Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

CAO TAT THI CHUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.42 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cáo Tật Thị Chúng</b>


春去百花落


Xuân khứ bách hoa lạc
春到百花開


Xuân đáo bách hoa khai
事逐眼前過


Sự trục nhãn tiền quá
老從頭上來


Lão tòng đầu thượng lai
莫謂春殘花落盡


Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
庭前昨夜一枝梅


Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.


<b>Suy ngẫm về bài kệ "Cáo tật thị chúng" của Thiền sư Mãn Giác</b>


Ngược dòng thời gian, lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc vào thời đại Lý Trần, một thời đại vàng
son của tổ quốc, cũng là giai đoạn hưng thịnh nhất của đạo Phật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Vừa đọc qua câu kệ:


<i>"Xuân khứ bách hoa lạc</i>
<i>Xuân đáo bách hoa khai”.</i>


(Xuân qua trăm hoa rụng


Xuân đến trăm hoa cười).


Người đọc đã bắt gặp nơi đây một sự khác thường. Bởi chúng ta thường nhắc đến sự tươi đẹp, huy hoàng
trước khi nhắc đến sự tan tác, chia lìa. Điều này cũng dễ hiểu thơi, vì ai cũng ưa thích, ham muốn cái đẹp,
trân quí sự hồn mỹ chứ khơng ai muốn nhắc đến sự rủi ro, sự khơng hồn thiện,... Ở đây, Ngài Mãn Giác
đã đảo lộn qui luật đó. Ngài đã nói đến sự “lạc” (rụng) trước khi nhắc đến sự “khai” (nở). Hai câu kệ đã
diễn tả một sự thật của tự nhiên: Xn qua thì mn hoa tan tác, rụng rời; xn đến thì mn hoa khoe sắc
nở thắm. Sự thật này đã trở thành một quy luật chung của vũ trụ và đi vào trong sâu thẳm cõi lòng của mỗi
người. Ngài Mãn Giác đã diễn tả một cách trái ngược như thế phải chăng Ngài muốn nhắn nhủ với mọi
người rằng: Nếu đã có xuân đến thì phải có xn qua, đấy là qui luật vận hành của vũ trụ. Con người phải
sống làm sao để có thể giữ được lịng mình bình thản trước sự thịnh suy của cuộc đời khi chúng đến với
mình.


Trở lại với hiện thực của cuộc sống, Ngài nhận thấy:


<i>"Sự trục nhãn tiền quá</i>
<i>Lão tùng đầu thượng lai".</i>


(Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi).


Sự đời cứ thế trôi qua trước mắt người, ngày lại qua đêm, đêm lại nối ngày. Biết bao nhiêu cuộc đổi thay,
bao nhiêu lần bãi bể hoá thành nương dâu. Đa số mọi người đều bị cuốn vào dòng chảy của cuộc đời, mãi
chạy theo sự xoay vần của ngoại cảnh, bị ngoại cảnh chi phối. Chúng làm hoa cả mắt, loạn cả tâm, đến nỗi
qn mất chính mình. Trong cuộc đời có mấy ai làm chủ được bản thân, nhìn vào sự biến chuyển đang diễn
ra trên tấm thân của mình trong từng phút, từng giây. Cho nên Ngài đã đánh thức: <i>"Lão tùng đầu thượng lai"</i>
-Trên đầu già đền rồi. Hãy nhìn lại trên đầu của mình, tóc đã điểm bạc, tuổi già đã đến rồi đó, phải chấm dứt
ngay những cuộc rong ruổi theo cảnh phù du bên ngoài, trở về lo cho tự thân của mình, ni dưỡng thân
tâm của mình bằng chất liệu từ bi và công phu tu tập thiền định, rèn luyện cho mình một nếp sống đạo đức,
thấm đượm tình người. Khơng nên đợi đến tuổi già mới học đạo, mới tu dưỡng tâm tánh, bởi lúc về già thì


thân thể suy nhược, tinh thần sút kém, trí óc khơng cịn như lúc mạnh khoẻ trước đây nữa. Và <i>"khơng thể có </i>
<i>một tinh thần mạnh mẽ trong một thân thể suy nhược"</i>. Lúc về già, dù có cố gắng đến bao nhiêu thì cũng khó
lịng đạt được mục đích, vì đến lúc đó thì "lực bất tịng tâm". Hơn nữa, cổ đức cũng đã từng dạy rằng:


<i>"Mạc đãi lão lai phương học đạo</i>
<i>Cô phần đa thị thiếu niên thân".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thế nên, với tâm từ bi vô lượng, Ngài Mãn Giác đã hiến dâng trọn đời mình cho hạnh phúc, an lạc của
chúng sanh. Ngay những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, Ngài vẫn tha thiết khuyên bảo, khích lệ
mọi người dũng mãnh, tinh tiến trên con đường tìm về bến giác, trở về quê hương tươi đẹp ngàn đời.
Bốn câu đầu của bài kệ, Ngài diễn tả theo phương diện tục đế, Ngài vận dụng ngôn ngữ và ý niệm của đời
thường nên tương đối dễ hiểu, dễ cảm thụ và ai cũng có thể chấp nhận được, nhưng đến câu:


<i>"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận</i>
<i>Đình tiền tạc dạ nhất chi mai".</i>


(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai).


Thì rất nhiều người cảm thấy sửng sốt, bỡ ngỡ. Sửng sốt và bỡ ngỡ cũng phải, tại vì họ đang tiếp cận với
một quan điểm rất khác thường: Mùa xuân đã qua mà vẫn cịn hoa mai nở. Với sự nhận thức bình thường
thì khơng thể nào chấp nhận và khơng thể nào hiểu được thâm ý của hai câu kệ trên. Nhưng với những
người hiểu đạo, biết chút ít về đạo Phật, về ngơn ngữ nhà thiền thì khi đọc qua hai câu kệ trên, họ cảm nhận
được phần nào ý nghĩa của nó. Ở đây, Thiền sư đã dùng ngơn ngữ để chuyển tải một vấn đề vượt ra ngoài
phạm trù ngôn ngữ và ý niệm, đấy là trạng thái, là cảnh giới của những người đã giác ngộ, đã nếm được
hương vị giải thoát và đang sống trong sự tràn ngập niềm hạnh phúc vô biên, là sự vĩnh hằng bất diệt, vượt
ra ngoài ý niệm về thời gian và không gian. Ngài Mãn Giác đang sống trong trạng thái ấy nên đối với Ngài,
lúc nào cũng cảm thấy "mùa xuân" đang hiện hữu, lúc nào cũng thấy <i>"nhất chi mai"</i> ở trước sân. Cành mai
trong văn cảnh này khơng cịn là cành mai "bằng xương bằng thịt" nữa mà đã là cành mai tinh thần. Đây là
trạng thái chung của những người đã chứng ngộ, là một sự thật, nhưng chỉ những ai đã vào được cảnh giới


đó mới cảm nhận một cách tinh tường về sự thật vi diệu này. Hai câu kệ ấy còn cho mọi người nhận ra
được trong muôn vạn sự đổi thay, dịch chuyển của vạn hữu cịn có cái khơng bị chi phối bởi qui luật thành
- trụ - hoại - không, trong sự vơ thường vẫn có cái thường hằng, bất biến, đấy là "bản lai diện mục" trong
mỗi chúng sanh.


Qua hai câu kệ cuối cùng trong bài kệ <i>"Cáo Tật Thị Chúng"</i>, thiền sư Mãn Giác còn khuyên bảo chúng đệ tử
và tất cả mọi người rằng: Đừng lo sợ trước cảnh <i>"hoa tàn lá rụng"</i>, chỉ sợ là tự thân mỗi người chưa đủ sức
tỉnh giác để kiểm sốt thân, tâm của mình mà thơi. Hãy sống làm sao để mọi cử chỉ, hành động, lời nói của
mình đều có thể đem lại hạnh phúc, an vui cho người khác, sống làm sao để mỗi bước đi là một bước tiến
gần đến bến bờ giải thoát. Hãy tinh tấn lên, mọi người đều sẽ có ngày sống với mùa xuân trường cửu của
cõi lòng.


Điểm lại toàn bộ lời thi kệ, chúng ta thấy rằng, đây là sự đúc kết những tinh hoa của đạo giải thốt, là q
trình thực tu thực chứng của thiền sư Mãn Giác. Tuy Ngài chưa đạt được sự giác ngộ viên mãn như chư
Phật, nhưng Ngài đã bước những bước chân thần kỳ, đã đạt được trạng thái tâm linh ít người đạt được. Bài
kệ của Ngài khiến cho nhiều người phải ưu tư, muốn giải tỏa nỗi ưu tư này thì khơng cịn con đường nào
khác hơn là sự thể nghiệm của tự thân. Vì thế mà bài kệ của Ngài trở thành ngọn đuốc soi đường cho mọi
người trở về với nếp sống chân thiện mỹ, trở về với chân lý của lẽ sống ngàn đời. Bài kệ còn thúc đẩy mọi
người đi tìm hạnh phúc chân thường cho cuộc sống. Có thể khẳng định rằng, thiền sư Mãn Giác, cũng như
bài thi kệ của Ngài sẽ sống mãi, tồn tại mãi trong lòng những con người yêu chân lý và đi tìm chân lý.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×