Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Van hien Thang Long va truyen thong yeu nuoc yeunguoi qua buoc ngoat lich su cua Chieu doi do

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.73 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Văn hiến Thăng Long và truyền thống yêu nước, yêu người</b>


<b>qua bước ngoặt lịch sử của Chiếu dời đơ</b>



<b>I. Từ đỉnh cao của thời nay nhìn lại thời xưa</b>


Không bao lâu nữa, nhân dân cả nước sẽ cùng Hà Nội đầy niềm tự hào kỉ niệm ngàn năm lịch sử
của Thủ đô văn
hiến.


Biết bao nhiêu
thành tựu vẻ vang,
bao nhiêu chiến
công rực rỡ cùng
với bao nhiêu di
sản quý báu được
giữ lại cho đến hôm
nay đã làm nổi bật
lên những nét đặc
sắc nhất của văn
hiến Thủ đơ, nghĩa
là của <i>văn</i>
<i>hóa </i>và <i>con</i>


<i>người</i> Thăng Long
- Hà Nội.


Ngàn năm lịch sử là
một chuỗi dài
những gian nan thử
thách mà con người
Việt Nam trên


mảnh đất của Thủ
đô này đã vượt qua để bảo vệ đất nước, để xây dựng Thủ đô và để phát triển bản thân mình.


Khép lại lịch sử vẻ vang của ngàn năm cũ để Thủ đô bước vào ngàn năm đang tới, với những hứa
hẹn cực kì lớn lao và những khó khăn chưa từng có.


Thời đại mới đang đặt ra những vấn đề gì trước dân tộc ta hơm nay, đang địi hỏi những gì ở <i>trí tuệ</i>,
ở <i>phẩm chất</i>, ở <i>tài năng</i> của con người Thủ đô bước vào những cuộc chiến đấu mới?


Quá khứ đã để lại ở con người Hà Nội hôm nay những gì trong tồn bộ hành trang đi vào những
chặng đường mới của dân tộc, của cả loài người và của Thủ đô chúng ta? <i>Tiến lên</i> hay <i>tụt hậu, thất</i>
<i>bại </i>hay<i> thành cơng</i>, điều đó phụ thuộc khơng chỉ ở đường lối sáng suốt của Đảng và nhà nước, ở
trung ương và ở thành phố mà quan trọng hơn nữa là ở chính con người Thủ đơ. Đó là những con
người kế thừa truyền thống lâu đời của dân tộc và từ những thành tựu vẻ vang từ ngay mảnh đất
mang tên Thăng Long - Hà Nội. Đó cũng là những con người phải có đầy đủ bản lĩnh để làm tròn
mọi nhiệm vụ mà Tổ quốc Việt Nam và Thủ đơ đang đặt trên vai họ.


Chúng ta hiểu vì sao Đảng bộ và chính quyền Hà Nội đã đặc biệt quan tâm và khuyến khích giới trí
thức, các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ đi sâu vào tìm hiểu, khai thác mặt tích cực và khắc phục
mặt yếu kém mà lịch sử để lại ở con người Hà Nội hơm nay, góp phần đưa Thủ đơ và cả nước tiến
nhanh và vững chắc trên con đường <i>dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.</i>


Mong muốn rằng con người của Hà Nội phải là những con người <i>văn minh, thanh lịch, hiện đại</i>,
thành phố yêu cầu các nhà khoa học phải phát hiện ra những gì đang thúc đẩy và những gì đang cản
trở con người Hà Nội đạt tới những tiêu chuẩn nói trên? Vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu con người
Thăng Long - Hà Nội không chỉ ở ngày nay mà cả ở những di sản mà quá khứ còn để lại ở trong họ
và phải dự báo được chỗ mạnh và chỗ yếu của họ trước thử thách của ngày mai.


Tìm hiểu con người Hà Nội là một sự tiếp cận mang tính liên ngành từ các góc nhìn: sử học, dân
tộc học, khảo cổ học, kinh tế học, xã hội học, cùng với sự khái quát sâu sắc của triết học. Tuy


nhiên, cũng còn cần phải tận dụng sự tiếp cận của văn học nghệ thuật từ chiều sâu tâm hồn của con
người Hà Nội.


Khơng có con người Hà Nội như một kiểu người đặc thù, tách khỏi khối cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Con người Hà Nội chỉ là con người Việt Nam sinh sống, phát triển và tự khẳng định mình
trên một mảnh đất của Tổ quốc gọi là Thăng Long và Hà Nội. Phẩm chất của họ chính là phẩm chất
Việt Nam được vận động và biến đổi trong hoàn cảnh chung của đất nước và hoàn cảnh đặc thù của


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

địa phương. Phẩm chất của họ vừa mang tính phổ biến của dân tộc, vừa mang tính đặc thù của bản
thân họ.


Cũng như mọi người Việt Nam, con người Hà Nội khơng có những phẩm chất bẩm sinh, những
phẩm chất mà trời đất đã dành riêng cho họ từ thuở lọt lòng. Phẩm chất của họ khơng mang tính
ngẫu nhiên mà mang tính lịch sử. Những đặc trưng của họ được hình thành trong một môi trường
thiên nhiên và xã hội nhất định. Họ là sản phẩm của hồn cảnh của chính họ. Đúng là hoàn cảnh đã
tạo ra con người và con người lại tái tạo hoàn cảnh. Hoàn cảnh và con người tác động lẫn nhau,
cùng phát triển trong chiều dài lịch sử.


Vì lẽ trên, khơng thể chỉ xuất phát từ những sự kiện lịch sử lớn lao hoặc từ những hiện tượng diễn
ra hàng ngày mà suy luận về con người Hà Nội, mà đánh giá họ một cách chủ quan, mà gán cho họ
một cách tùy tiện những phẩm chất này hay phẩm chất khác.


Cho đến nay, trên sách báo, đã từng có nhiều lần ta tự đánh giá về ta. Người ngoại quốc qua nhiều
lần tiếp xúc với chúng ta cũng đã đánh giá về chúng ta. Tuy nhiên, mọi nhận định sẽ chỉ là thuần
túy tư biện nếu như tách con người Việt Nam hoặc con người Hà Nội ra khỏi hoàn cảnh lịch sử của
họ.


Những nhận xét của các học giả từ xưa đến nay về con người Việt Nam, con người Hà Nội chứa
đựng nhiều nhân tố hợp lí cần được xem xét và phân tích trên cơ sở khoa học. Ở đây, chúng tơi
thấy cần thiết nhìn lại những nhận định về con người mà nhiều nhà tư tưởng lớn của nhân loại đã


nêu lên trong lịch sử ở cả phương Đông và phương Tây.


Khổng Tử đã từng nói những phẩm chất tốt đẹp nhất về con người là <i>nhân, trí, dũng</i>. Điều này có
nghĩa là con người phải có tình u thương đối với mọi người trong gia đình và xã hội <i>(nhân)</i>, phải
có đầu óc sáng suốt <i>(trí)</i>và một ý chí mãnh liệt để thực hiện những mong muốn tốt đẹp của
mình <i>(dũng).</i> Ba điều trên phù hợp với ba đức tính mà nhiều học giả nêu lên như mục tiêu phấn đấu
của con người: <i>tình cảm, trí tuệ </i>và<i> ý chí</i>. Cũng có thể phân tích những điều đó như mối quan hệ
biện chứng giữa <i>trái tim, khối</i> óc và <i>bàn tay</i>.


Cũng có thể xuất phát từ học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội mà tìm hiểu con người
ở <i>lực lượng sản xuất</i>, ở <i>quan hệ sản xuất</i> và<i> ở kiến trúc thượng tầng</i> của xã hội. Điều này khiến ta
có thể xem xét con người trên ba lĩnh vực: trong quan hệ với thiên nhiên, trong quan hệ với xã hội
và trong đời sống tinh thần của bản thân. Giản đơn hơn, có thể tìm hiểu con người ở các mặt sinh
hoạt vật chất và tinh thần của họ mà cụ thể như ta thường nói là: lao động, tình thương và lẽ phải.
Ba mặt nói trên chính là ba lĩnh vực hoạt động cơ bản của con người trong tác động qua lại giữa
con người trong hồn cảnh thực tế của họ.


Chúng tơi nghĩ rằng, chỉ có xuất phát từ những lĩnh vực hoạt động cơ bản nói trên mới có thể thấy
được những phẩm chất bền vững tạo nên bản sắc của dân tộc Việt Nam, của con người Hà Nội.
Con người Việt Nam nói chung, trong đó có con người Hà Nội, chỉ có thể được hiểu một cách sâu
sắc khi đặt họ trong điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần của họ. Lịch sử đã đặt ra trước họ
mn ngàn khó khăn và thử thách, địi hỏi họ phải có phẩm chất để vượt qua hồn cảnh khó khăn
để tồn tại. Những phẩm chất đó <i>là sản phẩm</i> đồng thời là <i>điều kiện</i> tất yếu để họ sống được và phát
triển được trên lãnh thổ của họ.


Bè bạn chúng ta cũng như bản thân chúng ta từng ca ngợi dân tộc Việt Nam và con người Hà Nội
với đặc trưng là <i>yêu nước</i> và <i>thương người</i>, là <i>anh hùng</i> và <i>bất khuất</i>, là <i>mưu trí </i>và<i> sáng tạo</i>,
là<i> thanh lịch </i>và<i> văn hiến…</i>


Nhận định đó là đúng, nhưng những phẩm chất đó khơng phải chúng ta sinh ra đã có mà là sự kết


tinh từ xương máu, mồ hơi và nước mắt của bao nhiêu thế hệ mới có được và trở thành những
truyền thống bền vững trong bản sắc dân tộc.


Chính vì những lẽ trên mà chúng ta tìm hiểu con người Hà Nội trong quá khứ lâu đời của dân tộc
và từ bước ngoặt lịch sử của <i>Chiếu dời đô</i>.


<b>II. Từ truyền thống lâu đời của dân tộc</b>
<b>1. Trong quan hệ với thiên nhiên</b>


Chọn Thăng Long làm Thủ đô của cả nước, Lý Công Uẩn đã từ toàn bộ lãnh thổ của Tổ quốc chọn
lấy một mảnh đất có ưu thế nhất, thuận lợi nhất để xây dựng một trung tâm đầu não của cả dân tộc
về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Suốt một ngàn năm lịch sử, con người Thăng Long đã xây dựng Thủ đô ngày một rộng lớn và sạch
đẹp. Q trình con người cải tạo mơi trường thiên nhiên cũng là quá trình con người cải tạo bản
thân mình. Sự thành cơng của con người Thăng Long gắn liền với những công sức phi thường của
họ trong lao động sáng tạo và với những phẩm chất tinh thần mà họ đã tiếp thu từ quá khứ lâu đời
của ông cha họ.


Trước Thăng Long hàng chục thế kỉ, con người Việt Nam từ thời vua Văn Lang, Âu Lạc đã phải
vượt qua những thử thách mà môi trường thiên nhiên đặt ra trước sự tồn vong của họ.


Để sống được và trụ lại trên mảnh đất này, con người Việt Nam phải đương đầu với một môi
trường thiên nhiên vừa hào phóng, vừa khắc nghiệt.


Hàng năm, con sông Hồng đã rải hàng trăm triệu mét khối phù sa trên đồng bằng Bắc


Bộ, đem lại lớp màu mỡ vun đắp cho lúa, ngô, khoai, sắn… Nhưng cũng con sông


Hồng ấy lại tạo ra những trận lụt khủng khiếp cuốn sạch đi những mùa màng, nhà


cửa, lợn gà… đem lại chết chóc và đói rét.




Sơng Hồng chở nặng phù sa - Ảnh: Baovietnam.vn


<i>Khí hậu</i> Việt Nam, với lượng mưa và sức nóng của vùng nhiệt đới, đã tạo ra đất nước bốn mùa
xanh tươi. Khí hậu ấy đã thường xuyên đem lại sức khỏe cho nhân dân. Nhưng cũng chính khí hậu
ấy lại tạo ra những ngày mưa rào nắng gắt, có những lúc rét đến tận xương, có những lúc oi bức
khơng thể chịu được. Cũng chính khí hậu ấy đem lại dịch tễ, sâu bệnh, cướp đi bao nhiêu sinh
mệnh của người và vật, phá hoại cây cối, mùa màng.


Đối phó với tình hình trên, người Việt Nam thời xưa đã phải bỏ ra rất nhiều cơng sức mới có thể
sống được trên mảnh đất của mình để sản xuất, xây dựng và phát triển. Khơng phải nhân dân ta
sinh ra đã có sẵn đức tính kiên cường bất khuất như thế mà chỉ vì muốn sống được thế thì phải kiên
cường bất khuất.


Xứ nhiệt đới này còn đem lại rất nhiều bệnh tật, mà chính nhân dân ta phải tự mình giải quyết lấy.
Những bệnh sinh ra từ xứ này khơng hồn tồn giống những bệnh sinh ra ở vùng ơn đới và hàn đới,
hoặc ở một xứ nhiệt đới nào khác. Những thuốc hiệu nghiệm ở những nơi trên chưa chắc đã hiệu
nghiệm ở Việt Nam. Để đương đầu với cái chết do thời tiết gây ra, ông cha ta đã rất cố gắng nghiên
cứu, học hỏi những thành tựu y học cùng các loại thuốc chữa bệnh và phương pháp chữa bệnh của
người Trung Quốc và các nước khác, nhưng chủ yếu là phải tự mình nghiên cứu tình hình bệnh tật
của nước mình mà tìm ra những cách thức chữa bệnh ở nước mình. Chính vì thế mà lịch sử đã để
lại trong dân gian Việt Nam một kho tàng vơ giá về y học cổ truyền. Cũng chính vì tích cực đối phó
với những tác hại của thiên nhiên mà <i>y học dân tộc</i> đã ngày càng phát triển, với những danh y uyên
bác như Tuệ Tĩnh và Lãn Ông, trở thành một niềm tự hào của nền văn hiến Việt Nam.


Trong quan hệ với thiên nhiên, con người Việt Nam đã tạo ra cho mình những đức tính tốt đẹp,
khơng ngừng được nối tiếp và nâng cao từ thế hệ này qua thế hệ khác.


Có thể nêu lên mấy đặc điểm sau đây:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cơm ăn áo mặc, nên đối với con người Việt Nam, yêu lao động, quý trọng người <i>lao động </i>và


biết<i> tiết kiệm</i> là những truyền thống tất yếu của cả dân tộc. Cũng vì thế mà con người Việt
Nam <i>khinh ghét những kẻ chây lười, ăn bám, </i>đòi hỏi họ phải<i> tay làm hàm nhai</i>. Trong xã hội Việt
Nam, <i>những kẻ tham ơ, lãng phí, làm giàu bất chính</i> bao giờ cũng bị dư luận xã hội lên án.


Cùng với ý thức lao động đó là <i>thái độ ứng xử có văn hóa với thiên nhiên</i>. Con người Việt Nam
ln ln gắn bó với thiên nhiên như máu thịt của mình. Với ý chí kiên cường và bàn tay sáng tạo,
con người Việt Nam đã cải tạo đất nước, làm cho nó ngày thêm phong phú và tươi đẹp. Thiên nhiên
trở thành một <i>tác phẩm thẩm mĩ</i> của con người. Cách thức xây dựng nhà ở, nuôi cá và nuôi chim…
là biểu hiện sinh động của <i>quan hệ văn hóa với thiên nhiên,</i> tạo nên ý thức sâu sắc của dân tộc đối
với môi trường thiên nhiên. Lịch sử Việt Nam từ lâu đời đã chứng minh truyền thống tốt đẹp đó của
dân tộc. Cái đẹp của chùa, đền, lăng, miếu không chỉ ở vật liệu xây dựng như gỗ, đá, gạch, ngói,
cũng khơng chỉ ở tài năng của thợ giỏi mà ở bức tranh toàn cảnh của thiên nhiên trong đó có cơng
trình kiến trúc.


Tình u thiên nhiên ngày càng trở thành truyền thống của nhân dân Việt Nam và thú vui cây cảnh
không chỉ nổi lên rất đậm nét ở những nhà văn Việt Nam, những nhà thơ, nhà triết học mà còn trở
thành thú vui thanh cao của đông đảo những con người Hà Nội.


Coi thiên nhiên như máu thịt của mình, con người Việt Nam đã từ bao đời để vào đó cả tâm huyết
và tài năng, biến môi trường thiên nhiên thành <i>Tổ quốc thiêng liêng</i> mà đời này qua đời khác tiếp
nối nhau bảo vệ từng tấc đất. <i>Chủ nghĩa yêu nước</i> vì thế cũng sớm bắt đầu cùng với tình yêu thiên
nhiên như thế đó.


<b>2. Từ ý thức xây dựng và bảo vệ chủ quyền dân tộc</b>


Từng bước khắc phục những thử thách của thiên nhiên, dân tộc Việt Nam cũng từng bước xây dựng
Tổ quốc mình về mọi mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa. Bao nhiêu mồ hôi, máu và nước mắt
đã đổ trên mảnh đất này. Con người Việt Nam khơng chỉ phải đối phó với thiên nhiên mà còn phải
xây dựng và bảo vệ <i>chủ quyền lãnh thổ</i>. Chủ quyền lãnh thổ trở thành điều thiêng liêng nhất trong
đời sống của con người Việt Nam.



Một thành tựu tiêu biểu cho sự phát triển rất sớm của Việt Nam: đó là nhà nước Văn Lang thời Vua
Hùng. Sự ra đời của một nhà nước cũng là <i>sự khẳng định chủ quyền trên một lãnh thổcõi bờ sơng</i>
<i>núi</i>, của phong tục tập qn, của nền văn hóa đã định hình. Lịch sử khơng để lại nhiều chi tiết cụ
thể về nhà nước thời ấy, nhưng suốt bốn ngàn năm, niềm tự hào về nhà nước ấy đã ăn sâu vào tâm
khảm của dân tộc ta từ đời này qua đời khác.


Năm 40 khi nổi dậy phát động cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hai Bà Trưng đã đọc lời thề lúc
ra quân ở Hát Môn: <i>“Một xin rửa sạch quốc thù. Hai xin khôi phục nghiệp xưa họ Hùng”</i>. Cái
nghiệp xưa họ Hùng chính là <i>“Lĩnh Nam riêng một triều đình”,</i> nhà nước đầu tiên của Tổ quốc độc
lập. Nghiệp xưa họ Hùng chính là sự nghiệp dựng nước mà Hồ Chí Minh, tháng 9-1945 đã nói
trước đền vua Hùng: <i>“Các vua Hùng đã có cơng dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy</i>
<i>nước”.</i>


Dưới thời vua Hùng, nhân dân nước Văn Lang đã sớm ổn định về mặt xã hội, cùng nhau đứng vững
trên mảnh đất của mình để sản xuất, tổ chức đời sống và xây dựng văn hóa. Nước Văn Lang với ý
thức về chủ quyền dân tộc, đã đánh tan cuộc xâm lược của phương Bắc do Tần Thủy Hoàng phát
động.


Đoàn kết chiến đầu với tinh thần dũng cảm và sáng tạo, người dân Âu Việt và Lạc Việt đã thống
nhất với nhau thành nước Âu Lạc dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương Thục Phán. Tiếc rằng, do
một số sai lầm của quốc vương Âu Lạc về đường lối dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã bị đặt
dưới ách đô hộ của nhiều triều đại Trung Quốc.


Nguy cơ diệt vong kéo dài suốt một ngàn năm đã liên tục đặt dân tộc ta trước hai con đường: hoặc
tự xóa bỏ mình với tư cách là một dân tộc, xóa sạch ngơn ngữ, phong tục, tập qn và mọi đặc tính
của dân tộc, hoặc là quyết tâm bền bỉ chiến đấu đời này qua đời khác, nổi dậy bị đàn áp, lại tiếp tục
nổi dậy cho đến thắng lợi cuối cùng.


Dân tộc Việt Nam đã chọn con đường thứ hai. <i>Sự lựa chọn này là dứt khốt.</i> Đó là tư tưởng lớn chi


phối ý nghĩ và hành vi của mỗi người, là điểm nổi bật trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Tư
tưởng đó là động lực thúc đẩy nhân dân Việt Nam sống khổ cực dưới ách áp bức của kẻ ngoại xâm,
đã liên tục đấu tranh nhằm giải phóng đất nước. Kiên trì và bất khuất, nhân dân Việt Nam tìm mọi
cách để giành cho được độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

năm bị đô hộ. Ngọn lửa anh hùng nhen lên từ cuộc khởi nghĩa ấy đã luôn luôn bùng


cháy chẳng bao giờ tắt.



<i>Đền thờ Hai Bà Trưng ở Tiền Phong, Mê Linh, Hà Nội. Ảnh:</i>
<i>dantri.vn</i>


Lịch sử mãi mãi nêu lên sự nghiệp chiến đấu anh hùng của dân tộc với những tên tuổi bất diệt của
những Triệu Trinh Nương, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Khúc Thừa Dụ, Dương
Đình Nghệ. Những cuộc nổi dậy của Việt Nam đã nhiều lần làm gián đoạn sự thống trị của quân
xâm lược bằng việc thành lập những chính quyền độc lập tồn tại từ 3-4 năm đến 5-6 chục năm.
Cuối cùng, với chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền đã cùng quân dân Việt Nam chấm dứt sự cai trị
kéo dài của quân xâm lược, vĩnh viễn chôn vùi sự hung tàn và cường bạo của chúng dưới dòng
sông lịch sử và mở ra từ đấy kỉ nguyên rực rỡ của văn minh Đại Việt.


Ý nghĩa vĩ đại của chiến thắng Bạch Đằng là ở chỗ, nó đã chứng minh một sức sống bất diệt. Đó
là <i>quyết tâm chiến đấu đến cùng để giành lại độc lập và tự do, giữ lấy toàn vẹn lãnh thổ thiêng</i>
<i>liêng bất khả xâm phạm của dân tộc</i>. Ý thức ấy về chủ quyền dân tộc là một sức mạnh tinh thần
ngày càng được củng cố và nâng cao qua chiều dài lịch


sử ở các dân tộc Việt Nam và ở con người Hà Nội.


<b>3. Từ cuộc sống cộng đồng của nhân dân Việt Nam</b>


Không ai phủ nhận được ở dân tộc Việt Nam <i>lòng yêu</i>
<i>nước thương người</i>, ý thức cộng đồng trong cuộc sống.


Những phẩm chất nói trên cũng khơng phải ngẫu nhiên
mà là sản phẩm lâu đời của hoàn cảnh xã hội và lịch sử
của Việt Nam. Con người Hà Nội sau này chỉ là tiếp nối
và không ngừng nâng cao những phẩm chất ấy trong
hồn cảnh mới mà thơi.


Trước hết phải nói rằng sự gắn bó giữa người và người là
một đặc điểm của nhân loại, nhưng ở Việt Nam, sự gắn
bó ấy cịn là <i>sản phẩm đặc thù</i> của hồn cảnh kinh tế xã
hội Việt Nam, trở thành điều kiện sống còn và sức mạnh
trường tồn của dân tộc trước mọi thử thách.


Xây đắp hàng vạn cây số đê và thường xuyên chống lụt,
chống hạn, rồi sau đó là đẩy mạnh việc khai hoang,
khơng ngừng mở rộng diện tích canh tác cho đất nước.


Sự nghiệp vĩ đại đó sao có thể thành cơng nếu như khơng có sức mạnh của cộng đồng?


Thường xuyên phải chống lại với quân xâm lược vô cùng lớn mạnh, nếu khơng có tinh thần <i>lấy đại</i>
<i>nghĩa thắng hung tàn, tồn dân chống giặc, cả nước một lịng</i> thì sao có thể tồn tại?


Về truyền thống cộng đồng dân tộc, chúng ta cần thấy sự tồn tại lâu đời của cơng xã nơng thơn.
Thực tế này đã có tác dụng củng cố tính cộng đồng làng xã, nhưng trong q trình phát triển lịch
sử, nó cũng bộc lộ nhiều nhược điểm gắn liền với sự nghèo khó của quần chúng nhân dân và sự trì
trệ của đất nước. Chúng tơi đã có dịp phân tích kĩ về đặc điểm này trong một cuốn sách khác. Nay
chỉ xin nói thêm một chút về vai trị quan trọng của nó trong việc hình thành những phẩm chất đạo


<b> DANH SÁCH CÁC CHƯƠNG</b>


<b>Chương 1. Văn hiến Thăng Long và</b>


<b>truyền thống yêu nước, yêu người qua bước</b>
<b>ngoặt lịch sử của Chiếu dời đô;</b>


<b>Chương 2. Văn hiến Thăng Long trong</b>
<b>sự nghiệp anh hùng dân tộc ; </b>


<b>Chương 3. Văn hiến Thăng Long qua</b>
<b>khoa học và giáo dục;</b>


<b>Chương 4. Văn hiến Thăng Long qua</b>
<b>văn học nghệ thuật;</b>


<b>Chương 5. Văn hiến Thăng Long trong</b>
<b>cuộc sống thường ngày;</b>


<b>Chương 6. Văn hiến Thăng Long qua</b>
<b>giao lưu giữa Thủ đơ với tồn quốc và thế giới;</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

đức của con người Việt Nam trong quan hệ hàng ngày, <i>trước hết là tình cảm cộng đồng giữa người</i>
<i>với người.</i>


Làng xã Việt Nam đã <i>phát huy được ý thức tập thể, tinh thần chủ động </i>và<i> sáng tạo</i> của mọi người.
Tính cộng đồng được củng cố bền chặt trong những phong tục tập quán kéo dài từ đời này qua đời
khác. Những thể lệ về canh tác ruộng chung, những giao ước trong việc giúp đỡ nhau xây dựng nhà
cửa, những quy tắc trong sinh hoạt gia đình, làng xóm… <i>vừa là sản phẩm</i> của tính cộng đồng Việt
Nam, <i>vừa là nhân tố</i> kết cấu của nó.


Ở Việt Nam, <i>tính cộng đồng làng xã đã sớm được mở rộng thành tính cộng đồng dân tộc</i>. Chính vì
thế mà mối quan hệ mật thiết giữa những dân cư trên dải đất Việt Nam ngày càng mật thiết hơn,
tinh thần đoàn kết dân tộc và ý thức về Tổ quốc không ngừng nâng cao.



Lãnh thổ Việt Nam bao gồm rất nhiều dân tộc sống rải ra trên mọi miền đất nước. Họ có nhiều
điểm khác nhau về sinh hoạt hàng ngày, về tập quán, tín ngưỡng, ăn mặc, nhà ở và về sinh hoạt
nghệ thuật với những hình thức rất đa dạng của điệu múa, cung đàn, lời ca, giọng hát…


Nhưng tất cả những khác biệt đó đã khơng làm giảm sút tinh thần đồn kết dân tộc và ý chí thống
nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam tin tưởng mãnh liệt rằng mọi người trên
dải đất này đều thuộc một nguồn gốc, đều là anh em một nhà, mỗi tấc đất của Tổ quốc đều là máu
thịt của dân tộc bao gồm tất cả các tộc người. Tinh thần ấy ăn sâu vào tâm lí chung, xây dựng nên
một tính cộng đồng rất chặt chẽ về kinh tế, về lãnh thổ, ngôn ngữ và mục tiêu chiến đấu chung
nhằm giữ nước và dựng nước.


Lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam <i>trước hết là tình cảm sâu sắc giữa nhân dân lao động Việt</i>
<i>Nam.</i> Tất cả những vị anh hùng dân tộc khi nổi dậy và chiến đấu, đều xuất phát từ lòng yêu nước
thương dân, đều xúc động sâu sắc trước cảnh đồng bào mình bị lầm than, đói rét, tù đày, hãm hại.
Lòng yêu nước Việt Nam, với cơ sở vững chắc và tình u thương gắn bó giữa nhân dân lao động,
chính là <i>một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc</i>, vượt ra khỏi sự hạn chế ranh giới của một nước. Nó xa lạ
với những thành kiến, hận thù dân tộc trong quan hệ giữa dân tộc này với dân tộc khác.


Mỗi lần đánh thắng quân xâm lược, thì ở Hai Bà Trưng thuở trước cũng như Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Quang Trung sau này, chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam đã bừng sáng lên trong cách ứng xử bao
dung đại lượng, đã tha tội cho hàng chục vạn tù binh để họ được an toàn trở về nước với vợ con.
Tính cộng đồng dân tộc biểu <i>hiện rất sinh động và phong phú trong cuộc sống hàng ngày</i> của nhân
dân Việt Nam. Đó là nhiệt tình chia sẻ với nhau mọi niềm vui và nỗi buồn. Đó cũng là cùng vui với
nhau mỗi khi có lễ hội hoặc khi có đám cưới, ngày sinh, ngày mừng thọ, ngày thi đỗ, dịp làm nhà
mới. Đó là cùng buồn với nhau và nâng đỡ nhau mỗi khi có điều bất hạnh.


Thái độ niềm nở, tinh thần hiếu khách của con người Việt Nam mà biểu hiện rõ nhất ở con người
Thăng Long – Hà Nội, không chỉ bộc lộ trong phạm vi họ hàng, thơn xóm mà cịn mở rộng ra đối
với toàn dân và cả người nước ngồi.



Tình cảm sâu sắc đối <i>với cộng đồng đi liền với nghĩa vụ</i>. Mọi người cùng nhau đánh đuổi kẻ thù
xâm lược, để lao động, sáng tạo, xây dựng cuộc sống độc lập và hạnh phúc. Sức mạnh của cá nhân
kết tụ lại trong sức mạnh của cộng đồng. Sức mạnh của cộng đồng thâm nhập vào sức mạnh cá
nhân, đem lại cho cá nhân ý chí và niềm tin. Vì lợi ích của cá nhân và cộng đồng, người Việt Nam
đặt lợi ích cộng đồng cao hơn lợi ích cá nhân, lợi ích Tổ quốc cao hơn lợi ích gia đình. Mỗi cá nhân
đều cảm thấy tình cảm sâu sắc nhất và hạnh phúc cao nhất của mình là được sống giữa tình yêu
thương của gia đình, làng xã và Tổ quốc. Trong cuộc sống của con người Việt Nam, đau khổ nhất
là phải tách ra khỏi cuộc sống của cộng đồng.


Tóm lại <i>yêu thương, sáng tạo </i>và<i> dũng cảm</i> là tinh hoa của những truyền thống dân tộc. Đó là
những truyền thống mà Thăng Long đã tiếp thu và nâng cao trong văn hiến của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Chiếu dời đô</i>


Tháng bảy năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời thủ đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Đây
không phải là cuộc dời đô thông thường mà là một sự kiện vô cùng lớn lao của cả dân tộc.


Ở Việt Nam, 18 đời Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu. An Dương Vương và sau này là Ngô
Quyền ở Cổ Loa. Hai Bà Trưng ở Mê Linh. Lý Nam Đế lấy địa điểm của Hà Nội hôm nay làm thủ
đô cho nước Vạn Xuân ngày trước. Những thủ đô ấy của Tổ quốc độc lập là những địa danh mang
ý nghĩa thiêng liêng trong lòng mỗi người Việt Nam.


Dưới thời Bắc thuộc, bao nhiêu địa điểm, địa danh đã được kẻ xâm lược chọn làm thủ phủ cho
chính quyền đơ hộ. Việc này cũng chẳng có ý nghĩa gì nhiều lắm đối với nhân dân ta. Dù đó là
Long Biên, là Luy Lâu, là Đại La, là Tống Bình, hay Đơng Quan thì nhân dân ta vẫn sống trong
cảnh nơ dịch và đói rét. Mọi sự thay đổi địa danh và địa điểm nói trên khơng thể nào đem so sánh
được với việc dời đô của Tổ quốc ta từ Hoa Lư đến Thăng Long.


Chọn Thăng Long làm thủ đơ của tồn quốc là sự sáng suốt của vua nhà Lý. Đây là bước ngoặt lớn


trong lịch sử của đất nước: là sự mở đầu cho thời đại độc lập và phồn vinh, là đỉnh cao của tâm hồn
và khí phách của con người Việt Nam.


Sự lựa chọn ấy được Lý Cơng Uẩn phân tích rõ ràng trong Chiếu dời đô.


a. Thăng Long thực sự là một trung tâm của đất nước. Chiếu dời đô nhận định: <i>“Thành Đại La ở</i>
<i>nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi… đã đúng ngôi Nam Bắc Đơng Tây, lại</i>
<i>tiện hướng nhìn sơng dựa núi”.</i>


Thăng Long là mảnh đất rất thuận lợi cho việc cư trú của nhân dân: <i>“Dân cư khỏi chịu cảnh khổ</i>
<i>ngập lụt”.</i>Thăng Long là một mơi trường thiên nhiên rất thích hợp cho sinh hoạt và canh tác của
con người. Chiếu dời đô nhấn mạnh: <i>“Muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Với những nhận định nói trên, <i>Chiếu dời đô</i> không chỉ làm một việc giản đơn là công bố ý định của
nhà vua để hỏi ý kiến của quần thần. <i>Chiếu dời đơ</i> cịn thể hiện sự suy nghĩ sâu sắc, tính tốn lâu
dài của một ơng vua anh hùng <i>mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu.</i>


c. <i>Dời đô về Thăng Long là sự lựa chọn, phát huy thuận lợi của cả thiên thời địa lợi và nhân hòa.</i>


Về mặt địa lợi, sử gia Ngơ Thì Sĩ đã phân tích rất rõ: <i>“Đất Long Đỗ là nơi Cao Biền đóng ở đấy,</i>
<i>núi Tản Viên chống vững một cõi, sông Phú Lương như hào trời sinh ra, ngàn dặm bằng phẳng,</i>
<i>trăm họ giàu có; phía tây thơng với Sơn Tây, Tun Hưng; phía bắc thấu đến Ninh Sóc, Kinh Bắc.</i>
<i>Miền đơng nam thì vận chuyển bằng thuyền, miền Cần Xương thì liên tục bằng trạm, là nơi trung</i>
<i>tâm của nước bốn phương chầu về. Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông, trước</i>
<i>mặt là biển. Địa thế hùng mạnh mà hiểm, rộng mà dài, có thể làm cho nơi vua ở hùng tráng, ngôi</i>
<i>báu vững bền. Hình thế nước Việt thật khơng nơi nào được như nơi này”.</i>


Về mặt thiên thời: <i>Lý Công Uẩn đã nắm được chính xác và kịp thời yếu tố thiên thời.</i>


<i>Thiên thời</i> thuận lợi cho Lý Công Uẩn chưa phải đã thuận lợi cho các triều đại trước. Nhìn lại 1.000


năm nước ta bị nước ngồi chiếm đóng và bị biến thành quận huyện của họ, bao nhiêu cuộc nổi dậy
trước sau đều bị dập tắt. Cuộc chiến đấu giành độc lập khi thầm lặng, khi vùng lên đều phải dựa
vào sự che chở của nhân tâm và sự an toàn của địa điểm. Nền độc lập được giành lại từ Ngơ Quyền
nhưng chính dân tộc vẫn cịn non yếu. Để tự bảo vệ, người lãnh đạo đất nước không thể chỉ dựa vào
lòng dũng cảm mà còn phải dựa vào đất đai hiểm trở để tranh thủ thời gian nhanh chóng nâng cao
được sức mạnh của <i>binh cường, quốc phú.</i>


Các triều đại Ngô, Đinh, Lê chưa lựa chọn Thăng Long làm thủ đô nhưng thực tế đã chuẩn bị đầy
đủ những điều kiện vật chất và tinh thần cho sự lựa chọn của Lý Công Uẩn. Chiến thắng Bạch
Đằng của Ngô Quyền đã là tiếng sấm báo hiệu cho thời đại mới của Việt Nam, nâng khí thế của
dân tộc lên một đỉnh cao chưa từng có. Đinh Bộ Lĩnh phá tan sự chia cắt đất nước của 12 sứ quân,
giương cao ngọn cờ độc lập và thống nhất, tự khẳng định là vị<i>Hoàng đế</i> đầu tiên của một nước đã
trở thành hùng cường, một nước mà người đứng đầu khơng ở vị trí một Quốc vương mà ở tư thế
một <i>Hồng đế</i>. Sau đó, với sức mạnh dân tộc được nhân lên ở điều kiện vật chất và tinh thần, Lê
Hoàn đã đánh tan quân xâm lược nhà Tống và bắt sống chủ tướng của chúng là Hầu Nhân Bảo.
Những thành tựu rực rỡ của các triều đại trước, thực tế đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết để Lý
Cơng Uẩn lên làm vua và có đủ <i>thực lực</i> cũng như <i>dũng khí</i> để dời đơ.


Việc dời đơ vì thế khơng chỉ là sáng kiến của Lý Cơng Uẩn mà còn thể hiện một thời cơ đã được
chuẩn bị từ trước, một việc làm thuận với lẽ trời và lòng người.


<i>Về mặt nhân hòa và địa lợi:</i>


Chủ trương dời đơ đã được cả triều thần nhanh chóng hưởng ứng: <i>“Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế dài</i>
<i>lâu, để trên cho cơ nghiệp to lớn được thịnh vượng, dưới cho nhân dân được giàu của, nhiều</i>
<i>người, việc lợi như thế, ai dám không theo”.</i>


Việc dời đô đã thực sự đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân.


Bao nhiêu năm nhân dân ta đã chiến đấu gian khổ. Bao nhiêu máu và nước mắt đã từng đổ xuống


để giành độc lập thống nhất. Không thể quên được nỗi nhục của ngàn năm mất nước, nhân dân đòi
hỏi người lãnh đạo của mình phải nâng cao hơn nữa truyền thống anh hùng, phải nhanh chóng đưa
đất nước trở thành hùng mạnh.


Việc dời đô phù hợp với <i>thiên thời, địa lợi, nhân hòa</i> như thế nhất định mở ra một giai đoạn mới,
giai đoạn vươn lên với khí hồi sinh của con rồng Việt Nam.


Vinh dự là người dân Việt Nam trên đất thủ đô, nhân dân Thăng Long đã lao động sáng tạo, chiến
đấu anh hùng, đóng góp vào sự nghiệp chung của dân tộc, tạo nên những nét đặc sắc của <i>nền văn</i>
<i>hiến mang tên Thăng Long</i> và những đặc trưng đầu tiên của con người Hà Nội sau này.


Lòng tự hào dân tộc là biểu hiện sâu sắc của chủ nghĩa yêu nước ở những con người của thủ đơ
Thăng Long:


Trong khơng khí rạo rực của dân tộc, triều đình nhà Lý đã ngay từ đầu đẩy mạnh cơng cuộc xây
dựng và quản lí đất nước. Nhà Lý cũng khẩn trương kiến thiết thủ đô mới, nhằm nhanh chóng phát
huy sức mạnh và ảnh hưởng của thủ đô, vừa trực tiếp phục vụ cho việc xây dựng chính quyền trung
ương, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển chung của cả nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Với sự cố gắng chung của triều đình và nhân dân, Thăng Long đã sớm xứng đáng là vị trí trung tâm
của đất nước, là đầu mối liên hệ thông thương về kinh tế và văn hóa trên tồn lãnh thổ, làm cơ sở
cho cơng cuộc dựng nước và giữ nước.


Mang hồi bão xây dựng một thủ đô vững vàng và giàu đẹp cho con cháu muôn đời, nhân dân ta
thời nay đã tiến hành xây dựng Thăng Long với một ý thức tự cường dân tộc rất mạnh mẽ.


Ngay từ đầu, với tư thế một quốc gia trên con đường cường thịnh, triều đình nhà Lý đã cho sửa
sang lại thành quách, xây dựng nhiều lâu dài, chùa quán, đền miếu và các cơng trình văn hóa, hình
thành nên một quần thể kiến trúc bề thế và ngoạn mục. Những cơng trình của Thăng Long thời Lý
đậm tính bác học và tính dân gian, biểu thị thái độ tự tin của cả một dân tộc.



Cũng ngay từ đầu, triều đình nhà Lý đã cho đào hào khơi sông, mở mang chợ bến, nhằm phát triển
giao thông vận tải, mở rộng giao lưu hàng hóa. Những việc đó tạo cho Thăng Long có điều kiện thu
hút những năng lực sáng tạo và tiếp thu những thành tựu về kinh tế và văn hóa của cả nước. Do đó,
những sản phẩm vật chất và tinh thần được kết đọng và nâng cao ở Thăng Long, lại từ Thăng Long
mà tỏa rộng ra toàn quốc.


Với tinh thần tự lực tự cường, nhà Lý tạo mọi thuận lợi để thu hút sự nhập cư của nhân dân từ bốn
phương, giúp dân xây dựng nhà cửa để dân được an cư, lạc nghiệp. Phố phường ngày thêm đông
đúc. Kinh tế Thăng Long phát triển về nhiều mặt.


Thăng Long ngày một lớn mạnh, dần dần trở thành một <i>kinh kì bậc nhất</i>. Tuy phải trải qua những
bước thăng trầm của lịch sử và nhiều lần bị chiến tranh tàn phá, hoặc có khi khơng được coi là thủ
đơ nữa, nhưng <i>đất kinh kì bậc nhất </i>này vẫn là một nơi<i> địa linh nhân kiệt</i>, một trung tâm kinh tế
-văn hóa có sức thu hút mạnh mẽ mà khơng một nơi nào trên đất nước ta có thể sánh được.


Trên nền tảng kinh tế - xã hội đang được củng cố và phát triển, nhà Lý hết sức quan tâm xây dựng
theo lối chính quy một bộ máy chính quyền hoàn chỉnh và thống nhất trong toàn quốc, từ trung
ương đến các lộ, phủ, huyện và các đơn vị cơ sở. Các hoạt động lập pháp của nhà nước được đẩy
mạnh. Bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta là bộ <i>Hình thư</i> được ban hành năm 1042. Tên nước
được đổi là Đại Việt năm 1054. Đất nước đi vào thế ổn định vững chắc.


Mặt khác, nhà Lý tập trung vào xây dựng một nền văn hiến huy hồng, đáp ứng được hồi bão
chính đáng của mọi người dân và thể hiện được sức mạnh tinh thần ngày một vươn cao của dân tộc.
Con người Hà Nội từ sức mạnh của đời sống văn hóa và từ những nhân tố tích cực của các tơn
giáo:


Trên một ngàn năm bị nước ngồi thống trị, nhân dân Việt Nam khơng có điều kiện thuận lợi để
chủ động nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho mình. Giành lại chủ quyền dân tộc, nhân dân Việt
Nam và nhà nước của mình nhận rõ nhu cầu cấp thiết là tăng cường sức mạnh về mọi mặt để bảo vệ


Tổ quốc và sẵn sàng đập tan mọi sự xâm lược của nước ngồi. Muốn như thế, khơng phải chỉ có
tinh thần u nước và dũng cảm là đủ, mà điều quan trọng bậc nhất là phải có những kiến thức tối
thiểu về thiên nhiên, về xã hội và con người, để không ngừng phát huy đầu óc thơng minh và sáng
tạo trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.


Trong bước đầu xây dựng nền văn hiến, nhà Lý đặc biệt chăm lo việc giáo dục, học tập và tổ chức
thi cử. Trên kinh đô Thăng Long, nhà Lý đã cho lập Văn Miếu (1070). Năm 1075, nhà Lý mở khoa
thi <i>Minh kinh bác học</i>. Đó là khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Năm 1076, lại cho
mở Quốc Tử Giám. Nền đại học Việt Nam bắt đầu từ đó.


Nhà Lý đã đặt những viên gạch đầu tiên vơ cùng quý giá để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự
nghiệp giáo dục, học hành, thi cử. Trên nền tảng đó, nhà Trần lại đưa chế độ giáo dục đi vào nền
nếp quy củ hơn. Nhà Lê, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tơng, chế độ đó càng được hồn thiện.
Có thể thấy: suốt từ thời Lý trở đi, Thăng Long luôn luôn là trung tâm thu hút nhân tài, đi đầu trong
việc xây dựng đời sống tinh thần về mọi mặt cho cả nước. Trí thức được lựa chọn từ mọi miền đất
nước để đưa về Thăng Long học thêm và dự các kì thi ở đây. Khơng khí học tập ngày càng nhộn
nhịp, từ Văn Miếu – Quốc Tử Giám tỏa đi khắp phố phường, khiến Thăng Long trở thành một mơi
trường tiêu biểu của trí tuệ, của văn hóa, của văn học nghệ thuật. Việc giảng bài, việc bình văn
khơng chỉ tập trung ở Văn Miếu, mà còn diễn ra ở các trường tư thục, ở những nơi danh lam thắng
cảnh của thủ đô, tạo nên một tâm lý coi trọng việc học tập và yêu q người trí thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Thăng Long khơng chỉ là trung tâm giáo dục thu hút toàn bộ nhân tài của đất nước mà còn là nơi đề
ra những nội dung giáo dục thích hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và mở mang kiến thức
cho mỗi người.


Nội dung học tập trước hết rút ra từ Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo.


Việt Nam cũng như Triều Tiên và Nhật Bản, là những nước đã từ lâu đời chịu ảnh hưởng của nền
văn hóa Trung Hoa và cũng đã lâu đời chứng kiến việc truyền bá tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và
Nho giáo từ phía người Trung Quốc. Nhưng ở Việt Nam cũng như ở Triều Tiên và Nhật Bản,


những học thuyết nói trên đã từng biến đổi qua các thời kì lịch sử, càng có biến đổi khi được du
nhập vào mỗi nước khác nhau.


Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ lâu và đã có vai trị đáng kể trong
hoạt động văn hóa của nhân dân. Nhưng <i>chỉ từ khi nhân dân ta giành được độc lập thì những trào</i>
<i>lưu này mới được chủ động khai thác và tự do phát triển</i>. Thủ đô Thăng Long trở thành trung tâm
tiếp nhận và cải biến những trào lưu ấy cho phù hợp với truyền thống của nhân dân và nhu cầu của
đất nước. Những trào lưu ấy đã dần dần được Việt Nam hóa và trở thành những nhân tố của chính
nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam.


<i>Ở những triều đại đầu tiên Ngô, Đinh, Lê, Lý, Phật giáo nổi bật lên và được coi như quốc giáo.</i>


Các vua chúa rất quý trọng các nhà sư, tầng lớp trí thức trong thời kì mới giành lại độc lập. Nhiều
vị cao tăng được giữ vị trí quan trọng trong việc trị nước. Nhà sư Ngơ Chân Lưu, quân sư của Đinh
Tiên Hoàng được vua Đinh phong làm Tăng Thống, sau được ban hiệu là Khuông Việt đại sư,
ngang hàng với Tể tướng. Thời Lê Đại Hành, ông vẫn được trọng đãi và được tham gia bàn bạc
những vấn đề đại sự quốc gia.


Lê Đại Hành cũng luôn luôn hỏi ý kiến sư Vạn Hạnh và sử dụng sư Pháp Thuận như một <i>“đổng lý</i>
<i>văn phịng”.</i>Chính sư Vạn Hạnh cũng đã cùng với đình thần, tơn Lý Công Uẩn lên làm vua và giúp
Lý Công Uẩn trong việc chính trị bang giao, bàn kế hoạch đánh Tống, đánh Chiêm Thành.


Sư Viên Thông cũng giúp việc Lý Thần Tông. Khi triều kiến, sư được đứng ngang hàng với Thái
tử. Khi vua mất, sư được dự vào hàng các đại thần thực hiện di chiếu.


Nói chung các nhà sư là tầng lớp trí thức đương thời đã góp phần tích cực trong việc củng cố nhà
nước độc lập của dân tộc. Họ khơng có đầu óc yếm thế và thốt tục như thái độ thơng thường của
những người theo đạo Phật. Tinh thần tích cực nhập thế ấy đã biểu lộ rõ rệt trong văn thơ của nhiều
nhà sư.



Nhà sư Quảng Nghiêm có hai câu thơ rất tiêu biểu:


<i>Nam nhi tự hữu xung thiên chí,</i>
<i>Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.</i>


(Làm trai phải có chí hướng chọc trời.


Khơng nhất thiết đi theo con đường mà Như Lai đã đi).


<i>Đời Lý là giai đoạn thịnh đạt nhất của Phật giáo Việt Nam.</i>


Trong thời kì này, các vua chúa Việt Nam, những người đã từng có cơng đóng góp to lớn vào sự
nghiệp độc lập và phồn vinh của Tổ quốc, lại là những người sùng đạo nhất. Thăng Long vì thế
khơng chỉ là thủ đơ của Việt Nam mà còn là trung tâm lớn nhất của Phật giáo Việt Nam.


Nhiều vị cao tăng ở Thăng Long xuất thân từ tầng lớp quý tộc quan liêu như các vị sư Viên Chiếu,
Quảng Trí, Trí Bảo. Ngay như Lý Thường Kiệt, vị tướng anh hùng lập nhiều chiến công hiển hách,
dẹp tan quân Tống xâm lược, cũng là người có vai trò to lớn trong việc chấn hưng Phật giáo. Văn
bia chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn cịn ca ngợi ơng rằng: “Ơng tuy thân vương cõi tục mà lịng
đã quy y”.


Ngay cả một số vua chúa thời Lý cũng đi tu như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Tơng, Lý
Huệ Tơng.


Lý Thánh Tơng là người có cơng trong việc sáng lập ra phái Thảo Đường, một phát thiền học mới ở
Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Cả Phật giáo và Đạo giáo đều được nhà vua, các tầng lớp quý tộc và nhân dân tôn sùng. Chùa, tháp,
đền, miếu được xây dựng khắp nơi. Nhân dân thờ cúng cả <i>Phật, Thánh, Thần, Tiên,</i> kết hợp tín
ngưỡng cổ truyền của dân tộc với những nghi lễ của Phật giáo và Đạo giáo.



Các đạo sĩ cũng rất được coi trọng. Đinh Tiên Hoàng phải nhờ pháp sư Văn Dư Tường dùng pháp
thuật chém hung thần Cương Cuồng (mộc tinh). Rất nhiều nhà sư đã sử dụng pháp thuật Đạo giáo.
Nhà sư Nguyễn Minh Không, theo truyền thuyết, đã dùng nhiều phép lạ để trị yêu quái và có lần đã
cứu vua Lý Thần Tơng khỏi bệnh hóa hổ.


Chế độ phong kiến ngày càng được củng cố và phát triển, thì ngày càng cần có nhiều người phục
vụ đắc lực cho nó. Phật giáo và Đạo giáo không thể đảm nhiệm được việc ấy. Chỉ có Nho giáo với
cả hệ thống tư tưởng, tuyên truyền và cổ vũ cho việc tôn thờ nhà vua, mới có thể có tác dụng tích
cực bảo vệ chế độ phong kiến và tôn ti trật tự của nó.


Chính vì thế mà các vua chúa dần dần quan tâm đặc biệt đến sự phát triển Nho giáo. Từ chỗ khơng
được ưa thích trong các tầng lớp nhân dân, <i>Nho giáo dần dần giữ một vị trí ngày càng cao trong hệ</i>
<i>thống chính trị tư tưởng của xã hội phong kiến</i>.


Vua chúa Việt Nam và Nho sĩ Việt Nam, vì lợi ích bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, đã thể hiện tinh
thần chủ động và sáng tạo khá cao trong việc phát triển Nho giáo và khai thác những yếu tố tích
cực của Nho giáo.


Ngay từ thời kì ban đầu xây dựng thủ đô, nhân dân Thăng Long đã nhiệt liệt hưởng ứng chủ trương
của triều đình nhà Lý về việc lập Văn Miếu thờ các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho, lập Quốc
Tử Giám làm trường Quốc học cao cấp để đào tạo trí thức Nho học và mở khoa thi Nho học đầu
tiên. Từ đó trở đi, như trên đã nói, văn miếu dần dần được lập đến các địa phương. Trường học
được phát triển hầu khắp mọi nơi. Các khoa thi được tổ chức liên tiếp qua các triều đại. Những việc
đó nói lên rằng: nhà nước và nhân dân Việt Nam đã rất chủ động trong việc lựa chọn và phát triển
Nho giáo, coi Nho giáo như là hệ thống tư tưởng chính thống của mình.


Xuất phát từ động cơ xây dựng một Tổ quốc hùng cường không chỉ về kinh tế, về quân sự, mà còn
về một cuộc sống tinh thần có đầy đủ <i>nhân – nghĩa và trí – dũng</i>, các vua chúa Việt Nam và Nho sĩ
Việt Nam <i>luôn ln có sự vận dụng sáng tạo trong việc tiếp nhận Nho giáo gắn liền với sự khẳng</i>


<i>định những giá trị truyền thống của dân tộc.</i>


Với tinh thần chủ động và sáng tạo trong tiếp thu truyền thống dân tộc và tinh hoa của các học
thuyết Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo, đội ngũ trí thức Việt Nam ngày một phát triển cả về chất
lượng và số lượng. Họ xuất hiện từ mọi miền đất nước. Họ coi Thăng Long là nơi khơng thể khơng
tìm đến, vì đó là nguồn bổ sung cho bản thân những kiến thức phong phú. Hầu hết những người trí
thức có tên tuổi đều trải qua những thời kì sinh sống ở Thăng Long để học tập và hoạt động trên
mọi lĩnh vực của văn hóa. <i>Thăng Long trở thành một trung tâm sáng tạo ra những giá trị tinh thần</i>
<i>rực rỡ nhất và phong phú nhất của dân tộc. Điều này càng nâng cao niềm tự hào của những người</i>
<i>dân Thăng Long và củng cố trách nhiệm của họ đối với nền văn hiến Thăng Long mà họ là đại</i>
<i>diện.</i>


</div>

<!--links-->
SKKN ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đa phương tiện trong dạy học lịch sử ở trường THCS Lý Tự Trọng – TP Huế
  • 40
  • 1
  • 4
  • ×