lớn diện tích đất không được sử
dụng mà phần sử dụng lại không hiệu quả. Không chỉ vậy, kinh tế điền trang


9

thái ấp lại mang tính tự cung tự cấp cao. Sản xuất trong điền trang, thái ấp chỉ
nhằm phục vụ quan lại, quý tộc là chính, ít có sự giao lưu, trao đổi hàng hóa.
Trong khi đó, sự phát triển của kinh tế hàng hóa và kinh tế địa chủ cũng có tác
dụng làm lay chuyển cơ sở kinh tế điền trang, thái ấp.
Cũng trong lúc đó, tầng lớp quý tộc nhà Trần ngày càng sa đọa, chỉ lo tăng
cường vơ vét, bóc lột để sống cuộc đời xa hoa, phóng đãng. Từ vua cho đến các
vương hầu, quý tộc, quan lại đều lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt
của nhân dân. Nhân dân bị bóc lột tô thuế và lao dịch nặng nề, trở nên lầm than,
cơ cực. Từ thế kỷ XIV, nhất là vào khoảng giữa thế kỷ XIV, những hiện tượng
mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra nghiêm trọng.
Do địa vị thống trị trong nước bị lung lay, nhà Trần lại chủ trương tiến
hành xâm lược các nước láng giềng phía Tây, phía Nam hòng lấy chiến thắng

bên ngoài để củng cố uy thế bên trong. Nhưng trái lại, những cuộc chiến kéo dài
liên miên vào cuối đời Trần càng làm cho chế độ phong kiến thêm trầm trọng,
làm cho nguy cơ nhà Trần càng chóng bị sụp đổ. Từ khoảng giữa thế kỷ XIV,
nông nô, nô tì trong các điền trang, thái ấp cùng với nông dân nghèo nổi dậy bạo
động khắp nơi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa do Ngô Bệ, Tề, Phạm Sư Ôn,…
lãnh đạo. Những cuộc khởi nghĩa đó đã giáng những đòn đả kích vào nền thống
trị nhà Trần, vào nền kinh tế điền trang, thái ấp và chế độ nông nô, nô tì.
Như vậy là những biến động trong xã hội vào cuối chiều Trần được biểu
hiện cuộc khủng hoảng của bộ phận kinh tế điền trang, thái ấp và chế độ nông
nô, nô tì. Đó là cuộc khủng hoảng trên bước phát triển của chế độ phong kiến
nước ta. Cuộc khủng hoảng này bộc lộ rõ ràng yêu cầu cần thủ tiêu kinh tế điền
trang, thái ấp và quan hệ nông nô, nô tì để mở đường cho chế độ phong kiến tiến
lên một bước phát triển mới cao hơn.
Trước sự sụp đổ của chiều Trần, năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và
thiết lập một triều đại phong kiến mới: Triều Hồ (1400 – 1407).


10

Trong thời gian cầm quyền, Hồ Quý Ly đã tiến hành nhiều cải cách táo bạo
nhằm giải quyết khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đặc biệt, thủ tiêu những yếu tố
cát cứ của quý tộc nhà Trần, xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế tập
trung vững mạnh, như về quân sự, chính trị, tài chính – kinh tế, văn hóa – giáo
dục.
Qua những cải cách đó, Hồ Quý Ly tỏ ra là một người có nhiều tham vọng.
Ông có nhìn thấy nguy cơ sụp đổ của nhà Trần và sự sa đọa của tầng lớp quý
tộc. Nhưng vốn là một đại quý tộc nên ông có nhiều quan hệ với tầng lớp quý
tộc nói chung và nhiều quyền lợi gắn liền với kinh tế điền trang, thái ấp và chế
độ nông nô, nô tì. Do đó, ông không thể hoàn toàn từ bỏ lập trường của tầng lớp
quý tộc suy đồi để chuyển hẳn sang lập trường tiến bộ hơn của giai cấp địa chủ.

Do tính chất như vậy, nên ảnh hưởng đến những chính sách của Hồ Quý Ly. Vì
vậy mà những chính sách của Hồ Quý Ly chỉ mang tính nửa vời, thiếu triệt để.
Hồ Quý Ly sử dụng chính sách hạn điền, hạn nô, trực tiếp đả kích vào tầng lớp
quý tộc nhưng không giám xóa bỏ tầng lớp quý tộc với biện pháp thủ tiêu kinh
tế điền trang và giải phóng nông nô, nô tì. Những cải cách của Hồ Quý Ly vì
vậy tuy tiến bộ nhưng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển và giải quyết các
mâu thuẫn kinh tế và xã hội đang diễn ra gay gắt lúc bấy giờ. Căn bản chưa giải
quyết được mâu thuẫn, nên nhà Hồ chưa tạo được cơ sở xã hội vững chắc, đứng
trước nhiều khó khăn nghiêm trọng.
1.1.2. Sự xâm lược và những chính sách đô hộ của nhà Minh đối với Đại
Việt (1407 – 1427).
Giữa lúc xã hội ta có khủng hoảng, nhà Trần sụp đổ, nhà Hồ mới thành lập
gặp nhiều khó khăn như vậy, thì nhà Minh đã lợi dụng thời cơ tiến hành xâm
lược nước ta.
Nhà Minh là một triều đại phong kiến Trung Quốc do Chu Nguyên Chương
thành lập năm 1368 trên cơ sở thắng lợi của phong trào khởi nghĩa nông dân


11

Trung Quốc lật đổ ách thống trị của nhà Nguyên. Trong buổi đầu, nhà Minh còn
lo củng cố nền thống trị trong nước, thi hành nhiều chính sách tích cực để phục
hồi và phát triển kinh tế, tăng cường nền trung ương tập quyền. Đến đời Minh
Thành Tổ (1402 – 1424) nhà Minh đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất và đồng
thời có khuynh hướng bành trướng thế lực ra nước ngoài. Sau một thời gian
thăm dò, chuẩn bị, tháng 11 – 1406 nhà Minh phát động cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta.
Trước âm mưu xâm lược ngày càng rõ rệt của quân Minh, nhà Hồ trước sau
chủ trương kiên quyết kháng chiến, tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Nhà Hồ tăng cường lực lượng quốc phòng, tuyển mộ thêm quân lính, đúc vũ

khí, bố trí phòng thủ,…Hệ thống phòng thủ của nhà Hồ dọc theo bờ Nam sồng
Đà cho đến cửa sông Ninh ( huyện Mỹ Lộc – tỉnh Hà Nam Ninh), lấy thành Đa
Bang ( Ba Vì – Hà Nội) và thành Đông Đô (Hà Nôi) làm căn cứ chính.
Tuy vậy, cuộc kháng chiến của nhà Hồ lãnh đạo đã bị thất bại nhanh chóng.
Nguyên nhân chính là do:
Nhà Hồ thiếu một cơ sở xã hội vững chắc. Những chính sách của nhà Hồ
mang tính nửa vời, thiếu triệt để. Các tầng lớp nhân dân đều tỏ ra không thỏa
mãn với chính sách của nhà Hồ. Giai cấp nông nô, nô tì không được giải phóng
bởi chính sách hạn nô, họ chỉ thay đổi thân phận (gia nô chuyển sang quan nô).
Đời sống nhân dân không được cải thiện. Giai cấp địa chủ đang giữ vai trò tích
cực trong xã hội lúc đó cũng bị xâm phạm về quyền lợi. Trong khi đó, tầng lớp
quý tộc là tầng lớp thoái hóa, lạc hậu cần thủ tiêu thì chỉ bị hạn chế về quyền lợi
và đả kích nhưng không bị xóa bỏ và trấn áp triệt để. Do đó, chúng vẫn có cơ sở
chống lại triều Hồ. Và khi quân Minh xâm lược vào, chúng sẵn sàng làm tay sai
để bảo vệ quyền lợi của mình, giúp quân Minh nhanh chóng hoàn thành cuộc
chiến tranh xâm lược. Như vậy, nhà Hồ mất hết cơ sở xã hội của mình.


12

Nhân dân ta không ủng hộ nhà Hồ, điều đó không phải nhân dân ta không
thấy rõ kẻ thù.
Từ khi giặc Minh vào xâm lược, nhân dân ta không lúc nào không có
phong trào đứng lên khởi nghĩa chống giặc Minh, từ các cuộc khởi nghĩa của
quý tộc nhà Trần cho đến các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, các dân tộc thiểu
số… các phong trào yêu nước đó sau được thổi bùng lên mạnh mẽ dưới lá cờ
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nhân dân ta không ủng hộ nhà Hồ vì nhà Hồ không
đủ uy tín để lãnh đạo nhân dân kháng chiến. Chính người con cả của Hồ Quý Ly
– Hồ Nguyên Trừng đã thốt lên rằng : “ thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân
không theo mà thôi ” [10, 265].

Mặt khác, về phương diện lãnh đạo chiến đấu, nhà Hồ phạm nhiều sai lầm
về chiến lược chiến thuật một cách nghiêm trọng.
Quân Minh sang xâm lược nước ta là một đội quân đông và mạnh. Áp dụng
chiến lược tốc chiến tốc thắng. Về chiến thuật, quân địch thường áp dụng lối
tiến công ồ ạt, lại sở trường về công thành và thạo trận địa chiến.
Trước đối tượng mạnh như vậy, nhà Hồ lại chủ trương rút lui chiến lược để
phòng ngự, đó là chiến lược thích hợp của nước nhỏ chống lại nước lớn. Nhưng
sai lầm căn bản là nhà Hồ chỉ dựa vào quân đội chủ lực và vũ khí, những tuyến
phòng ngự có tính chất trận địa để chống giặc. Khi quân địch vào nước ta lại
không gặp nhiều trở ngại, lực lương không bị tiêu hao mấy. Về mặt chiến thuật
nhà Hồ áp dụng trận địa chiến trong khi giặc đang ở thế tiến công ồ ạt, lại là sở
trường của chúng. Do đó, ngay từ đầu nhà Hồ đã bị thất bại nặng nề và nhanh
chóng bị đánh bại. Đất nước rơi vào tay quân xâm lược.
Những sai lầm nguy hại của nhà Hồ đã làm đất nước rơi vào thảm cảnh đô
hộ trong hơn 20 năm. Nhưng đó cũng là 20 năm đấu tranh quyết liệt và hào
hùng của dân tộc ta quyết bỏ ách đô hộ ngoại quốc và khôi phục lại chủ quyền
dân tộc.


13

- Nhà Minh thiết lập nền thống trị thuộc địa hà khắc.
Năm 1407, nhà Minh đánh bại được nhà Hồ nhưng phải đến năm 1414 mới
chiếm được toàn bộ lãnh thổ nước ta và hoàn thành cuộc xâm lược của chúng.
Để phục vụ cho kế hoạch “bình định” của chúng và tiến hành những chính sách
thống trị về các mặt, từ năm 1407 chúng đã thiết lập chính quyền đô hộ nước ta.
Âm mưu của nhà Mình là chiếm nước ta làm thuộc quốc, đồng hóa dân tộc
ta, vĩnh viễn xóa bỏ nước ta và sáp nhập hẳn vào lãnh thổ của nhà Minh.
Việc làm đầu tiên của cách tướng lĩnh nhà Minh như Trương Phụ, Mộc
Thạnh là tìm cớ phế bỏ nhà Trần. Chúng ép buộc các bô lão và các phần tử đầu

hàng dâng biểu lên nhà Minh, nói là: họ Trần không còn ai nữa, mà đất An
Nam vốn là đất Giao Châu ngày xưa, vậy xin được đặt làm quận huyện như cũ.
Ngay sau khi diệt được nhà Hồ, quân Minh thiết lập ngay một chính quyền
như chính quyền địa phương của nhà Minh. Chúng đổi tên nước ta là Đại Việt
sang Giao Chỉ, tên gọi thông dụng mang tính miệt thị là An Nam. Đứng đầu
quận Giao Chỉ là bộ máy thống trị tam ti: Bốn chính ti (coi về chính trị ,kinh tế),
Đô ti (coi về quân sự) và Án sát ti (coi về hình pháp). Trụ sở đóng ở thành đông
quan ( tức Thăng Long – Đông Đô cũ ).
Bên dưới chính quyền Giao Chỉ quận, chúng chia làm 15 phủ, 36 châu, 181
huyện và 5 châu trực thuộc quận. Nhà Minh cũng rất coi trọng tổ chức chính
quyền dưới xã thôn. Chúng tổ chức ra các lý ( tức là làng, gồm 10 giáp, 110 hộ
nông thôn) để kiểm soát chính quyền cơ sở và để thu thuế cho chính quyền đô
hộ. Riêng ở khu vực trong thành thì lập phường, ngoại thành thì lập sương, đều
tương tự như lý.
Về quân sự, nhà Minh duy trì một lực lượng đàn áp đông đảo sau khi thôn
tính Đại Việt: trên 10 vạn quân chiếm đóng, chúng dựng lên 39 thành lũy kiên
cố, chưa kể các đồn canh phòng ở khắp nơi; 374 trạm dịch nối liền với thành
đông quan. Những hệ thống thành lũy đồn canh dày đặc nhằm kiểm soát và đàn


14

áp các phong trào khởi nghĩa. Ngoài ra chúng còn sử dụng lực lượng ngụy quan,
hàng chục vạn ngụy quân (thổ binh). Chính quyền đô hộ của nhà Minh còn thi
hành một số chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo với dân chúng, kiểm soát ngặt
nghèo việc cư trú và đi lại. Một trong những biện pháp dã man nhất là áp dụng
cực hình “nhục hình bào lạc” từ thời cổ đại: nhục hình này là bắt phạm nhân đi
qua một cột đồng bôi mỡ trơn bắc qua một lò lửa để người đó phải sẩy chân rơi
vào lò lửa chết dãy dụa một cách đau đớn.
- Bóc lột, vơ vét của cải tàn bạo.

Quân Minh đã tiến hành cướp bóc của cải, tài sản đem về Trung Quốc với
số lượng lớn, bao gồm các loại voi ngựa, trâu bò, thóc lúa, thuyền bề, vũ khí,
tiền bạc châu báu… Trong đó có 235.900 súc vật, 13.600.000 thăng thóc. Chúng
bắt nhiều phụ nữ trẻ em đem về Trung Quốc phục vụ quan lại nhà Minh hoặc
sung làm nô tì, và một nhiều nho sĩ tri thức như Nguyễn Phi Khanh, Hồ Nguyên
Trừng hay Nguyễn An, sau này trở thành một kiến trúc sư nổi tiếng xây dựng
các cung điện ở kinh đô Bắc Kinh.
Nhà Minh cũng áp dụng một số thuế má nặng nề. Thuế ruộng tăng lên gấp
3 lần. Chính quyền đô hộ độc quyền buôn bán muối, người dân đi đường chỉ
được phép mang theo 3 bát muối. Ngoài ra, chúng còn bắt nhân dân ta cống nạp
các sản phẩm hiếm quý như ngà voi, sừng tê, ngọc trai, vàng bạc…
- Phá hoại, thủ tiêu nền văn hóa dân tộc.
Nhà Minh đã cho thiêu hủy, cướp bóc các sách vở mang về Trung Quốc,
theo đúng tinh thần mệnh lệnh của vua Minh: “một mảnh giấy, một nửa chữ
cũng không được để lại” [10, 276]. Nhiều tác phẩm quý giá của Đại Việt lúc đó
đa bị thiêu hủy hoặc bị cướp đi, như : hình thư, luật thư (đời lý, Trần), Đại Việt
sử kí (Lê Văn Hưu), Binh gia yếu lược (Trần Quốc Tuấn)…
Chúng cũng phá hủy nhiều di tích lịch sử văn hóa. Trong những năm cuối
thời thuộc Minh, chúng đã cho phá hủy chuông Quy Điền và Vạc Phổ Minh (2


15

trong 4 công trình đúc đồng nổi tiếng thuộc An Nam tứ khí) để lấy đồng đúc vũ
khí chống lại nghĩa quân Lam Sơn.
Nhằm đẩy mạnh thủ đoạn đồng hóa, giặc Minh còn bắt nhân dân ta từ bỏ
những phong tục tập quán cổ truyền vốn là đặc điểm cả văn minh Đông Nam Á
nông nghiệp bản địa, để tuân theo văn hóa Trung Hoa gốc du mục. Chúng cấm
nhân dân không được nhuộm răng đen, mặc váy mà phải tết tóc dài, mặc quần
dài như người Trung Hoa. Mặt khác, chúng còn mở nhiều trường dạy chữ hán

để đào tạo tay sai, đưa vào nhiều sách kinh, tạo điều kiện cho nền văn hóa Đông
Á nho giáo xâm nhập vào xã hội Đại Việt.
Hai mươi năm thuộc Minh đã để lại nhiều hậu quả xã hội – văn hóa lâu dài
và sâu đậm trong đời sống Đại Việt.
1.2. Khái quát nhân vật lịch sử Trần Nguyên Hãn.
“Trần Nguyên Hãn là người xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch (nay thuôc
tỉnh Vĩnh Phúc) có học thức, giỏi binh pháp. Ông theo Lê Thái Tổ (Lê Lợi) khởi
nghĩa, có công lớn trong sự nghiệp đánh quân Minh, được phong hàm Đại Tư
đồ, chức Tả Tướng Quốc” [7, 284].
Hiện nay chưa có tài kiệu thống nhất về năm sinh của ông. Có thể theo ý
kiến của tác giả Lê Kim Thuyên (nhà nghiên cứu lịch sử Vĩnh Phúc), Trần
Nguyên Hãn sinh năm 1390 (năm Canh Ngọ, đời Trần Thuận Tông)
Ông là con ông Trần Án (Trần Thuần Đức) và bà Lê thị Hoàn. Ông là chắt
nội của Trần nguyên Đán (đời thứ 9), Trần Thúc Quỳnh (đời thứ 10), Trần
Thuần Đức (đời thứ 11), và Trần Nguyên Hãn ( đời thứ 12). Theo Lê Kim
Thuyên, thì Trần Nguyên Hãn là cháu 7 đời của chiêu Minh Đại vương Trần
Quang Khải, là hậu duệ độc nhất của gia đình cụ Trần Nguyên Đán [12, 50].
Ông sinh ra và lớn lên tại Sơn Đông. Ông Trần Án và bà Lê Thị Hoàn đã
lên địa đầu trang Sơn Đông để lập một trang trại trồng trọt và làm nghề dầu dọc
(ép dầu hạt dọc) một việc làm công phu vất vả và cần nhiều lao động.


16

Theo thần tích tại Sơn Đông, năm ông 18 tuổi, bố mẹ ông đều mất cả. Ông
đi bán dầu dọc kiếm sống. Đây cũng là thời kì quân Minh đã đô hộ nước ta.
Hiện nay tại xã Sơn Đông còn truyền 4 câu chuyện về tuổi thơ lao động và thời
kì “nuôi chí giết giặc” của ông:
Câu chuyện nàng Thị Duy:
Thuở mới lớn, vào một buổi câu cá bên Đông Hồ bờ sông Lô, Trần Nguyên

Hãn thấy một xác người trôi nổi trên sông. Ông vớt lên bờ, đào huyệt chôn cất
tử tế, rồi đặt tên người phụ nữ bất hạnh tên là: Nàng Thị Duy. Trước khi từ biệt,
ông chấp tay cầu khẩn:
- Nay nàng gặp nạn, ta đã cứu nàng. Sau này nếu ta gặp nạn, mong nàng
cứu ta.
Khi đã làm tướng với Lê Lợi, trong một trận bị vây hãm ông phải náu ở
trên cây bồ đề. Nhớ đến người xưa ông cầu khẩn, cảm ứng, nàng Thị Duy đã
biến thành con cáo trắng chạy ra, do vậy đàn chó săn của quân Minh đuổi theo
con cáo và ông thoát nạn.
Câu chuyện thanh gươm thần và đá mài gươm.
Thuở thiếu thời, Trần Nguyên Hãn vẫn thường cày cuốc trồng trọt ở khu
đất cạnh nhà. Một hôm cày lật được một thanh sắt dài, trông tựa như lưỡi gươm,
Trần Nguyên Hãn đem cất vào nhà. Đêm đến thanh sắt lấp lánh ánh sáng. Biết
là báu vật trời cho, ông đi đâu cũng mang theo bên mình.
Đêm đến, ông thường đem gươm ra mài ở hòn đá lớn, bên bờ ao Tó. Hòn
đá mài ấy nay có tên là “đá mài gươm”. Đá mài gươm có một vết lõm như vết
chém. Tương truyền là vết chém thử gươm thần của Trần Nguyên Hãn.
Về sau, khi đi bán dầu qua bến đò sông Đáy làng Phú Hậu, lại được cái
chuôi gươm ở đầu bè của ông hàng chài vớt từ dưới sông lên, thanh gươm từ
đấy công hiệu. Khi vào đến Lam Sơn ông dâng vua Lê Lợi.
Chuyện áo ma (ma y).


17

Thuở mới lớn, Trần Nguyên Hãn vẫn thường đi đơm cá, tôm tép ở ngoài
đồng. Các xứ đồng chằm Xoan, đồng Đè là nơi ông qua lại hằng ngày.
Một buổi tối, khi ra thăm thì trong giỏ đã thấy có nhiều tôm cá. Sáng sớm
hôm sau lại hết cả. Ông sinh nghi liền để ý đi rình. Trong một đêm mưa gió, ông
gặp một người cao lớn, đang dốc tôm tép ở giỏ vào mồm để ăn, ông giơ gươm

thần lên dọa, thì đó là một con ma có hình dáng kì dị. Con ma sợ van nài:
- Ngài nhờ có gươm thần nên mới bắt được tôi. Nay nếu ngài tha cho tôi,
tôi xin biếu ngài một cái áo, áo có trăm cúc, nếu cài đủ thì có sức tàng hình
không ai có thể nhìn thấy được. Trần Nguyên Hãn ưng lời, từ đó ông có áo tàng
hình, gọi là Ma y. Nhờ vậy mà sau này xung trận trong lúc hiểm nghèo ông đều
thoát nạn.
Đi bán dầu
Lớn lên, Trần Nguyên Hãn thường đi bán dầu ở chợ Gốm (chợ quê ông),
chợ Bạch Hạc và chợ Bồ Sao, vẫn thường lưu ý tìm đồng chí. Đêm đêm ông vẫn
vào đền Bạch Hạc ngủ lại, cầu mộng. Một lần thấy thần núi Tản Viên đến rủ
thần Bạch Hạc lên thiên đình hội họp. Thần đền Bạch hạc nói với thần núi Tản
Viên, cáo là nhà có khách quý nên xin vắng. Nửa đêm thần núi Tản Viên về nói
với thần đền Bạch Hạc rằng:
- Hôm nay hội họp thiên đình, thượng đế đã ký lệnh cho Lê Lợi, người
Lam Sơn làm vua nước Nam, tả tướng Gốm, hữu tướng Đăm.
Nghe đến đó Trần Nguyên Hãn cả mừng và tin tưởng, rồi ông lai đi tìm vào
Lam Sơn theo vua Lê.
Trần Nguyên Hãn khi vào Lam Sơn, Lê Lợi cũng biết được tài lược của
ông, cho nên đãi ngộ rất hậu, cho ông được dự bàn mưu kín, ban cho ông chức
tư đồ. Ông theo vua đánh giặc, lập được rất nhiều công lao.


18

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược, ông là một trong
những tướng cao cấp nhất của quân khởi nghĩa Lam Sơn, có tài cầm quân. Tên
tuổi của ông gắn với 4 sự kiện chính:
- Sự kiện thứ nhất, diễn ra vào năm Canh Thìn (1424) tại khu vực Quảng
Bình và Quảng Trị ngày nay. Bấy giờ khi quân đang chuyển hướng tấn công
vào Nghệ An rất quyết liệt. Lê lợi sai ông cùng các tướng khác đem hơn 1000

quân và một thớt voi vào đánh Bố Chính, giải phóng được Tân Bình, Thuận
Hóa, thu nạp được mấy vạn quân bổ sung cho lực lượng khởi nghĩa.
- Sự kiện thứ hai diễn ra vào cuối năm 1426 (năm Bính Ngọ), chiến dịch
vây thành Đông Quan, với 100 chuyến thuyền xuất phát theo dòng sông Hát
(Quảng Oai - Sơn Tây), đêm 23-10, ông tiến quân về Đông Bộ Đầu, đánh vào
phía bắc thành Đông Quan, cắt đứt cầu nối giữa Hà Nội và Gia Lâm, tiêu diệt
đạo quân giữ thành của tướng nhà Minh là Vương Thông. Sau trận này, Trần
Nguyên Hãn được Lê Lợi gia phong Thái Uý, đứng hàng đầu các tướng lĩnh.
- Sự kiện thứ ba diễn ra vào cuối năm 1427 (Đinh Mùi). Bấy giờ, Lê Lợi
chủ trương dốc phần lớn lực lượng tinh nhuệ nhất vào trận quyết chiến chiến
lược đánh viện binh của quân nhà Minh, một trong những phần việc chuẩn bị
quan trọng cho trận đánh lịch sử này là phải hạ thành Xương Giang (một điểm
nằm dọc trên đường quốc lộ từ Hà Nội đi Lạng Sơn ngày nay), giặc Minh có 10
ngàn quân, do 5 tướng chỉ huy việc canh giữ, chúng lại gôm nhiều dân quanh
vùng về ở bọc làm bia che đỡ cho chúng. Ông Trần Nguyên Hãn có vinh dự
được cử cùng với Lê Sát chỉ huy trận đánh này. Sử cũ chép lại rằng: Ông đến
nơi, sai quân đào đường hầm xuyên qua thành và dùng câu liêm, cùng các thứ
giáo mác, nỏ cứng, hoả pháo... bốn mặt cùng đánh vào, không đầy một giờ
(tương ứng với hai tiếng đồng hồ ngày nay) đã hạ được thành Xương Giang,
tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân giặc giữ thành, chém đầu tướng Thôi Tụ, bắt


19

sống tướng Hoàng Phúc, các tướng lĩnh khác phải nhảy xuống thành tự tử như
tướng Lý Nhậm và tướng Kim Dận [5, 407].
- Sự kiện thứ tư cũng diễn ra cuối năm 1427. Sau trận đại bại thảm hại của
lực lượng viện binh ở Xương Giang, Vương Thông buộc phải quỳ gối đầu hàng.
Tại hội thề Đông Quan, ông Trần Nguyên Hãn là một trong những đại diện cao
cấp của Lam Sơn dự lễ ký hoà ước, tướng Vương Thông xin rút toàn bộ quân

đội nhà Minh ra khỏi đất nước ta. Với những chiến công của Trần Nguyên Hãn,
trong cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí” Phan Huy Chú đã viết: “khi vua
ước hòa với Vương Thông cùng thề ở phía Nam thành Đông Quan. Trong tờ
hòa ước kê tên những người đầu mục cả nước thì tên Hãn (Trần Nguyên Hãn) ở
thứ nhì, liền với tên vua” [8, 319]. Tháng ba năm Mậu Thân (1428), sau chiến
thắng quân Minh xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất nước, triều đình nhà Lê
định công ban thưởng quần thần, ông Trần Nguyên Hãn đã được Vua Lê Lợi tấn
phong “Tả Tướng Quốc” và được đổi sang họ nhà Vua, gọi là Lê Hãn.
Cũng trong năm 1428 - năm Thuận Thiên thứ nhất, do cảm nhận có sự xuất
hiện dấu hiệu lòng đố kỵ, ghen tuông trong triều đình, nên ông Trần Nguyên
Hãn đã xin về hưu; được Vua Lê Lợi chấp thuận và ban cho 100 mẫu ruộng
cùng một con ngựa để trở về Sơn Đông, huyện Lập Thạch nơi sinh ra ông. Tại
nơi đây, ông Trần Nguyên Hãn lập phủ đệ, đóng thuyền để hưởng thú vui cùng
quê hương thôn dã. Một năm sau đó, vì sự ganh ghét hiềm khích của bọn ô
quan, đã vu cáo ông Trần Nguyên Hãn có ý làm phản triều đình. Vua Lê Lợi
nghe theo lời ton hót ấy, đã hạ lệnh triệu hồi ông Trần Nguyên Hãn về kinh để
khảo vấn... Trên đường về Thăng Long, ông tự trẫm mình xuống dòng sông Lô.
Trần Nguyên Hãn mất vào ngày 26 tháng 10 năm Kỷ Dậu (1429) khi ở tuổi 39.
CHƯƠNG 2: TẦM NHÌN THỜI ĐẠI CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRẦN
NGUYÊN HÃN.


20

2.1. Tầm nhìn thời đại của Trần Nguyên Hãn trong việc xây dựng
nghĩa quân, xây dựng căn cứ Rừng thần.
2.1.1. Trần Nguyên Hãn xây dựng nghĩa quân, xây dựng căn cứ Rừng thần.
Khi quân Minh vào xâm lược nước ta, ông không chịu được cảnh áp bức
lầm than của nhân dân bởi quân giặc, ông luôn có chí cứu đời giúp dân.
Trong thời kì ông đi bán dầu khắp nơi để nghe ngóng tình hình, tìm người

cùng chí hướng chờ ngày giết giặc. Trong thời gian đó, tại khu rừng Đức Lễ xã
Văn Quán, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc (còn lưu truyền rằng): “Trần
Nguyên Hãn có căn cứ luyện quân tại khu rừng thần trước khi vào Lam Sơn
theo Lê Lợi”. Truyện này được ghi trong bản thần tích thờ Trần Nguyên Hãn tại
Đức Lễ do Nguyễn Bính là quan Hàn Lâm lễ viện, đông các Đại học sĩ viết năm
Hồng Phúc nguyên niên 1572.
Rừng Thần là căn cứ hoạt động của Trần Nguyên Hãn. Sở dĩ Trần Nguyên
Hãn lập căn cứ tại đây vì: đây là khu rừng rậm, địa thế hẻo lánh, xa sông Lô, xa
đồn bốt giặc, cụ thể là đồn Tam Giang bên bờ sông Bạch Hạc (ngã ba sông Bạch
Hạc – Phú Thọ ngày nay). Từ căn cứ Rừng Thần, Trần Nguyên Hãn có thể mở
rộng địa bàn hoạt động của mình vào rưng núi Sáng Sơn1 hoặc ra tới bến sông
Bạch Hạc.
Sau khi chọn địa điểm Rừng thần làm căn cứ hoạt động, luyện quân, Trần
Nguyên Hãn lập điền trại và tuyển mộ hương binh trong vùng. Trong Đại vương
phả lục có ghi: tại vùng Sơn Đông, Đức Lễ, Trần Nguyên Hãn đã tuyển mộ
được 5000 hương binh, lập đồn trại luyện quân từ khu vực Rừng Thần…
Thời gian căn cứ của Trần Nguyên Hãn bắt đầu hoạt động là tương ứng với
nhà Minh đã đánh bại nhà Hồ (1407). Thời gian này cũng tương ứng với thời kì
truyền thuyết mài gươm ở Sơn Đông, nghĩa là trước khi ông vào Lam Sơn tìm
Lê Lợi.
1

Dãy Sáng Sơn thuộc hai huyện Sông Lô và Lập Thạch (Vĩnh Phúc), cách tỉnh lỵ Vĩnh Yên 30km về phía Tây Bắc.
Sáng Sơn nằm sát Tam Đảo, nối tiếp núi Lịch (Sơn Dương – Tuyên Quang). Đỉnh núi Sáng cao 640m so với mặt
nước biển và hợp với hàng chục ngọn núi to nhỏ khác thành một dãy dài gọi là dãy Sáng Sơn.


21

2.1.2. Phân tích tầm nhìn thời đại của Trần Nguyên Hãn qua việc chiêu tập

nghĩa quân, xây dựng căn cứ Rừng thần.
Tầm nhìn thời đại của ông trước hết biểu hiện ở việc ông đã nhận thấy cảnh
mất nước, nhà tan từ đó ông đã bỏ cuộc sống đời thường để chiêu tập nghĩa
quân chống nhà Minh, giành độc lập dân tộc. Hành động đó là biểu hiện đầu
tiên của con người có tấm lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc, dám tự mình đứng
lên triêu tập nghĩa quân chờ thời cơ cứu nước, điều mà con người thời đó không
phải ai cũng làm được. Nhưng đó đồng thời cũng thể hiện một cách nhìn thời
đại của ông. Nhân dân ta có truyền thống đấu tranh kiên cường trong giữ ghìn
nền độc lập dân tộc, mỗi khi có giặc ngoại xâm thì truyền thống đó lại bùng lên
mạnh mẽ quét sạch lũ cướp nước và bán nước 2. Và ông tin tưởng rằng trước sự
tàn bạo của quân Minh xâm lược thì nhất định khí thế đó sẽ lại bùng lên mạnh
mẽ khi có một lực lượng tiên tiến lãnh đạo. Qủa đúng như sự tin tưởng của ông,
lịch sử đã chứng minh. Cuối năm 1426, Trần Nguyên Hãn huy động thủy quân
và hơn 100 chiến thuyền theo Lung Giang ra cửa sông Hát, thuận dòng xuôi
xuống bến Đông Bộ Đầu, sông Hồng để vây thành Đông Quan. Trong thời gian
đó ông đã có dịp quay về Lập Thạch để đem theo những gia thần nội phủ và các
hương binh của mình tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn [12, 89].
Một yếu tố chứng minh nữa là ông đã xây dựng căn cứ nhưng không dựng
cờ khởi nghĩa ở căn cứ Rừng thần và Sơn Đông, chỉ chiêu mộ nghĩa quân, luyện
tập cõ nghệ. Vậy một câu hỏi đặt ra là khi quân Minh vào xâm lược nước ta, với
ý chí giết giặc, lực lượng sẵn có trong tay sao ông không tự dựng cờ khởi nghĩa?
Phải chăng ông đã có những nhận về vị trí đại lý của căn cứ của Rừng
Thần.
Sự lựa chọn của ông xuất phát từ những lý do:
+ Trước tiên, khu vực căn cứ của ông rộng, nhưng lại tương đối bằng
phẳng không hiểm trở như rừng núi Lam Sơn chẳng hạn. Hơn nữa lực lượng của
2

Mượn ý câu nói của Bác Hồ “



22

ông ít so với quân giặc đông hơn gấp bội thì như trứng chọi đá, lại vị trí gần
trung tâm chỉ huy đô hộ giặc về phía đông, có thành Tam Giang của giặc ở mặt
nam, phía tây có dòng sông Lô chảy xiết, dễ bị bao vây cô lập. Trường hợp nếu
ông dựng cờ khởi nghĩa có thể thuận lợi cho giặc Minh tập trung nhanh lực
lượng đàn áp, đặc biệt là chúng đánh bất ngờ, lực lượng nghĩa quân có thể bị
tiêu diệt.
+ Địa hình của căn cứ là vùng trung du – đồng bằng, sườn núi Sáng Sơn,
Tam Đảo không mấy hiểm trở, việc tác chiến với lối đánh du kích, phục kích,
đánh bất ngờ phù hợp với đội quân nhỏ như nghĩa quân chống lại đội quân lớn
hơn khó có thể phát huy tác dụng một cách có hiệu quả, khó có thể chống lại lực
lượng mạnh của địch.
+ Hơn nữa, căn cứ của nghĩa quân lại trên vị trí nằm gần tuyến đường quan
yếu từ Đông Quan lên ải Lê Hoa (Hà Giang ngày nay). Như vậy khi nghĩa quân
khởi nghĩa thuận lợi cho địch cơ động triển khai lực lượng, nhanh chóng đàn áp.
Từ trên đây có thể thấy ông cũng là người có chí cứu nước, có lực lượng
trong tay, lại thuộc dòng dõi nhà Trần, nhưng để thực hiện chí hướng cứu đời
giúp dân của mình ông lại hành động khác với nhiều người. Ông không hành
động đơn phương độc mã. Mà biết mình, biết người, biết ta, biết địch, ông tránh
không phiêu lưu mạo hiểm nổi dậy ở một địa bàn nằm gọn trong vòng kiểm soát
chặt chẽ của địch, lại trên một tuyến giao thông trọng yếu, khó bảo toàn lực
lượng trước sự tấn công mạnh của địch. Và khi dựng cờ khởi nghĩa thì với địa
hình như vậy, nghĩa quân cũng khó có thể phát triển lực lượng và đánh lan ra
mở rộng địa bàn hoạt động
Trước tình thế như vậy, ông đi tìm một hướng khác, một căn cứ chiến lược
an toàn hơn đảm bảo sự thành công của nghiệp lớn.
2.2. Tầm nhìn thời đại của Trần Nguyên Hãn trước cuộc khởi nghĩa
quý tộc Trần và các lực lượng khởi nghĩa khác.



23

2.2.1. Các cuộc khởi nghĩa của quý tộc Trần.
Đầu thế kỉ XV, bối cảnh trong nước có những biến động sâu sắc. Hồ Quý
Ly lật đổ nhà Trần thành lập nhà nước mới, quốc hiệu Đại Ngu (1400). Tuy
nhiên nhà Hồ lại không làm tròn sứ mệnh của mình là giải quyết khủng hoảng
kinh tế xã hội đương thời làm cho đất nước thêm suy yếu, lòng dân oán hận, đời
sống nhân dân thêm lầm than. Lợi dụng tình hình đó, nhà Minh (Trung Quốc)
tiến hành xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ vì không được lòng
dân nên nhanh chóng thất bại trước cuộc xâm lăng của giặc Minh. Đất nước bị
rơi vào tay quân Minh đô hộ. Nhà Minh tiến hành cai trị và bóc lột nhân dân ta
một cách thậm tệ, dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi
nghĩa của quý tộc nhà Trần thể hiện tinh thần yêu nước, với quyết tâm đánh
đuổi giặc Minh xâm lược giành lại độc lập dân tộc.
Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi, Trần Qúy Khoáng tiêu biểu cho bộ phận
quý tộc có ý chí sục sôi đền nước trả thù nhà.
Quân Minh xâm lược khi vào nước ta, chúng đã giương ngọn cờ khôi phục
nhà Trần để lừa bịp, khiến cho bao quan lại quý tộc Trần theo chúng, can tâm
làm tay sai cho giặc, bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình mà phản bội lại dân tộc,
những tên gian ác này điển hình như: Lương nhữ Hốt… nhưng cũng không ít
quý tộc quan lại cũ nhà Trần càng sục sôi ý chí đền nợ nước trả thù nhà, họ đã
hào hứng dựng cờ khởi nghĩa để lấy lại giang sơn, đánh đuổi giặc Minh khôi
phục lại nhà Trần.
- Cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi.
Trần Ngỗi (có chính sử chép là Trần Qũy) là con thứ của Trần Nghệ Tông
(1370-1372) đời Trần, được phong hàm Giản Định vương. Quân Minh xâm lược
nước ta, Trần Ngỗi được sự giúp đỡ của Trần Triệu Cơ đã dựng cờ khởi nghĩa,
ngày 1 tháng 11 năm 1407. Trần Ngỗi tự xưng là Giản Định Hoàng đế, đặt niên

hiệu là Hưng Khánh. Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi được bắt đầu từ đó. Cuộc


24

khởi nghĩa này do quý tộc nhà Trần lãnh đạo nên ngoài mục đích đánh đuổi giặc
Minh, còn nhằm khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần. Vì vậy trong những bộ sử
phong kiến trước đây, người ta coi việc Trần Ngỗi lên ngôi vua là mở đầu thời
kì hậu Trần trong lịch sử.
Nghĩa quân của Trần Ngỗi vừa mới thành lập thì bị quân Minh đến đánh.
Nghĩa quân tan vỡ phải chạy vào Nghệ An. Nghe tin Trần Ngỗi khởi nghĩa
nhiều quý tộc, quan lại nhà Trần, Hồ tìm đến để hợp mưu khởi nghĩa như: Đặng
Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Phạm Chấn…
Đến cuối năm 1407, Trần Ngỗi đã tập hợp được lực lượng khá lớn tại Nghệ
An. Đầu năm 1408, Trần Ngỗi đưa quân đánh chiếm Nghệ An, Diễn Châu do
bọn quý tộc Trần đầu hàng trấn giữ: Trần Thúc Giao (con Trần Nguyên Đán giữ
Diễn Châu, Trần Nhật Chiêu (tướng nhà Trần) giữ Nghệ An. Hạ được thành,
Trần Ngỗi đem giết chết hết bọn quý tộc, đó là chiến thắng đầu tiên của nghĩa
quân.
Giữa năm 1408, tướng Đặng Tất đánh phá được tên thổ quan trấn giữ Tân
Bình là Phạm Thế Căng ở cửa Nhật Lệ, bắt được hắn và đem giết.
Sau trận đó nghĩa quân đã làm chủ được một vùng rộng lớn từ Thanh Hóa
trở vào. Nhân dân hưởng ứng và theo nghĩa quân.
Cuối năm 1408, viện binh của Mộc Thạnh hợp sức với quân của Lữ Nghị
tập trung lực lượng ở bến Cô Bô (tại xã Hiếu Cổ, nay thuộc huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định). Ở đây nghĩa quân đã đánh bại quân Minh trong trận lớn vào ngày
30 tháng 12 năm 1408. Giết chết thượng thư bộ binh Lưu Tuấn, đô đốc Lữ
Nghị, đô chỉ huy sứ Liễu Tông và một số quân Minh. Mộc Thạnh chạy thoát
vào thành Cổ Lộng ở gần đó ( xã Bình Cách, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định,
thường gọi là thành Cách, do quân Minh xây dựng).

Giản Định muốn thừa thắng, tiến quân lên đánh lấy lại Đông Đô ngay.
Đặng Tất ngăn lại, muốn bắt hết bọn giặc sống sót, không để lo ngại về sau. Vua


25

tôi dùng dằng không quả quyết. Quân Minh ở Đông Quan kéo đến giải thoát cho
Mộc Thạnh.
Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai tướng tài, bị sự dèm pha của các
lộng thần, Trần Ngỗi lại lo cho địa vị của mình nên đã quyết ý ám hại hai người.
Đầu năm 1409, Trần Ngỗi cho gọi hai người đến và đem giết đi.
Hành động đó của Trần Ngỗi làm các tướng bỏ đi, nhiều hào kiệt đang sẵn
đến phò tá, thấy thế lại thôi. Cuộc khởi nghĩa đang phát triển thì bị ngưng lại,
suy yếu rồi tan vỡ nhanh chóng. Nguyên nhân thất bại chính là vì những người
cầm đầu thiếu sự đồng tâm nhất trí với nhau, vì bộ phận lãnh đạo nói chung
thiếu khả năng huy động và tập hợp lực lượng kháng chiến toàn dân.
- Cuộc khởi nghĩa Trần Qúy Khoáng.
Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân bị giết. Các con của hai ông là Đặng Dung
và Nguyễn Cảnh Dị đem quân bản bộ vào Thanh Hóa, đón Trần Qúy Khoáng
đến Nghệ An, lập làm vua. Qúy Khoáng là con thứ Mẫn Vương Ngạc, cháu vua
Trần Nghệ Tông và cũng là cháu Trần Ngỗi.
Ngày 2 tháng 4 năm 1409, Trần Qúy Khoáng lên ngôi vua ở Chi La ( nay là
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), xưng là Trùng Quang Đế, dùng Nguyễn Súy làm
Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Bình chương sự,
Nguyễn Chương làm Tư mã. Nhằm hợp nhất lực lượng nhà Trần, ngày 20 tháng
4, theo kế hoạch của Trần Qúy Khoáng, Trần Ngỗi bị dẫn về Nghệ An, Trùng
Quang khiêm nhường mặc thường phục xuống thuyền đón rước, lập Trần Ngỗi
làm Thượng Hoàng để cùng chung sức đánh giặc. Khi đó, quân của Trần Ngỗi
là Lê Triệt và Lê Nguyên Đỉnh dấy quân chống lại xong bại lộ, không thành.
Tháng 7 năm 1409, hai vua ra quân đánh giặc. Trần Ngỗi tiến quân tới Hạ

Hồng (Vùng Hồng, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí 3 nói về phủ Bình Giang
và Ninh Giang: “Xưa gọi là Hồng châu, cuối đời Trần chia làm châu Thượng
Hồng và châu Hạ Hồng...”. Vùng Hồng gồm các huyện Cẩm Giàng, Bình
3

Xem tập 3, nói về tỉnh Hải Dương, trang 376 và trang 378


×