TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HĨA – NGHỆ THUẬT
TÌM HIỂU
NGHỆ THUẬT CA TRÙ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN VĂN HÓA
Giảng viên hướng dẫn : PGS -TS Phan Văn Tú
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp
: Quản lý văn hố 7C
Niên khóa
: 2006- 2010
HÀ NỘI – 2010.
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..............................................................................................4
1.Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 4
2.Đối tượng,phạm vi nghiên cứu ................................................................... 8
3.Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
4.Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 8
5.Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................................. 8
6.Đóng góp của đề tài .................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT CA TRÙ ............10
1.1. Khái quát về nguồn gốc Ca Trù .............................................................10
1.1.2. Lễ hóa tổ Ca Trù ..............................................................................12
1.1.3. Những khái niệm về Ca Trù ...........................................................15
1.1.4. Đặc điểm về tên gọi của Ca Trù .......................................................28
1.2. Khơng gian văn hóa – Chức năng xã hội của Ca Trù ...........................32
1.2.1. Chức năng nghi lễ tín ngưỡng ..........................................................32
1.2.2. Chức năng nghệ thuật .....................................................................32
1.3 Hình thức biểu hiện của Ca Trù ..............................................................33
1.3.1. Ca trù cung đình (Hát cửa quyền) ..................................................33
1.3.2. Ca trù dân gian ...............................................................................34
CHƢƠNG 2: NGHỆ THUẬT CA TRÙ .......................................................38
2.1. Các lối hát Ca Trù ..................................................................................38
2.1.1. Hát chơi ...........................................................................................38
2.1.2. Hát cửa đình ....................................................................................38
2.1.3. Hát thi .............................................................................................38
2.2. Hình thức tổ chức giáo phường Ca Trù ..................................................39
2.3. Những đặc điểm và yêu cầu của nghệ thuật hát Ca Trù .........................50
2.4. Lời thơ của Ca Trù .................................................................................50
2.5. “Điệu múa bông” – “Báu vật” của nghệ thuật Ca Trù ............................51
2.5.1 Giới thiệu về “ Điệu múa bông ” trong nghệ thuật Ca trù ................51
2.5.2 Gốc tích điệu múa 700 năm tuổi ......................................................53
2.6. Nhạc cụ sử dụng khi hát Ca Trù .............................................................58
2.6.1. Cỗ phách .........................................................................................58
2.6.2. Đàn đáy ...........................................................................................59
2.6.3. Trống chầu ......................................................................................59
CHƢƠNG 3 :THỰC TRẠNG – BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HÓA CA TRÙ ................................................................................................61
3.1. Ca Trù – Di sản văn hóa phi vật thể, truyền khẩu của nhân loại .............61
3.1.1 Vẻ đẹp của Ca Trù ...........................................................................61
3.1.2. Ca Trù – Nghệ thuật độc đáo riêng có của Việt Nam ......................62
3.2. Thực trạng hoạt động Ca Trù ngày nay ..................................................64
3.2.1. Tạo dựng các hình thức sinh hoạt và khơng gian diễn xướng văn hóa
cho Ca Trù ................................................................................................66
2
3.2.2. Những khó khăn hiện tại..................................................................69
3.3. Những giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật
Ca Trù ..........................................................................................................73
3.3.1. Những giải pháp 3.3.1.1 Chú ý tới việc truyền nghề cho thế hệ trẻ
..................................................................................................................73
3.3.2.Những kiến nghị ...............................................................................75
KẾT LUẬN ....................................................................................................78
PHỤ LỤC .......................................................................................................79
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật dân tộc được kết tinh từ mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước, vốn vô cùng phong phú, đa dạng và hấp dẫn.Việc tìm hiểu các bộ mơn
nghệ thuật truyền thống là biểu hiện của tinh thần yêu quê hương đất nước trân
trọng những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc và trong đó nghệ thuật Ca Trù
là một bộ môn âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam, có giá trị cao về
nghệ thuật và phương diện lịch sử Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một
loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và học giả yêu thích.
Lịch sử phát triển của nghệ thuật ca trù qua các thời kỳ rất phức tạp, thuở sơ
khai nó là ban nữ nhạc trong cung vua với tính chất là một loại hình nghệ thuật
"cung đình". Với lối "hát chơi" phục vụ cho nhu cầu thưởng thức của một số
quan lại, nho sĩ thì nó là một hình thức nhạc thính phịng. Với lối hát cửa đình hát trước hương án của các vị thành hoàng (trong nhà) và hát cả ngoài sân với
đơng đảo nhân dân tham dự - nó vừa mang tính chất thính phịng vừa mang
tính chất đại chúng. Tuy các lối hát với những bối cảnh diễn xướng khác nhau,
nhưng tất cả đều có một điểm chung là các sinh hoạt này ln ln có 2 đối
tượng: khán giả và diễn viên. Trong đó, diễn viên là những người chuyên nghề
ca hát, khác với các loại hình âm nhạc dân gian khác như hò, lý... được diễn
xướng trong lúc đang làm việc, khơng có đối tượng khán giả thưởng thức, chỉ
hát cho nhau nghe, có khi tự hát cho mình nghe (như nhạc tài tử Nam bộ). Điều
đó tỏ rõ ca trù là một loại hình nghệ thuật chuyên nghiệp mang tính bác học.
Thế kỷ 19 có thể nói là giai đoạn phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật ca
trù. Từ nhu cầu muốn thưởng thức những bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng hoặc
thơ của chính mình, các quan lại trí thức, các nho sĩ đã mời ả đào về tư dinh của
mình để hát. Chỉ cần 3 người: một ả đào (vừa hát vừa gõ phách), một kép
4
(người đánh đàn đáy) và chính chủ nhân vừa làm khán giả, vừa là người cầm
chầu (đánh trống). Người cầm chầu vừa điểm trống theo câu hát vừa là người
khen, chê, để thưởng, phạt thông qua hiệu lệnh trống. Chỉ cần 3 người cũng đã
tạo nên một buổi trình diễn, thưởng thức và thẩm định nghệ thuật trọn vẹn.
Ca trù là một nghệ thuật pha trộn giữa âm nhạc và thơ ca, mỗi buổi hát ca trù
là một cuộc trình diễn nghệ thuật mà trong đó cả diễn viên và khán giả đều là
nghệ sĩ. Cả hai đều tích cực tham gia vào cuộc diễn, giữa người diễn và người
nghe tìm được một sự đồng điệu. Ca trù một thời đã trở thành thú chơi tao nhã
của các bậc phong lưu, nho sĩ và là loại hình âm nhạc thính phịng độc đáo của
dân tộc Việt Nam.
Khi ca trù thốt ra khỏi những cung vua phủ chúa, trở lại cuộc sống nhân
dân với những tổ chức giáo phường, tuy vẫn mang tính chun nghiệp nhưng
nó được ni dưỡng và giữ gìn trong dân gian thơng qua những buổi tế lễ ở cửa
đình, những hội hè, lễ tiết ở nơng thơn. Và cũng chính sự phổ biến rộng rãi ra
ngồi nhân dân mà ca trù được các danh sĩ rành âm luật và các tay giáo phường
tài hoa bổ sung nhiều lối hát, làm cho ca trù ngày càng phong phú.
Trong đó, hát nói là một lối hát quan trọng của ca trù và lối hát đó đã sản
sinh ra một thể thơ mới, đặc biệt của văn học Việt Nam. Nhiều bài hát nói nổi
tiếng của Nguyễn Cơng Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Tản
Đà... là những tác phẩm có giá trị đóng góp cho nghệ thuật ca trù và cho cả văn
học Việt Nam thế kỷ 19, là mầm mống cho thể loại thơ mới, thơ tự do sau này.
Tài liệu về ca trù sớm nhất là từ thế kỷ XV. Và trong suốt quá trình phát
triển từ đó đến nay, ca trù đã qua những thăng trầm biến đổi, lúc vượng lúc suy.
Sinh ra trong cái nơi của văn hố dân gian, nhưng ca trù lại trở thành một bộ
môn nghệ thuật bác học vào bậc nhất của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Từ những bức chạm khắc dân gian ở các ngơi đình, chùa rải rác khắp nơi từ
5
Bắc Bộ đến Thanh Hoá, Hà Tĩnh, từ những bản thác văn bia, đến những thư tịch
cổ trong kho tư liệu Hán Nôm, cho thấy một quá khứ phát triển rực rỡ của bộ
mơn nghệ thuật này.
Từng có thời, ca trù là món ăn tinh thần khơng thể thiếu đối với các văn
nhân trí thức. Tài liệu cổ cũng cho biết, vào thế kỷ 18, ca trù đã được dùng
trong nghi lễ đón tiếp ngoại giao cấp nhà nước. Thế kỷ 19 ghi dấu sự phát triển
rực rỡ nhất của ca trù, với việc hình thành những "địa danh" nổi tiếng về hát cô
đầu như Khâm Thiên, Ngã Tư Sở (Hà Nội). Báo Trung Bắc chủ nhật số 129,
năm 1942 cho biết, năm 1938, ngoại ơ Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cơ
đầu.
Trong các khu phố có các ca quán ả đào, Khâm Thiên và Ngã Tư Sở là
những địa chỉ nổi tiếng vì sự gắn bó với các nhà văn nhà thơ nổi tiếng: Tản Đà,
Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoài Điệp Thứ Lang, Vũ Hoàng Chương.
Nhà văn Vũ Bằng gọi xóm Khâm Thiên là “cái nơi văn nghệ của Hà Nội”.
TS Nguyễn Xuân Diện đưa ra những chi tiết hết sức thú vị như, trong ca trù
ngày xưa, có một cơ đầu hát và một cơ đầu rượu. Cô đầu rượu tất nhiên không
bao giờ hát, mà chỉ phục vụ những nhu cầu "thư giãn" của quan viên (quan viên
ở đây là người nghe hát).
Cịn cơ đầu hát thì khơng bao giờ tiếp rượu, ln đi với anh trai hoặc chồng,
và lúc nào cũng trong tư thế hết mực đoan trang, kể cả trong cách lấy hơi nhả
chữ. Chính vì có một thời hiểu nhầm những quy định nghiêm ngặt này, mà
những ca nương bị nghi ngờ, ca trù bị "mang tiếng xấu". Đó cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự "suy thoái" của ca trù sau này. Từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, cùng với một số tàn dư xấu của chế độ cũ, ca trù
cũng đã bị quét đi, không thương tiếc.
Cho đến năm 1976, GS Trần Văn Khê mang ca trù đến với thế giới qua việc
ghi âm giọng hát của NSND Quách Thị Hồ. Và bà được Hội đồng Âm nhạc
6
quốc tế của UNESCO và Viện Nghiên cứu quốc tế về Âm nhạc so sánh đã trao
bằng danh dự vào năm 1978. Và từ đó tên tuổi của bà cùng tiếng hát ca trù độc
đáo của Việt Nam được thế giới biết đến.
Năm 1988, tại Liên hoan Quốc tế Âm nhạc truyền thống ở Bình Nhưỡng, có
sự tham gia của 29 quốc gia, băng ghi âm tiếng hát của bà đại diện cho Việt
Nam đã được xếp hạng cao nhất. Sau đó, Bà được Nhà nước phong tặng danh
hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Cho đến nay, bà là người đầu tiên và duy nhất được
phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ngành Ca trù.
Những năm gần đây, nhiều nhóm, nhiều câu lạc bộ ca trù được thành lập và
đi biểu diễn nhiều nơi trong và ngoài nước. Nhiều hội thảo, liên hoan ca trù
cũng được tổ chức. Nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết, những nhà quản lý, các cơ
quan chức năng, cũng như những người yêu mến ca trù đang mong muốn sự trở
lại của một bộ môn nghệ thuật truyền thống độc đáo, hấp dẫn và tinh tế, thấm
đẫm bản sắc Việt.
Trong xu thế hội nhập văn hóa thê giới, nghệ thuật truyền thống đang đứng
trước cơ hội và thử thách. Nghệ thuật truyền thơng Việt Nam nói chung và Ca
Trù nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc lấy tìm lại vị trí của mình
đối với cơng chúng, thậm trí nghệ thuật ca trù dần như đang bị qn lãng. Điều
đó khiến chúng ta khơng khỏi trăn trở
Và đặc biệt vào lúc 14h45 ngày 1 10 (giờ Việt Nam), Ca trù Việt Nam lại
được xướng tên trong danh sách các “Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo
vệ khẩn cấp” của UNESCO
-Từ những nhận thức nêu trên,chúng tơi chủ trương tìm hiểu về nghệ thuật
Ca Trù ,cố gắng góp phần để bảo tồn, khai thác và phát triển di sản văn hóa của
nhân loại. Vì thế tơi đã lựa chọn đề tài “ Tìm hiểu nghệ thuật Ca Trù” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
7
2.Đối tƣợng,phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật Ca Trù
-Phạm vi nghiên cứu là nghệ thuật Ca Trù nói chung,khơng phân biệt vùng
miền
3.Phƣơng pháp nghiên cứu
-Sưu tầm,nghiên cứu tài liệu
-Phỏng vấn
-Thống kê
-Tham gia trực tiếp
-Khảo sát thực tế
4.Lịch sử nghiên cứu
Cho đến nay,tìm hiểu về nghệ thuật truyền thống nói chung,nghệ thuật Ca
trù nói riêng đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu và đề cập:
-“Việt sử tiêu án” của Ngô Thời Sỹ
-“Công dư tiệp ký” của Vũ Phương
-“Lịch sử và nghệ thuật Ca Trù”(TS.Nguyễn Xuân Diện)
-“Ca Trù tạp lục”(Viện Hán Nôm)
-“Việt Nam Ca trù biên khảo”(Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề.NXB Văn
hóa 1962)
-“Ca Trù thể cách”(xuất bản 1922)
Tuy nhiên,phạm vi giới thiệu ở những tài liệu về nghệ thuật Ca Trù cịn hạn
chế,hơn nữa qua q trình sưu tầm tài liệu và khảo sát chúng tơi thấy vẫn cịn
rất nhiều vấn đề đáng được quan tâm nên chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề
tài này
5.Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
-Nghiên cứu,tìm hiểu về nghệ thuật Ca Trù
-Tìm hiểu cơng tác bảo tồn và phát triển nghệ thuật Ca Trù
8
-Đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm góp phần vào công tác sưu tầm,nghiên
cứu,phát triển nghệ thuật Ca Trù trong giai đoạn hiện nay
6.Đóng góp của đề tài
-Khẳng định vốn văn hóa truyền thống Việt Nam rất đa dạng,phong phú và
phát triển
-Từ thực trạng tồn tại và phát triển của loại hình này giúp cho ngành văn hóa
thấy rõ được vai trị,trách nhiệm của mình,để từ đó đề ra phương hướng phát
triển ngành văn hóa
BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngồi phần mở đầu và kết luận,đề tài gồm 3 chương chính
Chương 1.Lịch sử hình thành nghệ thuật Ca trù
Chương 2.Nghệ thuật Ca Trù
Chương 3.Thực trạng- Bảo tồn phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật Ca trù
9
CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT CA TRÙ
1.1. Khái quát về nguồn gốc Ca Trù
Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được
giới quý tộc và học giả yêu thích. Trải qua hàng trăm năm lưu giữ và phát triển,
ca trù trở thành một trong những loại hình dân gian gây ấn tượng sâu sắc không
chỉ trong nước mà vươn ra thế giới.
Ca trù là loại hình nghệ thuật gắn liền với thơ ca, được hát lên từ những câu
thơ và có thể nói rằng, ca trù (ban đầu gọi là hát ả đào) là loại hình nghệ
thuật bắt nguồn từ lối hát múa trong cung điện các vua chúa ngày xưa
Từ xưa, các vua chúa Việt Nam đã có những tổ chức lễ nhạc. Lễ nhạc trong
cung đình vua chúa thường gồm 2 bộ phận là Nhã nhạc và Yến nhạc. Nhã nhạc
dùng trong các buổi tế tự, các buổi đại triều, thường triều, để tăng thêm phần
nghiêm trang, trọng đại. Yến nhạc dùng trong các buổi tiếp đãi sứ thần ngoại
quốc, các yến tiệc lớn trong cung đình... để nói lên cảnh thái bình, thịnh vượng.
Từ đời nhà Đinh và Tiền Lê trở về trước không thấy sách sử nói đến những
sinh hoạt hát múa, nhưng từ đời nhà Lý trở về sau ở một số sách sử, chúng ta đã
thấy bóng dáng của những sinh hoạt đó.
Sách Khâm định Việt sử (quyển 2, trang 39) ghi: "Năm Thông Thụy thứ 2
(1035), vua Thái Tông sách lập Thiên cảm Hoàng hậu, phong 13 người làm
Hậu phi, kén 18 người ngự nữ hầu hạ và tuyển hơn 100 ca nữ".
Trần Trung Cương (Thượng thư bộ Lễ đời nhà Nguyên – Trung Quốc) khi
đi sứ sang Việt Nam (đời nhà Trần), đã ghi lại trong Sách Sứ Giao Châu tập
như sau: "Khi dự yến tiệc ở điện Tập hiền, có vài mươi đứa con trai, con gái
ngồi ở dưới chiếu mà hát, đàn tỳ bà và đàn tranh cùng hòa với nhau..."
10
Sách Công dư tiệp ký (Vũ Tuần Phủ, trang 78) viết: "Cuối đời nhà Hồ (1400
–1407), có người con hát họ Đào quê ở làng Đào Xá, tỉnh Hưng Yên, lập mưu
giết được giặc Minh. Khi nàng chết dân nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn nàng là
thôn Ả Đào. Từ đấy những người đi hát gọi là ả đào hay đào nương".
Sách Việt Nam ca trù biên khảo (Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, trang
34, 35) viết: "Năm Hồng Đức (1470 – 1497), vua sai các quan văn thần là Thân
Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh kê cứu âm nhạc nước Tàu, hợp vào
âm điệu nước nhà mà đặt ra hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc. Bộ Đồng văn
chuyên tập âm luật, bộ Nhã nhạc chuyên luyện nhân thanh, cùng thuộc quyền
quan Thái thường trông coi. Âm nhạc dân gian thì đặt giáo phường cai quản,
nhã nhạc và tục nhạc riêng biệt, không lẫn vào nhau.
Âm luật đời Hồng Đức có: Cung Hồng chung, Cung Nam, Cung Bắc, Bát
đoạn cẩm, Đại thực, Dương kiều, Âm kiều, Hà bắc, Hà nam, Thiết nhạc, Đàn
lẩy (nẩy), Hát tầng.
So sánh âm luật đời Hồng Đức với lối hát ca trù ngày nay, ta nhận thấy trong
12 lối hát kể trên, chỉ còn 5 lối lưu truyền lại là: Cung bắc, Đại thực (Đại
thạch), Hát tầng (Xướng tầng), Thiết nhạc (Thét nhạc) và Hà nam. Riêng lối Hà
nam người ta phỏng theo đó mà đặt ra điệu Hát nói".
Theo sự tích "Tổ cơ đầu" thì vào thời nhà Lê, có ông Đinh Lễ quê ở làng Cổ
Đạm, tỉnh Hà Tĩnh, thuê thợ lấy gỗ ngô đồng làm ra cây đàn đáy. Ông cùng với
vợ là bà Bạch Hoa đặt ra nhiều khúc hát để dạy cho các học trò của mình nên
được đời sau tơn là Tổ cơ đầu.
Các hình thức hát với thơ trong cung điện vua chúa là diễn tấu của các ban
nữ nhạc. Mãi đến thời nhà Hồ, những người hát được gọi là ả đào. Ca trù phát
triển qua nhiều giai đoạn lịch sử. Tùy thuộc vào sinh hoạt, vào bối cảnh diễn
11
xướng, ca trù cịn có những tên gọi khác như: hát cơ đầu, hát cửa đình, hát cửa
quyền, hát nhà trò, hát nhà tơ...
Riêng việc xác định địa danh xuất phát của nghệ thuật ca trù, cho đến nay
vẫn chưa có những minh chứng cụ thể. Việc xác định đó được ngầm hiểu như
sự xác định đền thờ Tổ. Hiện nay có một số địa phương có lập đền thờ Tổ: làng
Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh thờ ông Đinh Lễ; làng Lỗ Khê, huyện
Đông Anh, Hà Nội thờ ông Đinh Dự; làng Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Tây thờ
Đinh Triết... Tuy nhiên, truyền thuyết về ông Đinh Lễ ở làng Cổ Đạm là chi tiết
và được nhiều người biết đến nhất, hơn thế nữa Cổ Đạm là được xem như là cái
nơi của nghệ thuật ca trù. Vì vậy khi nói đến nghệ thuật ca trù thì người ta chú ý
đến Cổ Đạm nhiều hơn cả.
Ngày 12 tháng 11 âm lịch hàng năm, những người con của ca trù lại về vùng
đất tổ của môn nghệ thuật này để cúng bái và nhớ ơn những nghệ nhân đã xây
dựng và phát triển nghệ thuật ca trù. Một trong những vùng đất ấy, chính là làng
tổ ca trù Lỗ Khê nay thuộc huyện Đơng Anh, Hà Nội.
1.1.2. Lễ hóa tổ Ca Trù
1.1.2.1. Lịch sử làng nghề ca trù Lỗ Khê
Cách Hà Nội hơn 30km, thơn Lỗ Khê có tên Nôm là làng Rỗ, trước năm
1954 là xã Lỗ Khê, tổng Hà Lỗ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, năm 1961 mới
chuyển về Hà Nội.
Hát ca trù ở Lỗ Khê đã có lịch sử phát triển gần 600 năm, nơi đây tồn tại
điển tích nói rằng vào năm 1426, Đinh Dự - con trai đầu của tướng quân Đinh
Lễ cùng vợ là Mẫn Đường Hoa đã sáng tạo ra giáo phường Lỗ Khê chuyên hát
phục vụ cung đình. Bên cạnh đó, Đinh Dự cùng Mẫn Đường Hoa cịn thành lập
nhiều giáo phường khác và được thờ làm tổ nghề ca trù. Kể từ đó đến nay, ca
12
trù đã trải qua nhiều thăng trầm lịch sử để tìm chỗ đứng trong lịng mỗi người
dân Việt Nam.
Tại thơn Lỗ Khê hiện nay vẫn cịn ngơi đình Ca Cơng từ ("Ca": ca-vũ;
"công": tên gọi của một tước vị; "từ": đình) hay cịn gọi là đình Ca Cơng Lỗ
Khê. Ngơi đình đã được xây dựng cách đây gần 600 năm, là nơi tụ họp của các
nghệ nhân, ca nương ca trù. Hàng ngày, các cụ ca nương, ca cầm vẫn đàn hát và
truyền nghề cho lớp con cháu ở trong làng.
1.1.2.2. Lễ hóa tổ Ca trù
Vào dịp giữa tháng 11 âm lịch, các nghệ nhân, ca nương, ca cầm lại tụ hội
về đây để kỉ niệm ngày giỗ tổ ca trù. Bên cạnh những ca nương vẫn còn sinh
sống ở làng, cịn có nhiều câu lạc bộ ca trù từ nhiều nơi đến tham gia lễ Hóa tổ.
CLB ca trù Thăng Long - nơi được xem là CLB phát triển mạnh nhất về ca
trù. CLB Ca trù Thăng Long dao động từ 15-20 thành viên, thành viên cao tuổi
nhất là cụ Nguyễn Thị Chúc và cụ Nguyễn Phú Đẹ, ít tuổi nhất là bé Huệ
Phương - 10 tuổi. Các thành viên trong CLB chủ yếu là những bạn trẻ từ 21-18
tuổi, đam mê ca trù và đã quyết định đi theo con đường trở thành những ca
nương, ca cầm hát ca trù. Câu lạc bộ sinh hoạt định kì thứ 6 hàng tuần tại đền
Cống Vị, nay đã chuyển sang địa điểm mới là đình Giảng Võ. Các học viên đều
là sinh viên của các trường đại học tại Hà Nội, như: Học viện Âm nhạc, Đại học
Ngoại thương... Các bạn đến với CLB để thể hiện tình yêu của mình với một
loại hình nghệ thuật dân tộc, đồng thời cũng tiếp bước ông cha, bảo tồn di sản
phi vật thể quý giá này.
Mở đầu lễ hóa tổ là nghi thức dâng hương được các ca nương cao tuổi sống
tại làng thực hiện.
13
Các ca nương mái tóc đã điểm hoa râm, vết thời gian đã in hằn lên khuôn
mặt nhưng hễ đến dịp này hàng năm, các cụ vẫn thường xuyên tập luyện để
tham gia đội dâng hương trong ngày giỗ tổ.
Tiếp theo, từng đoàn nghê nhân và ca nương ca trù tiến vào bàn thờ tại Ca
công từ để bái lạy tổ sư ca trù. Ông Vũ Phong Tạo - một nhà báo đã về hưu sinh
ra và lớn lên tại đất tổ ca trù Lỗ Khê, người rất tâm huyết với ca trù, cho biết:
"Tơi ln tự hào vì được sinh ra là một người con của Đất tổ ca trù".
Vào ngày 1 10 2009, Ca trù chính thức được UNESSCO công nhận là di sản
phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, đó cũng là một chủ đề được bàn tán khá sơi nổi
tại lễ hóa tổ. Ơng Vũ Phong Tạo cho biết: "Tại sao lại là "cần bảo vệ khẩn cấp",
có nghĩa là ca trù đang dần dần bị mai một đi, các nghệ nhân, ca nương hiện
đang sống khơng cịn nhiều, việc chúng ta cần phải làm bây giờ là phải cùng
nhau giúp ca trù đứng vững trong nghệ thuật dân gian của dân tộc, bảo tồn một
thứ tài sản quý giá do ông cha để lại". Làn sóng Tây Âu xâm nhập vào Việt
Nam quá mạnh, đã dẫn đến việc các loại hình văn hóa dân gian dần dần khơng
cịn được chú ý và bảo vệ. Theo lời của ca nương Phạm Thị Huệ - Chủ tịch
CLB ca trù Thăng Long thì hiện nay gần 90% ca nương, ca cầm khơng có
lương, chưa thể sống được bằng niềm đam mê và tình yêu dành cho ca trù.
1.1.2.3. Hợp tấu
Sau nghi thức cúng bái, các ca nương, ca cầm bắt đầu trình bày những khúc
hát nói tiêu biểu của ca trù như "Thét nhạc" (thơ cổ), "Tỳ bà hành" (Bạch Cư
Dị)... Bên cạnh những bài nhạc đã đi sâu vào lịng người, cịn có sự xuất hiện
của những bài nhạc mới như "Nghìn năm Thăng Long - Hà Nội", "Gặp Xuân"...
Tiếng đàn đáy, cỗ phách cùng tiếng trống chầu vang lên, giọng hát của đào
nương nức nở quyện vào lòng người.
14
Buổi lễ kéo dài gần 3 tiếng, cuối buổi các nghệ nhân cao tuổi ở làng chia hoa
quả lộc cho các ca nương, ca cầm đã đến dự lễ. Buổi lễ kết thúc mang đến cho
người tham gia những suy nghĩ trăn trở: Phải làm sao để duy trì được sự tồn tại
và phát triển của ca trù dân tộc, làm sao để đưa ca trù đến với mọi tầng lớp công
chúng? Đây vẫn đang là những câu hỏi của nhiều người yêu thích và tâm huyết
với ca trù Việt Nam.
1.1.3. Những khái niệm về Ca Trù
1.1.3.1. Ả đào
Ả đào là thành viên quan trọng của tiệc ca trù, vai trò của ả đào là làm ca
sĩ cho tiệc hát nhưng khác với ca sĩ ở chỗ ả đào vừa hát vừa gõ phách. ả đào
là nữ giới, kép là nam
giớị Hiện nay giới nghiên cứu vẫn chưa nghiên cứu tên gọi này cũng như
thời điểm lịch sử và điều kiện lịch sử sản sinh ra nó.
Đại Việt sử kí toàn thư, ghi về năm 1025, rằng “ khi ấy có con hát là Đào
thị, giỏi nghề hát, thường được ban thưởng. Người bấy giờ hâm mộ tiếng
của Đào thị, phàm các con hát đều gọi là đào nương”
Việt sử tiêu án của Ngơ Thời Sỹ cũng nói rằng thời Lý thái tổ (10101028) có người ca nhi tên là Đào Thị tài giỏi, hát hay được vua ban thưởng,
từ đó về sau những người đi hát được gọi là đào nương (tức ả đào), nhưng
Công dư tiệp ký lại nói, vào một thời điểm muộn hơn, cuối nhà Hồ (14001407) một ca nhi họ Đào( cũng là họ Đào), ở làng Đào Đặng, huyện Tiên
Lữ, tỉnh Hưng Yên, giết được nhiều giặc Minh, về sau dân làng ở đây lập
đền thờ, gọi thôn của nàng là thôn ả Đào, và cũng từ đó ca nhi được gọi là ả
đàọ Về sau, quãng cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là nửa đầu thế kỷ XX, ả đào
thường được gọi là cô đầu.
15
1.1.3.2. Ca trù
Ca trù là một khái niệm chỉ một lối hát mà trong nó có rất nhiều điệu hát(
theo thống kê của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề thì ca trù có 46 điệu):
thét nhạc, non mai, hồng hạnh, hát nói,...Trong cách hiểu thơng thường, khái
niệm ca trù có thể được thay thế bằng các khái niệm khác như hát ả đào, hát
nhà trị, hát cơ đầu, hát nhà tơ,...mà nội dung của chúng không thay đổi và
vẫn được hiểu như nhaụ ở Thanh Hóa ca trù cịn được gọi là hát ca công, hát
gõ. Về nghiã chữ thì ca trù xưa nay được giải thích là hát thẻ. Thẻ gọi là
trù.Thẻ làm bằng tre và dùng để thưởng cho đào hát thay cho trả tiền mặt
trực tiếp. Khi ả đào hát, quan viên thị lễ, một bên đánh trống,một bên đánh
chiêng, trống đánh chát và chiêng đánh một tiếng khi thấy hát hay thì thưởng
cho đào một thẻ trù, xong tiệc hát đào, kép ứng theo số thẻ đã được thưởng
mà tính tiền, nhận tiền đúng theo quy định. Một số văn bia thế kỷ XVI, XVII
ghi rõ qui định nàỵ Khái niệm ca trù sớm nhất hiện biết là thế kỷ XVI tro ng
bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao.
1.1.3.3. Cầm chầu
Đánh trống cho ả đào hát gọi là cầm chầu.Dùi trống, làm bằng gỗ quý, gọi
là roi chầu.Cầm chầu là tham gia vào ban nhạc, nghĩa là cũng có khổ, có
tiếng trống khoan, trống mau như đàn và phách. Người quan viên cầm chầu
ngoài chức năng tham gia ban nhạc với vai trị cầm quyền âm nhạc, cịn có
nhiệm vụ quan trọng là chấm thưởng mỗi khi đào nương hát hay hoặc hát
đến câu văn hay, chữ hay, ý hay và còn chấm cả đàn hay, phách haỵ..Các
khái niệm thưởng chữ, thưởng hơi, thưởng ý, thưởng đàn, thưởng phách xuất
hiện vì những lý do như vậỵ Người cầm chầu đánh''cắc'' là chấm thưởng.
Tiếng trống thể hiện tính cách và khả năng âm nhạc, văn học của người cầm
chầụ Điểm thưởng phải tinh, phải đích xác, khơng thưởng sai, khơng thưởng
liềụ Trước khi vào hát dùng ba khổ trống sơ cổ, tòng cổ, trung cổ; khi chuẩn
bị hát, để dục đào, kép vào hát, thì dùng thơi cổ, khi hát dùng các khổ song
châu, liên châu, xuyên tâm, chính diện, phi nhạn, lạc nhạn, quán châu.
16
1.1.3.4. Cơ đầu nịi
Theo Đỗ Bằng Địan- Đỗ Trọng Huề thì “ những con hát ở trong họ truyền
thống gọi là Cơ đầu nịi. Người ngồi muốn học nghề hát phải làm con nuôi
một người trong họ truyền thống ( nhà nịi) mới được giáo phường cơng
nhận”
1.1.3.5. Cơ đầu rƣợu
Qng cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX xuất hiện khái niệm “cô đầu
rượu” để chỉ các cô gái đến hầu khách, tiếp rượu hoặc uống rượu để mua
vui cho khách nhưng không biết hát. Khái niệm này được dùng với thái độ
phê phán.
1.1.3.6
Đàn đáy
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì đàn đáy là một nhạc cụ chỉ có duy nhất ở
Việt Nam. Và đàn đáy cũng chỉ dùng trong khi hát ca trù. Cây đàn này gắn bó
với một thể loại ca nhạc độc đáo của người Việt, và chỉ với một thể loại mà thôi
và trở thành một nhân tố đặc trưng, khu biệt ca trù với các thể loại ca nhạc
khác. Các căn cứ sớm nhất về đàn đáy trong mỹ thuật cổ là các bức chạm gỗ ở
một số đình làng như đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hồ, Bắc Giang), Hồng Xá (Ứng
Hịa, Hà Tây), Tam Lang (Can Lộc, Hà Tĩnh).
Đàn đáy cịn gọi là vơ để cầm, nghĩa là đàn khơng đáy,có cần dài 1,2 m,
với 3 dây, 11 phím, thùng vng, thùng đàn thường là đóng bằng gỗ ngô đồng.
Đàn đáy cho một âm thanh trầm đục sâu lắng nền nã, hồ với tiếng phách có âm
thanh sắc giòn tạo nên một sự đối chọi âm thanh vừa độc lập lại vừa bén quyện.
Thỉnh thoảng lại xen một tiếng trống chầu gọn chắc, đĩnh đạc, khiến cho cuộc
hát rất thi vị, mà trong đó chủ khách vừa tôn vinh nhau, lại vừa khẳng định sự
độc lập và chủ động của mình. Nhiều người đã biết đến những danh cầm đàn
đáy của ca trù trong thế kỷ 20 như Chu Văn Du, Đinh Khắc Ban, Phó Đình Kỳ.
Gần đây, tại một liên hoan ca trù, những người yêu ca trù lại biết thêm một
danh cầm nữa. Đó là kép đàn Nguyễn Phú Đẹ.
17
Tiếng đàn phải theo tiếng hát, hát cao thì đàn cao, hát thấp thì đàn thấp.
Đàn có hai cách là đàn khn và đàn hàng hoạ Theo Sự tích tổ cơ đầu(theo
VNCTBK) thì truyền thuyết kể rằng Đinh Lễ, thời Lê, quê Cổ Đạm, Hà Tĩnh,
chế tạo ra đàn đáỵ Bộ sử lớn là Đại Việt sử ký toàn thư, trong danh sách được
liệt kê, khơng thấy có đàn đáy trong khi có nhiều loại đàn khác, có thể thời
kỳ này chưa có đàn đáy hoặc đã có nhưng chưa được chú ý đến
1.1.3.7 Đầu thƣởng, vai thƣởng, nách thƣởng.
Khái niệm này ít được các sách nói đến. Xn Lan trong bài Nói về phép
đi hát và phép đánh trống, in trong cuốn Ca trù thể cách, xuất bản năm 1922,
viết : “ Hát có địa thế, như câu rằng: “Minh quân lương tể tao phùng dị”, lại
như là: “Trương Lương bản vị hàn cừu xuất”. Những câu ấy, chữ nào chữ
nấy phải hát cho rõ ràng, đứng đắn, vuông trịn, khơng khoan, khơng gấp,
khơng cách nhỡ, mấy la hảo địa bộ, thời cũng nên thưởng. Thưởng những
câu ấy, thời ca cơng gọi là đầu thƣởng.
Hát cũng có tiếp tục, như câu rằng: “ ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh
phù du trông thấy cũng buồn cười, thôi công đâu chuốc lấy sự đời, tiêu khiển
một vài chung lếu láo. Thế thời, Cảnh phù du, ba chữ ấy là chốn tiếp, thôi
công đâu, ba chữ ấy là chốn tục. Những chữ ấy bắt cho khéo và hay thời
cũng nên thưởng; mà thưởng vào chốn tiếp thời ca công gọi là vai thƣởng;
gọi vào chốn tục gọi là nách thƣởng”.
1.1.3.8 Đủ khổ, dơi khổ, thiếu khổ
Một bài hát nói gồm ba khổ: khổ đầu, khổ giữa, khổ xếp. Khổ đầu và khổ
giữa mỗi khổ có 4 câu, khổ xếp nằm ở vị trí cuối bài có 3 câụ Cấu trúc một
bài hát nói đầy đủ 11 câu, trừ phần mưỡu, gọi là một bài hát đủ khổ, trên
11câu là dôi khổ, chưa đủ 11 câu gọi là thiếu khổ. Hai khổ đầu, khổ xếp luôn
luôn giữ nguyên, dôi hay thiếu khổ chỉ xảy ra ở khổ giữa.
18
1.1.3.9 Giáo phƣờng
Giáo phường là một tổ chức của hát ca trù gồm nhiều họ. Cô đầu và kép
từng vùng đều có một tên họ riêng, đào, kép ở họ nào mang tên họ ấy kèm
theo tên của mình. Các tác giả Việt Nam ca trù biên khảo nói rằng giáo
phường trước kia có những họ như họ Tam, họ Ngàn, họ Thông, họ Thiên và
tên họ đứng trước tên người , ví dụ, tên là Thuận thuộc họ Thơng thì gọi
Thơng Thuận. Người đứng đầu trong giáo phường gọi là ông trùm. Đứng đầu
các trùm là các quản giáp. Giáo phường có hệ thống quy ước mà các thành
viên phải thực hiện. Hằng năm tế tổ vào ngày11 tháng Chạp, sau ngày lễ tế tổ
thì ơng trùm giải quyết những công việc nảy sinh trong giáo phường. Nơi lễ
tế tổ khơng cố định, có thể làm ở nhà thờ, hoặc mượn đình của xã để làm lễ.
Khi làm lễ có đủ mặt các đào nương, kép hát, hát đủ các điệu và đặt tiệc mời
khách quí chứng giám, thường gọi là đám thánh sự Giáo phường còn được
hiểu là nơi dạy những người đi hát. Các tỉnh đều có giáo phường. Thăng
Long ngày xưa có thơn Giáo Phường thuộc tổng Tả Nghiêm (sau đổi là Kim
Liên). Cũng có thể cho rằng giáo phường là một tổ chức nghề nghiệp vừa có
tính chất phường hội.
1.1.3.10 Hãm
Hãm là điệu hát của ca trù, hát ngâm hãm để chuốc rượu chúc mừng trong
các tiệc vui hoặc tiệc mừng thọ. Khúc hát hãm có từ một mừng đến mười
mừng. Cơ đầu hát hãm để mời khách uống rượu, đặt quan viên vào tình thế
phải uống. Nội dung và tiếng hát, câu hát trong tiệc mừng thọ phải mang tính
chất vui và trang trọng và trong các cuộc vui với khách phong lưu phải có nét
tình tứ.
1.2.3.11 Hát ả đào
Cũng như khái niệm ca trù, hát ả đào là tên gọi chung của rất nhiều điệu
hát và có thể thay thế các khái niệm như ca trù, hát cơ đầu, hát nhà trị,...Đó
là những tên gọi khác nhau của cùng một nội dung. Thời điểm xuất hiện các
tên gọi khác nhau có thể xuất phát từ những lý do lịch sử khác nhaụ Theo các
19
thư tịch hiện biết thì khái niệm hát ả đào sớm nhất so với các khái niệm ca
trù, nhà trò, cô đầu,...Các sách Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sỹ, Cơng dư tiệp
ký của Vũ Phương Đề tuy nói khác nhau về thời gian xuất hiện khái niệm hát
ả đào mấy thế kỷ(nhà Lý và nhà Hồ) nhưng đều nói đến một lý do giống
nhau là có một ca nhi họ Đào được ái mộ nên về sau những người ca hát
được gọi là ả đào. Thông tin về sự xuất hiện khái niệm được biết như thế
nhưng các điệu hát thời đó như thế nào thì vẫn chưa có tư liệu nào cung cấp
cho chúng ta, kể cả sự hiện diện dưới hình thức dấu hiệu ở một vài tư liệu
hiện có. Thành tựu nghiên cứu cho đến nay vẫn chưa có cách giải thích khác
về khái niệm ả Đào.
1.1.3.12 Hát cô đầu
Hai khái niệm hát ả đào và hát cô đầu là cùng một nghĩa, một nội dung.
Đào và đầu là hiện tượng chuyển hóa ngữ âm giữa tiếng Hán Việt sang tiếng
Hán Việt Việt hóa, hay còn được gọi là thuần Việt. (Âm đầu Ao-au, âu như
đào sẽ thành đầu, tạo sẽ thành tậu,...Hay ai- ay như trai thành chay, trái
thành vay, hài thành giày,..).Khái niệm hát cô đầu được dùng nhiều vào cuối
thế kỉ XIX, đầu XX.
1.1.3.13 Hát cửa đình
Hát cửa đình là cuộc hát được tổ chức tại đình làng hàng năm.Thời điểm
tổ chức là vào ngày mở hội tế thần, tế thành hoàng làng. Luật lệ hát rất chặt
chẽ, nghiêm khắc, nghi lễ hát linh thiêng trọng thể. Khi hát ả đào phải nhịp
theo các tiết mục hành lễ và các động tác của người tế. ả đào phải hát đúng
cửu khúc như Ngun hịa khúc, Thái hồ khúc,...Các bài hát cửa đình gồm
giáo trống, giáo hương, dâng hương, thét nhạc,hát giai,...đặc điểm của hát
cửa đình là uy nghi, nghiêm kính,thiêng liêng.
1.1.3.14 Hát cửa quyền
Hát cửa quyền xưa nay được hiểu là hát ở trong cung vua, nghĩa là nơi
hát, địa điểm hát góp phần tạo tên gọi lối hát. Phạm Đình Hổ trong Vũ trung
tùy bút (mục Bàn về âm nhạc) mô tả sự khác nhau giữa hát ở cửa quyền và
20
hát ngoài giáo phường: “Hát ở trong cung, tục gọi là hát cửa quyền, giọng
hát uyển chuyển, dịu dàng, thanh nhã hơn giọng hát ở ngoài chốn giáo
phường. Nhưng âm luật cũng không khác mấy”. Hát cửa quyền, theo nhiều
sách thì, ngày xưa có quan chun trách, có các quy định, phép tắc, sau đó bỏ
dần và pha lẫn với hát ngoài giáo phường.
1.1.3.15 Hát nhà tơ
Hát nhà tơ là tên gọi khác của hát ca trù, hát ả đào,...So với các khái niệm
khác, trong các tư liệu hiện đang lưu hành, thì khái niệm hát nhà tơ vào loại
ít được dùng đến. Nghĩa là tính phổ biến của nó khơng rộng. Chúng ta cũng
chưa có tư liệu để xác định thời điểm ra đời của khái niệm nàỵ Các tác giả
Việt Nam ca trù biên khảo nói rằng ngày xưa các quan khi yến tiệc trong
dinh, trong ty thì mời ả đào về hát. Ty theo ông nghĩa là tơ và hát nhà tơ là
hát trong ty(VNCTBK, Nxb, T,p HCM.1994, tr.44). Khác với nhiều khái
niệm khác, ở khái niệm này các tác giả chỉ giải thích mà khơng dẫn sách.
1.1.3.16 Hát nhà trò
Hát nhà trò thường được gọi để thay thế các tên gọi khác như ca trù, ả
đào, nhà tơ,...Lý do lịch sử của sự xuất hiện của khái niệm này, cũng như
thời điểm ra đời của nó, hiện nay chưa được nghiên cứu rõ.Thời điểm hình
thành khái niệm và sử dụng nó một cách phổ biến có thể muộn hơn các khái
niệm ca trù, hát cửa đình, nhưng phải trước thế kỷ XIX. Vào cuối thế kỷ XIX
Trương Vĩnh Ký có một bài viết là Hát nhà trò. Làng Cổ Đạm thuộc huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nơi có truyền thuyết là tổ quê ca trù, hiện cịn nền
đất của một ngơi nhà xưa kia được dùng để hát nhà trò, nhân dân ở đây
thường gọi là Nền Nhà Trị. Tại Nghệ An có một quả núi mang tên Rú Nhà
Trò. Như vậy nhà trò đã là tên gọi khá phổ biến một thời ở xứ Nghệ. Khái
niệm nhà trò, trong các tài liệu thành văn, được dùng ít hơn các khái niệm ca
trù, hát ả đào,...Đỗ Bằng Đồn và Đỗ Trọng Huề giải thích:'' Khi ả đào hát ở
cửa đền có bỏ bộ, miệng hát tay múa uốn éo lên xuống, làm bộ điệu người
điên, người say rượu, người đi săn,...Vì vừa hát vừa làm trị nên gọi là hát
21
nhà trò''(VNCTBK, Nxb. T.p HCM 1994. -trang 44). Cách giải thích đó có
thể chỉ mới là cách giải thích truyền khẩu được ghi lại.
1.1.3.17 Kép
Kép cùng với đào là những thành viên quan trọng trong tổ chức hát ca
trù, thông thường cũng được gọi chung là đào kép, trong đó vai trị chính của
kép là gẩy đàn (nhạc cơng), đào là hát. Một số sách nói rằng ngày xưa kép
cũng có tham gia hát, điệu hát nói kép hát thì gọi là điệu hà nam, điệu hát
trai, đào hát thì gọi là hát hát gái hay nữ xướng, kép hát trước rồi đào hát lại
đúng bài, đúng điệu thì gọi là hà liễụ Có sách nói rằng khái niệm kép là do
khái niệm quản giáp phiên âm chệch mà thành. Phạm Đình Hổ trong sách
Vũ trung tùy bút gọi quản giáp là kép. Các tác giả của Việt Nam ca trù
biên khảo nói rằng sổ sách ở giáo phường ngày xưa cử đào kép đi hát các
đình đám đều viết giáp thành kép (VNCTBK-Nxb T.p.Hồ Chí Minh,1994,
tr.45.). Hiện chưa có cách giải thích khác cũng như chưa có sự biện luận hay
xác nhận cho cách giải thích này.
1.1.3.18 Lạc nhạn, xuyên tâm, thùy châu
Các khái niệm này chỉ khổ nhạc của đánh trống, đàn, phách. Nó được chia
thành 5 khổ,theo thứ tự: Chính diện( dùng vào những câu bằng phẳng);
xuyên tâm có xuyên thưa, xuyên mau; lạc nhạn( dùng vào những câu trầm
ngâm) hay còn gọi là trầm ngư, hạ mã; quán châu( dùng vào các khổ thơ);
thƣợng mã( dùng vào khổ dồn, xếp) còn gọi là đoạt châu, phi nhạn, phi ngư,
tranh tiên. Ba tiếng trống vào giữa câu thứ 11 gọi là thùy châu hoặc câu thứ
10, tùy theo đặc điểm từng câụ Thùy châu thường dùng vào những câu thơ
bâng khuâng, mơ màng.
Đào hát khi học hát đã thành thục, xin trình trầu cau với giáo phường.
Việc trình trầu cau này được thơng báo và lễ lạt của đào nương được nhận,
sau khi đã sát hạch chuyên môn thành công. Khi được công nhận, đào nương
chọn ngày tốt rồi làm lễ Cáo tổ, sau đó mới một quan viên có danh vọng đến
22
nghe buổi ra mắt nàỵ Trong buổi ra mắt có tiệc mừng và có lễ mừng. Giáo
phương gọi lễ này là Lễ mở xiêm áo.
1.1.3.19 Quan viên
Khái niệm quan viên trong ca trù dùng để gọi những người tham gia nghe
hát. Trong một cuộc hát ca trù, quan viên cũng có thể tham gia cầm chầu. Họ
vừa là cơng chúng thưởng thức và cũng có thể là thành viên của ban nhạc.
1.1.3.20 Xuyên thƣa
Là ba tiếng trống (đánh khoan thai) vào đầu câu thứ tư, xuyên mau là ba
tiếng trống (đánh gấp) vào đầu câu thứ 8.
1.1.3.21 Phách
Phách là một bộ phận nhạc cụ của hát ả đào, dùng cho ả đào gõ nhịp khi
hát. Nó khơng phải là nhạc cụ của nhạc công mà là nhạc cụ của ả đào, của
người hát. Vũ trung tùy bút, mục Nhạc biện, viêt: “ Đào nương trong tay cầm
một đốt phách, tục gọi là sênh, loại phách có xâu tiền, tục gọi là sênh tiền,
thường án phách để đỡ tiếng ca ”. Cũng có ý
kiến cho rằng phách và sênh là hai bộ phận làm thành một nhạc cụ. Phách
được làm bằng gỗ. Khi hát ả đào gõ hai cái phách vào cái sênh. Sênh được
làm bằng tre hoặc bằng gỗ.
Tuy là hai bộ phận bình đẳng nhưng thơng thường người ta chỉ gọi phách
như là tiếng đủ để đại diện cho sênh, phách
Tiếng phách có vai trị rất quan trọng đối với hát ca trù.. Phách có bốn
khổ: Khổ sịng, khổ đơn, khổ rải, khổ lá đầụ Nhịp của phách đẻ ra các khái
niệm khác như phách rung,phách thưa,phách mau.
23
Cỗ phách trong ca trù bằng gỗ hoặc tre, gồm bàn phách, hai lá phách (hai lá
phách dẹt cầm ở tay trái, một là phách tròn cầm ở tay phải). Phách ca trù không
chỉ giữ nhịp cho lời hát, mà nó thực sự là một tiếng hát khác của người đào
nương. Phách ca trù có 5 khổ. Người ca nữ trước tiên là học cho thật thành thạo
5 khổ phách. Yêu cầu là phải gõ phách đúng cao độ và trường độ, có thể tập
phách với đàn. Sau khi gõ phách đã thành thạo thì sẽ học hát.
Ca trù chỉ có năm khổ phách, nhưng phách lại là một yếu tố rất cơ bản để
đánh giá trình độ của người ca nữ. Người ca nữ giỏi là người biết biến hóa tiếng
phách của mình, tuỳ theo từng bài thơ hoặc tuỳ theo ý riêng của mình. Người
trong nghề nghe tiếng phách mà biết cá tính sáng tạo của người ca nữ. Song
điều quan trọng nhất là cho dù có biến hố thế nào, thì phách ca trù vẫn có trong
một khn khổ nhất định, và sự biến hố này là để phục vụ cho vệc phô diễn sự
tinh tế của bài thơ mà nghệ sĩ đang thể hiện. Những nghệ sĩ có tiếng phách hay
là Nguyễn Như Tuyết, Quách Thị Hồ, Kim Đức.
1.1.3.22. Quản giáp
Quản giáp là kép hát, có thể là tên gọi ban đầu của kép hát, không nên
hiểu quản giáp như một chức trách. Đại Việt sử kí tồn thư viết: “..Lại đổi
chức hỏa đầu làm chính thủ, chỉ con hát mới gọi là quản giáp”. Như vậy tên
gọi quản giáp cũng có sự biến đổi.
1.1.3.23. Ty giáo phƣờng
Ty giáo phường là một sự liên kết, tập hợp của các giáo phường các địa
phương các xã, các giáp, các họ. Ty giáo phường mang hình thức phường
hội.
1.1.3.24. Trù tiền
Tức tiền trù, còn được gọi là tiền xướng trù ( xướng trù tiền). Đây là số
tiền được trả cho giáo phường hay thành viên khi tham gia hát. Tiền được trả
theo quy ước, thỏa thuận.
24
1.1.3.25. Tiếng hát đào nƣơng
Tiếng hát của đào nương là một nét rất độc đáo của ca trù. Cách lấy hơi nhả
chữ là một nét rất độc đáo của ca trù. Khác với các lối hát cổ truyền khác, cách
lấy hơi trong hát ca trù tinh tế và phức tạp hơn. Trong khi hát chèo, người nghệ
sĩ lấy hơi chủ yếu là từ khoang miệng, trong hát quan họ, người nghệ sĩ lấy hơi
ở khoang miệng và cổ họng; thì hát ca trù, người nghệ sĩ lấy hơi không chỉ ở
khoang miệng hay cổ họng mà còn vận hơi từ đan điền lên, lấy hơi ở khoang
mũi nữa. Điều này rất khó, nhưng cái khó hơn là làm sao khi chuyển hơi mà
người nghe không thể nhận ra, không để lộ và làm thơ sự biến hố này. Tất cả
các kỹ thuật đổ hột, sang hơi, đổ con kiến đều ở nơi cổ họng của đào nương.
Đạt được như vậy, tiếng hát của đào nương sẽ trở nên tinh tế, giàu âm sắc và
đạt được đến sự biểu cảm cao nhất.
Quá trình luyện tập cách lấy hơi là một khổ luyện thật sự. Quan trọng nhất
là học lấy hơi cho ra chất riêng của ca trù. Các giáo phường xưa, khi dạy hát ca
trù, người ta dạy điệu Bắc phản đầu tiên rồi mới sang các làn điệu khác. Bắc
phản là một điệu hát sử dụng nhiều âm ư kéo dài, tiết tấu chậm. Do đặc điểm
của lối giữ hơi, nhả chữ và luyến láy trong lối hát mà đào nương ca trù có kh
miệng ln đoan trang, đài các, đơi mơi cắn chỉ ln mím lại, khi đổi giọng
sang hơi thì chỉ rung lên khe khẽ. Miệng cơ đào ln ở hình chữ “nhất”, rất kín
đáo.
Bấy nhiêu vẫn chưa nói hết cái cơng phu của đào nương. Mọi cố gắng của cơ
đào sẽ cịn thể hiện ở năng lực cảm thụ văn chương nữa. Đào nương trước hết
cảm thụ ý thơ, bài thơ để mới có thể nhập vào nó, phơ diễn ý thơ thơ một cách
đúng và hay nhất. Nếu chỉ cậy tốt giọng hoặc cố phô giọng hát trời phú, thì dù
tiếng vàng tiếng ngọc thật đấy, nhưng nếu khơng diễn tả tình ý của bài thơ, ý
thơ thì chỉ là một giọng hát vơ hồn.
25