Tải bản đầy đủ (.) (8 trang)

Tài liệu Đề tài " MỘT SỐ YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN CƠ CHẾ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.6 KB, 8 trang )





Đề tài " MỘT SỐ YẾU
TỐ CƠ BẢN TÁC
ĐỘNG ĐẾN CƠ CHẾ
XÂY DỰNG VÀ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT
TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN
VIỆT NAM"


MỘT SỐ YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN CƠ
CHẾ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VIỆT NAM
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trước hết phải hoàn
thiện hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng các yêu cầu của giai đoạn mới – giai đoạn phát
triển dân chủ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi nói đến pháp luật ở Việt Nam, chúng ta thường có quan niệm: pháp luật nước ta chưa
đi vào thực tiễn, chưa phản ánh hết các quan hệ kinh tế – xã hội. Hay nói cách khác, các
quy phạm pháp luật chưa điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội mà người dân mong
muốn. Chúng ta đang chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, nhưng các yếu tố của kinh tế
thị trường lại chưa được các quy định của pháp luật điều chỉnh (hoặc nếu có thì rất chậm
như trong lĩnh vực đầu tư, đổi mới doanh nghiệp, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, tổ chức bộ
máy…). Điều này cũng dễ hiểu vì các lý do sau đây:
- Chưa có một tư duy mới về xây dựng pháp luật hiện đại, đặc biệt là định hướng tư
tưởng chính sách cho việc xây dựng pháp luật;


- Quá trình xây dựng các văn bản còn cục bộ, bản vị, kéo lợi thế về bộ ngành( là cơ quan
chủ trì), đẩy khó khăn cho các bộ, nghành khác;
- Việc phối kết hợp trong xây dựng pháp luật giữa các chủ thể tham gia xây dựng pháp
luật chưa tốt, đặc biệt là việc tham gia ý kiến của các chủ thể chịu sự tác động trực tiếp
của các văn bản;
- Thiếu thông tin khoa học trong xây dựng pháp luật;
- Trình độ xây dựng (kỹ thuật xây dựng pháp luật) của cán bộ, công chức thấp;
- Kinh phí cho việc xây dựng pháp luật không đáp ứng yêu cầu xây dựng pháp luật;
- Kiểm tra việc thực hiện pháp luật chưa tốt v.v…
Có thể liệt kê ra nhiều lý do, nhưng nói theo khía cạnh xây dựng pháp luật, chúng ta chưa
có một cơ chế xây dựng và hoàn thiện pháp luật một cách khoa học nhằm bảo đảm tính
khả thi của pháp luật.
Qua nghiên cứu và thực tiễn xây dựng pháp luật, chúng tôi cho rằng, có một số yếu tố tác
động trực tiếp đến cơ chế xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, cụ thể là ảnh hưởng đến
các bước, các giai đoạn của quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp
luật (từ khâu định hướng tư tưởng chính sách đến xây dựng và đưa pháp luật vào đời
sống).
1. Về định hướng xây dựng pháp luật
Mỗi một văn bản quy phạm pháp luật khi được chủ thể có thẩm quyền ban hành cần
hướng tới một mục đích nhất định (đạo luật ra đời nhằm mục đích gì, giải quyết các vấn
đề gì trong thực tiễn?…). Như vậy, cần phải có một bộ phận hoạch định chính sách (cần
có tư duy chiến lược). Về vấn đề này, chủ thể thực hiện không ai khác là các chính khách,
các chiến lược gia (ở Chính phủ là các thành viên Chính phủ). “Không có Chính phủ nào
thụ động ngồi chờ các quy luật mà phải tác động vào quy luật để định hướng có lợi cho
hoạt động của Chính phủ mình”.[1] Ở nước ta, nhiều chủ thể xây dựng pháp luật, nhưng
cần xác định chủ thể nào là chính trong định hướng xây dựng pháp luật. Theo chúng tôi,
hiện nay, trên 90% các dự án luật do Chính phủ trình Quốc hội, các văn bản dưới luật
cũng chủ yếu do Chính phủ ban hành, do đó, định hướng này nên giao cho Chính phủ.
Chính phủ cần có tư duy chiến lược trong xây dựng pháp luật và có đầy đủ cơ chế phối
hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội trong việc định hướng xây dựng pháp luật.

2. Về lập chương trình xây dựng pháp luật
Trong điều kiện hiện nay, cần có chương trình xây dựng pháp luật theo từng thời gian
(dài hạn, ngắn hạn và hàng quý, tháng). Chương trình này chỉ được lập theo từng cấp
thẩm quyền (Quốc hội, Chính phủ, các chủ thể sáng kiến pháp luật khác). Trong đó,
chương trình của Chính phủ do các Bộ, ngành (hoạch định chính sách) đề xuất. Khi đề
xuất, phải chú ý đến tính khả thi, dự báo đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội và dự báo tác
động của các chế định khi được ban hành. Chương trình phản ánh định hướng xây dựng
pháp luật, do đó cần phải thực hiện nghiêm túc tiến độ và chất lượng. Cần kiên quyết đưa
ra khỏi Chương trình những dự án, dự thảo không bảo đảm chất lượng (bao gồm cả tính
khả thi của dự án, dự thảo). Qua thực tiễn cho thấy, Chương trình xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật là khâu tiên quyết cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nếu
không có Chương trình thật sự khoa học thì việc định hướng xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật bởi các chủ thể khác nhau sẽ bị chệch hướng và không bảo đảm tính khả
thi.
3. Về quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
Hiện nay chúng ta đã có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (cả ở Trung ương và
địa phương). Tuy nhiên, tính khả thi và chất lượng của dự án, dự thảo phụ thuộc nhiều
vào quy trình ban hành, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Theo các quy định pháp
luật hiện hành, quy trình ban hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là 23
bước. Mỗi bước lại có những quy định cụ thể rất phức tạp không cần thiết (Chẳng hạn,
theo quy định hiện hành cần phải thẩm định, thẩm tra của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính
phủ hoặc quy định Ban soạn thảo bao gồm các nhà quản lý của các Bộ, ngành. Trong quá
trình soạn thảo, các thành viên của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành
được mời là thành viên Ban soạn thảo. Vậy có cần thiết phải thực hiện thủ tục thẩm định,
thẩm tra, xin ý kiến của các Bộ, ngành này v.v…)
Quy trình xây dựng là cần thiết, nên tập trung vào những khâu, giai đoạn quan trọng,
không nên quá câu nệ vào hình thức mà bỏ khâu nội dung. Theo chúng tôi, để có hiệu
quả, quy trình cần tập trung:
- Thành lập Ban soạn thảo (bao gồm các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa học
của các cơ quan, tổ chức có liên quan); thành lập Tổ biên tập gồm các chuyên gia giỏi ở

các Bộ, ngành , trường đại học, viện nghiên cứu có liên quan đến chuyên môn và luật
học.
- Đánh giá các quan hệ xã hội mà các quy phạm (dự kiến) sẽ điều chỉnh (cần sử dụng
phương pháp xã hội học, so sánh pháp luật…để tham khảo các ý kiến cần thiết); đồng
thời, tổng kết thực tiễn các hoạt động liên quan đến các quy phạm đã có (trong trường
hợp sửa đổi, bổ sung) hoặc chưa có pháp luật điều chỉnh nhưng đã có tiền lệ hoặc các
tranh chấp xã hội đã phát sinh… Ví dụ, các quy định của Dự án Luật Hội, Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Trưng cầu ý dân… đều có kiến nghị lùi việc đưa ra xem xét vì tính khả
thi và dự báo tác động thấp.
- Lấy ý kiến nhân dân, các đối tượng chịu sự tác động của các văn bản quy phạm pháp
luật nhằm công khai, minh bạch hoá chính sách, đồng thời tiếp nhận các phản hồi (cả tiêu
cực và tích cực) đối với dự án, dự thảo. Hiện nay, chúng ta có quy định này trong luật,
các văn bản dưới luật (Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số
161/NĐ-CP ngày 25/12/2005). Tuy nhiên, việc triển khai các quy định trong thực tiễn
còn nhiều hạn chế, đặc biệt là nhận thức của các cơ quan chủ trì soạn thảo về các nội
dung cần xin ý kiến và tiếp thu ra sao (Chúng ta chưa có cơ chế tiếp thu – giải trình khi
lấy ý kiến nhân dân).
- Trình các dự án, dự thảo. Điểm mấu chốt của việc trình không phải là các thủ tục mà là
trình bày các quan điểm khác nhau trong quá trình soạn thảo và quyết định các nội dung
đưa vào trong các dự án, dự thảo. Hiện nay có tình trạng, các cơ quan trình các ý kiến
khác nhau theo hướng “đá bóng” đến cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc cố giữ lại
các quan điểm cục bộ, bảo vệ ngành, lĩnh vực mình mà không có lập luận khách quan để
thuyết trình các vấn đề cần trình (đôi khi dự án, dự thảo lại phải quay về từ đầu). Tức là,
cần đề cao vai trò của Ban soạn thảo trong việc trình các dự án, dự thảo.
Các nội dung trên, thực chất là đòi hỏi một quy trình xây dựng pháp luật thực sự khoa
học, bảo đảm tính thời gian và chất lượng của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
4. Dự báo tác động pháp luật

×