Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Tìm hiểu di tích lịch sử đình thượng kiệm, xã thượng kiệm, huyện kim sơn, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 124 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI

KHOA DI SẢN VĂN HĨA
------------------

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH THƯỢNG KIỆM
( XÃ THƯỢNG KIỆM - HUYỆN KIM SƠN –
TỈNH NINH BÌNH)
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS NGUYỄN VĂN TIẾN
Sinh viên thực hiện: HÀ GIANG NAM

HÀ NỘI - 2013
1
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Lời cảm ơn
Trong q trình thực hiện đề tài của mình, em đã tham khảo các nguồn
tài liệu như: Giáo trình, tư liệu lịch sử, các bài viết chuyên khảo, các tư liệu
dân gian…Tuy nhiên phần lớn các nguồn tư liệu trong khóa luận này là kết
quả khảo sát thực tế tại cơ sở dưới sự hướng dẫn tận tình của giảng viên
hướng dẫn - PGS-TS Nguyễn Văn Tiến và những cộng tác viên đã không quản
ngại khó khăn giúp đỡ cho việc nghiên cứu đề tài. Qua khóa luận này, cho


phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban chủ nhiệm khoa Di Sản Văn Hóa –
Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội đã tạo điều kiện cho em thực hiện đề tài.
Đồng thời, cho em gửi lời cảm ơn tới ban quản lý di tích Đình Thượng Kiệm,
Ủy ban nhân dân xã Thượng Kiệm, thư viện tỉnh Ninh Bình, Giám đốc Bảo
tàng tỉnh Ninh Bình Nguyễn Xuân Khang đã nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện
đề tài.
Với ý nghĩa, giá trị của di tích, khơng chỉ về mặt lịch sử, mà nó cịn có
nhiều giá trị khác. Tuy nhiên trong phạm vi thời gian và bước đầu làm nghiên
cứu khoa học, bài viết cũng khơng tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định.
Kính mong sự góp ý của các thầy cơ, các nhà nghiên cứu và các bạn sinh viên
để khóa luận của em được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin trân trọng cảm ơn !

2
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Mục Lục
Mục lục............................................................................................................2
Phần mở đầu....................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 4
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
5. Bố cục của khóa luận .................................................................................. 8
Chương 1: Đình làng Thượng Kiệm trong diễn trình lịch sử.......................9

1.1. Khái quát về lịch sử vùng đất nơi di tích tồn tại ...................................... 9
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .................................................... 9
1.1.2. Đời sống kinh tế, xã hội ................................................................. 11
1.1.3. Truyền thống lịch sử, văn hóa ....................................................... 16
1.2. Diễn trình lịch sử Đình Thượng Kiệm ................................................... 21
1.1.1. Vài nét về Đình làng Việt Nam .................................................... . 21
1.2.2. Niên đại khởi dựng của di tích....................................................... 24
1.2.3. Q trình tồn tại của di tích .......................................................... 25
1.2.4. Sự tích nhân vật được thờ .............................................................. 26
Chương 2: Gía trị kiến trúc – nghệ thuật và lễ hội Đình Thượng Kiệm ... 34
2.1. Gía trị kiến trúc đình làng Thượng Kiệm .......................................... 34
2.1.1. Không gian cảnh quan. ........................................................................ 35
2.1.2. Bố cục mặt bằng ................................................................................... 38
2.1.3. Các đơn nguyên kiến trúc .................................................................... 38
2.1.3.1. Nghi Môn ..................................................................................... 38
2.1.3.2. Đại Bái ........................................................................................ 40
2.1.3.3. Tòa đệ tam ................................................................................... 42
2.1.3.4. Tòa đệ nhị .................................................................................... 43
2.1.3.5. Hậu cung ..................................................................................... 44
3
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

2.2. Nghệ thuật chạm khắc trên kiến trúc đình Thượng Kiệm................45
2.3. Hệ thống di vật ở đình .......................................................................... 50
2.3.1. Di vật bằng chất liệu đá ................................................................. 50

2.3.2. Di vật bằng chất liệu giấy .............................................................. 52
2.3.3. Di vật bằng chất liệu gỗ ................................................................. 53
2.3.4. Di vật bằng chất liệu đồng ............................................................. 62
2.3.5. Di vật bằng vải ............................................................................... 62
2.4. Lễ hội Đình Thượng Kiệm ................................................................... 63
2.4.1. Cơng tác chuẩn bị cho lễ hội ......................................................... 64
2.4.2. Diễn trình lễ hội ............................................................................. 66
2.4.2.1. Phần lễ .................................................................................. 66
2.4.2.2. Phần hội ................................................................................ 73
Chương 3: Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích Đình Thượng
Kiệm...................................................................................................................78
3.1. Hiện trạng về di tích, di vật đình làng Thượng Kiệm ............................. 79
3.1.1. Hiện trạng di tích ........................................................................... 79
3.1.2. Hiện trạng các di vật tại đình làng Thượng Kiệm ......................... 83
3.1.3. Hiện trạng Lễ hội ........................................................................... 84
3.2. Giải pháp bảo tồn di tích đình Thượng Kiệm ......................................... 86
3.2.1. Bảo vệ di tích bằng các văn bản pháp lý ....................................... 86
3.2.2. Giải pháp bảo quản đối với di tích đình Thượng Kiệm ................. 90
3.2.3. Giải pháp tu bổ di tích đình Thượng Kiệm .................................... 95
3.2.4. Giải pháp tơn tạo di tích đình Thượng Kiệm ................................. 96
3.2.5. Tăng cường trong cơng tác quản lý di tích .................................... 97
3.2.6. Bảo tồn lễ hội đình Thượng Kiệm ................................................. 98
3.3. Khai thác phát huy giá trị di tích đình Thượng Kiệm ............................. 99
KẾT LUẬN ................................................................................................. 103
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 106
4
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A



Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Di tích lịch sử văn hóa là nơi ghi dấu những công sức, tài nghệ, ý đồ
của cá nhân hay tập thể con người trong lịch sử để lại, là q trình kết tinh tài
năng, trí lực sáng tạo để trở thành những bằng chứng trung thành, xác thực, cụ
thể nhất về lịch sử bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả
những gì thuộc về truyền thống dân tộc tốt đẹp, về kĩ năng, kĩ xảo của con
người. Các di tích lịch sử văn hóa tiềm ẩn dưới vẻ rêu phong, cổ kính đồng
thời cũng là một bảo tàng sống về kiến trúc điêu khắc, trang trí và cả phong
tục cổ truyền, tín ngưỡng của người Việt. Chúng đã là những di sản quý giá
không chỉ của một địa phương, một dân tộc mà cịn là tài sản của tồn nhân
loại. Mỗi di tích lịch sử văn hóa tồn tại khơng chỉ là cơng trình kiến trúc,
những tác phẩm nghệ thuật có giá trị mà bên cạnh đó cịn mang trong mình
những hơi thở của thời đại, những phong tục tập quán, những tín ngưỡng dân
gian. Những di tích ấy sẽ trở nên có ý nghĩa nếu ta đi sâu vào nghiên cứu,
phân tích, bóc tách các lớp văn hóa chứa đựng trong đó để phần nào hiểu rõ
hơn về cội nguồn văn hóa dân tộc, để biết lựa chọn khai thác cũng như bảo
tồn, phát huy những tinh hoa truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục, lấy
đó làm nền tảng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam vừa mang dư âm cổ
truyền, vừa mang màu sắc hiện đại.
Di tích nói chung và di tích lịch sử - văn hóa nói riêng là tài sản quý giá
trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, là nguồn sử liệu quan trọng cho những
người đương đại nhận thức về quá khứ, nắm bắt được hiện tại và dự đoán trước
tương lai. Đồng thời nó cũng là những chuẩn mực giá trị để các dân tộc trên thế
giới kiểm chứng, đánh giá về lịch sử, văn hóa của nhân loại. Đi khắp đất nước
5
Sinh viên: Hà Giang Nam


Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Việt Nam ở đâu chúng ta cũng bắt gặp những hình ảnh của những ngơi đình, đền,
chùa. Trong số đó, đình chính là nơi hội tụ các yếu tố, giá trị văn hóa. Hình ảnh
những ngơi đình vốn rất đỗi thân quen với mỗi người dân Việt Nam. Đình làng một mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm
khảm mỗi con người và toả sáng trong những áng thơ văn:
Hơm qua tát nước đầu đình
Để qn chiếc áo trên cành hoa sen
Đã từ rất lâu rồi, khi nói đến văn hố làng - nét văn hố của nơng
thơn Việt Nam, chúng ta liên tưởng ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng,
làm nên biểu tượng của làng quê. Đó là những hình ảnh của "cây đa, bến
nước, sân đình, bụi tre, vườn cây, ao cá...".
Đình làng là một di tích trong loại hình di tích văn hóa Việt Nam.
Những phát hiện nghiên cứu trong nhiều năm trở lại đây đã tìm thấy các ngơi
đình có niên đại sớm. Hiện nay, ngơi đình có niên đại sớm nhất được phát
hiện là đình Thụy Phiêu (Xã Thụy An - Huyện Ba Vì - TP. Hà Nội), được
xây dựng vào đầu thế kỷ XVI năm 1531. Tiếp theo sự phát triển của kiến trúc
đình làng là các ngơi đình được xây dựng vào thế kỷ: XVII, XVIII, XIX với
quy mô lớn hơn trước. Tiêu biểu là các ngơi đình như: đình Chu Quyến, đình
Thổ Hà, đình Đình Bảng,… Đình làng là một nét đẹp và đặc trưng của văn
hóa nơng thơn. Đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi
người dân Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay
trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Ngơi đình trang
trọng và thiêng liêng, nó gần như đại diện, là biểu tượng của quyền lực làng
xã. Nhưng đình làng lại là nơi tụ họp mọi người trong mọi sinh hoạt chung,
vốn rất cần cho cuộc sống nơng thơn cần có sự nương tựa, đùm bọc, giúp đỡ

lẫn nhau. Khơng những vậy đến với đình là chúng ta như đang được trở về
6
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

với văn hóa truyền thống của dân tộc. Những giá trị, những bản sắc văn hóa
trong đó có cả giá trị vật thể và giá trị phi vật thể được phục hồi.
Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những dấu tích xưa, khơng ít người tỏ ý lo
lắng cho sự mai một của một nét đẹp văn hóa nơi các làng quê Việt. Như nhà
văn Nguyên Ngọc đã bày tỏ trong cuộc triển lãm ảnh “Đình làng Việt - sự đa
dạng” diễn ra tại bảo tàng Dân tộc học (Hà Nội): “Đình vẫn là nơi diễn ra lễ
hội, nhưng khơng cịn giữ được khơng khí xưa; đình vẫn là nơi thờ tự, nhưng
nghi thức cúng tế đã thay đổi; cịn chức năng làm trung tâm hành chính của
những mái đình thì dường như khơng cịn nữa. Triển lãm này là sự báo động
cho khả năng có thể mất đi của những giá trị văn hóa truyền thống”.
Trải qua bao nhiêu thế kỷ, với những biến cố thăng trầm của lịch sử và
xã hội đã khiến cho nhiều di tích lịch sử - văn hoá quý giá bị huỷ hoại dưới bàn
tay vơ tình hay hữu ý của con người, thêm vào đó là sự khắc nghiệt của khí hậu
nhiệt đới gió mùa và chiến tranh đã tàn phá nặng nề và khiến cho nhiều di tích
lịch sử - văn hố ở Ninh Binh nói riêng, cũng như cả nước nói chung bị thu hẹp,
đổ nát và xuống cấp nghiêm trọng, dần chìm vào sự lãng quên của con người.
Trong những năm gần đây, hoà chung với xu thế phát triển của đất
nước, các di tích lịch sử - văn hố dần được phục hồi, tơn tạo và phát huy tác
dụng của mình. Con người dần nhận ra rằng chính các di tích lịch sử - văn hố
đã và đang góp phần khơng nhỏ vào sự hồn thiện bản thân, giúp cho họ vươn
tới cuộc sống tốt đẹp hơn và hướng người ta trở về với cội nguồn, ngược dòng

lịch sử, trở về với quá khứ, không lãng quên quá khứ mà trái lại biết trân trọng
những thành quả và tinh thần của quá khứ.
Nhận thức được vấn đề đó, được sự đồng ý của khoa Di Sản Văn Hóa
- Trường đại học Văn hóa Hà Nội cùng với sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn
7
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Văn Tiến, với lịng say mê u nghề và tình u q hương tha thiết tơi mong
muốn được góp một phần nhỏ bé sức lực của mình vào việc giữ gìn, bảo vệ
và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, đặc biệt là quê hương tôi đã sinh ra
và lớn lên – một quê hương giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Chính vì thế
nên tơi đã chọn đề tài “Tìm hiểu di tích lịch sử Đình Thượng Kiệm, xã
Thượng Kiệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình” để làm bài khóa luận tốt
nghiệp của mình. Hy vọng rằng, những kết quả nghiên cứu khóa luận tốt
nghiệp chun ngành Di Sản Văn Hóa của tơi sẽ đóng góp ít nhiều vào việc
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích đình làng Thượng Kiệm nói riêng và
việc bảo tồn di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Ninh Bình nói chung.
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu nhằm tìm hiểu các mặt giá trị về lịch sử văn hố
và kiến trúc nghệ thuật di tích lịch sử Đình Thượng Kiệm.
Trên cơ sở khảo sát thực địa tại di tích, cùng với những hiểu biết của
bản thân, bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá, đề xuất một số giải pháp
để bảo tồn và phát huy những giá trị vốn có của di tích.
Bên cạnh đó, bài khóa luận cũng mong muốn góp một phần nhỏ nhằm

cung cấp thêm thông tin, tư liệu phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, nâng
cao kiến thức chuyên ngành về di tích lịch sử - văn hố nói chung và di tích
lịch sử đình Thượng Kiệm nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về xã Thượng Kiệm - Khơng gian văn hóa của
di tích.
- Căn cứ vào các tài liệu biên chép và các nguồn tư liệu tại di tích xác
định niên đại xây dựng đình và những lần trùng tu, sửa chữa.
8
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

- Giới thiệu về nhân vật lịch sử Triệu Việt Vương.
- Nghiên cứu giá trị kiến trúc, di vật, lễ hội tại đình Thượng Kiệm
- Khảo sát thực trạng, tình trạng kỹ thuật của di tích để đưa ra giải
pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử đình Thượng Kiệm, xã Thượng
Kiệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là di tích và tồn bộ di vật cũng
như mơi trường cảnh quan xung quanh di tích đình Thượng Kiệm, xã Thượng
Kiệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận trên hai phương diện:
Về thời gian: Nghiên cứu di tích đình Thượng Kiệm gắn liền với q
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi khởi dựng đến nay.
Về khơng gian: Nghiên cứu di tích lịch sử đình Thượng Kiệm trong
khơng gian lịch sử - văn hố của vùng đất nơi di tích tồn tại, thuộc xã Thượng

Kiệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, liên
ngành như: Bảo tàng học, bảo tồn di tích, mỹ thuật học, sử học, văn hố học...
Trong đó sử dụng chủ yếu phương pháp khảo sát tại thực địa để quan sát, miêu
tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, thu thập tài liệu hiện vật có ở di tích.
5. Bố cục của khóa luận:
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận
có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Đình Thượng Kiệm trong diễn trình lịch sử.
Chương 2: Giá trị kiến trúc – nghệ thuật và lễ hội đình Thượng Kiệm.
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử đình Thượng Kiệm.
9
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: ĐÌNH THƯỢNG KIỆM TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Khái quát về lịch sử vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Trong quá trình tồn tại và phát triển, mỗi di tích lịch sử văn hóa đều có
mối quan hệ mật thiết với một địa danh cùng với những con người cụ thể. Mảnh
đất đó, những con người đó là những nhân chứng khơng thể thiếu được cho sự
hiện diện của di tích. Vì lẽ đó, để tìm hiểu một cách tồn diện về di tích với
những thăng trầm, hưng vong của nó chúng ta khơng thể khơng đề cập đến
mảnh đất, con người, nơi từ đó di tích được sinh ra và ni dưỡng trong suốt
tiến trình lịch sử.

Kim Sơn là vùng đất mới ra đời từ công cuộc khẩn hoang vùng bãi
biển đầy lau sậy và sú vẹt dưới sự tổ chức và điều hành của Doanh Điền sứ
Nguyễn Công Trứ vào năm Kỷ Tỵ (1809). Đây là vùng đất nằm giữa hai của
sông Càn và sông Đáy, hàng năm tốc độ bồi tụ tiến ra biển từ 80 – 100 m.
Chính vì thế mà Kim Sơn gắn với lịch sử của những cuộc chinh phục đất
hoang bồi - quai đê lấn biển. Gần 200 năm đã tiến hành quai đê lấn biển sáu
lần. Về diện tích hiện nay gấp gần 3 lần so với khi mới thành lập huyện. Các
tuyến đê được quai gần đây là đê Bình Minh 1 dài 10 km được đắp từ sau
ngày giải phóng Ninh Bình năm 1954, tuyến đê Bình Minh 2 là tuyến đê biển
chính của tỉnh quai năm 1980 dài 22,8 km đã được nâng cấp, tuyến đê Bình
Minh 3 được đắp từ năm 2000 trở lại đây, có chiều dài 16 km nhưng chưa
khép kín.
Kim Sơn là vùng đất mới nên khơng có nhiều di tích lịch sử ngồi hệ
thống dày đặc các nhà thờ cơng giáo. Nhà thờ Phát Diệm là một cơng trình
kiến trúc tôn giáo nổi tiếng ở Việt Nam, mô phỏng kiến trúc truyền thống kết
10
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

hợp với văn hóa phương Tây. Cầu Ngói Phát Diệm là cơng trình kiến trúc độc
đáo được in hình trên tem bưu chính Việt Nam. Văn hóa Kim Sơn mang đặc
trưng của vùng đất mới với những người đi khai hoang lấn biển. Tên gọi Kim
Sơn có nghĩa là rừng vàng, Phát Diệm ý nghĩa là nơi sinh ra cái đẹp.
Năm 2010, Kim Sơn có diện tích 207 km² và 172.399 người, gồm hai
thị trấn, huyện lỵ Phát Diệm, Bình Minh, và 25 xã gồm Hồi Ninh, Chất Bình,
n Mật, Kim Đơng, Lai Thành, n Lộc, Tân Thành, Lưu Phương, Thượng

Kiệm, Kim Chính, Đồng Hướng, Quang Thiện, Như Hồ, Hùng Tiến, Ân Hịa,
Kim Định, Chính Tâm, Định Hoá, Văn Hải, Kim Tân, Kim Mỹ, Cồn Thoi,
Kim Hải, Xuân Thiện, Kim Trung.
Xã Thượng Kiệm nằm ở trung tâm huyện lỵ Kim Sơn, hình thể như
một dải lụa trải dài dọc theo sơng Vạc (hay cịn gọi là sơng Trì Chính). Xã có
chiều dài 11,6 km, rộng 600m, phía Đơng giáp sơng Vạc, phía Tây giáp làng
Phát Diệm (thuộc xã Lưu Phương) được ngăn cách bởi con sông đào, phía Bắc
giáp xã Yên Nhân (Tam Điệp), phía Nam giáp với khúc lượn của sông Vạc Điểm tận cùng của xã có cửa Kim Đài - Cửa sơng tạo thành do hợp lưu của
hai con sông Vạc và sông Đáy đây là cửa sơng có vị trí địa lý và kinh tế rất
quan trọng - Là cửa ngõ của huyện Kim Sơn nhìn ra biển Đơng.
Cuối năm 1829, xã Thượng Kiệm là đất của hai ấp Thượng Kiệm và
Phú Vinh nằm trong tổng Tự Tân có tổng số ruộng đất là 1.543 mẫu Bắc Bộ
(một mẫu Bắc Bộ là 3600m2).
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thượng Kiệm và Phú Vinh là
hai đơn vị hành chính riêng có lý trưởng. Trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, do yêu cầu của tình hình địi hỏi Thượng Kiệm và Phú Vinh phải hỗ
trợ lẫn nhau tạo điều kiện cho phong trào cách mạng phát triển, hai xã Thượng
Kiệm và Phú Vinh được sáp nhập thành một xã với tên gọi là xã Thượng
11
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Kiệm. Sau ngày hịa bình lập lại (1954), 5 xóm của Thượng Kiệm là Vinh Hạ,
Thượng Kiệm, Vinh Ngoại, Năm Dân, An Cư, được cắt về thị trấn Phát Diệm.
Hiện nay xã Thượng Kiệm có trên 7000 hộ dân sống ở 13 xóm và canh tác
trên một diện tích 1.054 mẫu Bắc Bộ (379.5 ha).

Nhân dân Thượng Kiệm sống chủ yếu bằng nền kinh tế nông nghiệp
với hai cây chính là cây lúa và cây cói, nhân dân trong xã có truyền thống
thâm canh lúa. Năm 1964 năng suất lúa bình quân ở đây là 5 tấn/1 ha, và năm
1989 bình quân năng suất đạt 7 tấn/1ha. Nghề thủ cơng với mặt hàng chiếu cói
rất nổi tiếng, là nguồn thu nhập quan trọng của nhân dân. Đặc biệt ở Thượng
Kiệm có chợ Nam Dân - Chợ huyện lớn nhất rất sầm uất và đa dạng mặt hàng
chợ đã thu hút nhân dân từ Nghĩa Hưng sang, Nga Sơn (Thanh Hóa) tới, Tam
Điệp xuống để trao đổi hàng hóa và mua bán. Cảnh trên bên dưới thuyền ở
bến chợ Nam Dân đã nói rõ vị trí giao thơng quan trọng trên dịng sơng Vạc.
Từ đây, tàu thuyền xi sông Vạc ra cửa Kim Đài ngược sông Đáy lên Nam
Định, xi ra biển đi Hải Phịng, vào Nghệ Tĩnh rất thuận lợi. Đây là điều kiện
rất tốt để cho Thượng Kiệm phát triển nền kinh tế hàng hóa, từng bước tạo ra
sức mạnh của nền kinh tế tổng hợp.
Là một xã nằm ở trung tâm huyện lỵ - Nơi trung tâm văn hóa chính trị
của cả huyện, nên Thượng kiệm có ảnh hưởng lớn và có nhiều thuận lợi để
xây dựng phấn đấu trở thàng một xã giàu mạnh.
1.1.2. Dân cư và đời sống, kinh tế, xã hội
Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữ các khu vực: Tây Bắc, đồng bằng
Sơng Hồng và Bắc Bộ. Với vị trí đó, giúp cho Ninh Bình trở thành vùng đất
của một nền văn hóa năng động mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn
minh sơng Hồng. Ninh Bình cũng là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con
người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương
12
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp


răng đười ươi và các động vật trên cạn ở Núi Ba (Tam Điệp) thuộc sơ kỳ đồ đá
cũ, động Người Xưa (Cúc Phương) và một số hang động ở Tam Điệp, Nho
Quan có di chỉ cư trú của con người thời văn hóa Hịa Bình. Sau thời kỳ văn
hóa Hịa Bình, vùng đồng bằng ven biển Ninh Bình là nơi cư trú của con
người thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ Đồng Vườn (Yên Mơ) đã được
định niên đại muộn hơn di chi Gị Trũng. Cư dân cổ di chỉ Đồng Vườn đã phát
triển lên cư dân cổ di chi Mán Bạc (Yên Thành –n Mơ) ở giai đoạn văn hóa
đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu.
Vùng đất Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn
với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh – Lê – Lý với các dấu ấn
lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống – bình Chiêm và phát tích q trình
định đơ ở Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã
chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử cịn
để lại trong các đình, đền, chùa, miếu, từng ngọn núi, con sơng.
Bên cạnh văn hóa của cư dân Việt cổ, Ninh Bình cịn có “văn hóa
mới” của cư dân ven biển. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình.
Những địa danh cửa biển như: Phúc Thành, Đại An, Con Mèo, Yên Mô, Cửa
Càn, cửa biển Thần Phù cùng với các con đê Hồng Đức, đê Hồng Lĩnh, đê
Đường Quan, đê Hồng Ân, đê Hoàng Trực, đê Văn Hải, đê Bình Minh I, đê
Bình Minh II… Cho đến nay vùng đất Ninh Bình vẫn tiến ra biển mỗi năm
gần 100 m. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng khơng gian văn hóa Việt xuống
biển Đơng, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hóa từ Bắc vào Nam, từ
biển vào. Kinh tế biển đóng vai trò quan trọng nổi bật như nghề đánh bắt cá
biển, nuôi tôm sú, tôm rảo, nuôi cua… Nếp sống của cư dân bám biển mang
tính chất động trong vùng văn hóa mơi trường đất mở.

13
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A



Khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Trãi đã từng nhận xét về Ninh Bình rằng: “Đất thì đen, màu
mỡ, ruộng thì vào hạng thượng trung” là nói về giá trị địa lý và kinh tế. Với
Vân Bồng Nguyễn Tử Mẫn thì đánh giá một cách khái quát về con người Ninh
Bình như sau: “kẻ sĩ chuộng khí tiết, dân quê thật thà chất phác, ưa cần kiệm”.
Còn nữ sĩ Hồ Xuân Hương chỉ qua bài thơ “Kẽm Trống” đã viết về vùng đất
Ninh Bình: “Ở trong hang núi cịn hơi hẹp, Ra khỏi đất non đã rộng thùng”.
Một yếu tố khác vô cùng quan trọng góp phần khơng nhỏ làm nên diện mạo đa
dạng, phong phú của văn hóa Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu ấn văn hóa của
các tao nhân văn hóa như Trương Hán Siêu, Trần Thái Tơng, Lê Thánh Tông,
Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Tản Đà. Họ đã tới Ninh Bình để xếp gương, đề
bút. Cảnh đẹp của sơng núi, con người Ninh Bình đã trở thành nguồn cảm
hứng cho các thi nhân. Bằng chứng rõ nét chính là trên núi Thúy vẫn cịn lưu
giữ nhiều những bài thơ được khắc trên núi đá do các thi nhân để lại. Qua thời
gian, những bài thơ ấy đã bị phai mờ bởi mưa gió, rêu phong nhưng khơng
phải vì thế mà nó mất đi giá trị của mình. Đây vẫn được xem là những tác
phẩm hay được đánh giá cao về văn hóa và nghệ thuật. Ví dụ bài thơ: “Dục
Thúy Sơn” – Nguyễn Trãi. Nhân cách bác học và phẩm chất văn hóa lớn của
các danh nhân đó đã thấm vào tầng văn hóa địa phương được nhân dân tiếp
thu, sáng tạo làm giàu thêm sắc thái văn hóa Ninh Bình. Vùng đất này cịn là
q hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như: Đinh Bộ Lĩnh, Trương
Hán Siêu, Lý Quốc Sư, Vũ Duy Thanh, Lương Văn Tụy, Ninh Tốn,…
Cùng với các di tích lịch sử - văn hóa, Ninh Bình là vùng đất phong
phú các lễ hội văn hóa đặc sắc như lế hội Cố Đơ Hoa Lư, lễ hội Chùa Bái
Đính, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ, lế hội đền Thái Vi…Các lễ hội khác: lễ
hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư, Đền Thánh Nguyễn, Đền
Dâu, hội vật n Vệ… Các cơng trình văn hóa như đền vua Đinh Tiên Hoàng,

14
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

làng chèo Phúc Trì, Nam Dân, Thượng Kiệm, những trung tâm hát chầu văn ở
đền Dâu, phủ Đồi… nhiều làng nghề truyền thống như nghề điêu khắc đá
Ninh Vân – Hệ Dưỡng, Xuân Vũ, nghề mộc Phúc Lộc, nghề thêu ren Văn
Lâm, nghề chiếu cói Kim Sơn…
Qua một số nét sơ lược về tỉnh Ninh Bình, chúng ta có thể khẳng định
đây là vùng đất của những vị anh hùng dân tộc, là vùng đất của những người dân
giàu truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất vì độc lập của dân tộc và đây
cũng là vùng đất được nhiều người biết đến bởi có nhiều danh lam thắng cảnh.
Mỗi một vùng đất trong tỉnh Ninh Bình đều có những nét đẹp riêng
những đặc điểm riêng biệt không giống với bất kỳ đâu, tất cả tạo cho Ninh Bình
nét đẹp đa dạng. Nếu huyện Nho Quan vời rừng quốc gia Cúc Phương, n Mơ
có hồ n Thắng… Khơng có được những di tích, danh lam lớn như các huyện
khác nhưng huyện Kim Sơn vẫn mang trong mình một nét đẹp riêng với các
nghề truyền thống. Là một huyện hội tụ nhiều tiềm năng phát triển kinh tế trong
tương lai.
Thượng Kiệm là vùng đất rất có tiềm năng phát triển. Con người nơi
đây rất thân thiện, mến khách, giàu tình cảm… đời sống kinh tế của cư dân
làng Thượng Kiệm ngày nay, đặc biệt sau đổi mới có nhiều thay đổi rõ rệt, có
thể phân ra các ngành kinh tế như sau :
- Về nông nghiệp : Người dân Thượng Kiệm vẫn sản xuất nông nghiệp
theo truyền thống là chính. Lúa là cây lương thực chính, cấy 2 vụ: vụ chiêm và
vụ mùa để đảm bảo lương thực đủ dùng. Theo thống kê, sản xuất nông nghiệp

năm 2004 đạt sản lượng lương thực 5.203,8 tấn, bình quân đầu người đạt 408
kg/năm. Hiện nay đạt gần 8000 tấn. Bên cạnh đó người dân cịn trồng cây hoa
màu: ngơ, khoai, sắn, đậu, rau…cung cấp một lượng lớn lương thực và rau
xanh cho vùng .
15
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

- Chăn ni: Cũng như các vùng khác lân cận, cư dân Thượng Kiệm
chủ yếu chăn nuôi gia súc, gia cầm: vịt, lợn, gà… theo thống kê giá trị chăn
nuôi năm 2000 đạt 10,5 tỉ, đến nay là 21 tỉ.
- Về dịch vụ: Diễn ra khá mạnh mẽ, ngồi các ngành nghề bn bán
nhỏ, hiện nay trên địa bàn xã đã có một số doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng
nhiều doanh nghiệp quốc doanh và liên doanh nước ngồi. Từ những năm đổi
mới, ngồi sản xuất nơng nghiệp nhân dân trong xã còn phát triển các nghề
thêu, may…
Sau đổi mới, những thay đổi đa dạng làm cho đời sống người dân nơi
đây nâng cao hơn, việc xóa đói giảm nghèo có nhiều thành quả rõ rệt. Theo
thống kê, năm 2000 có 100 hộ nghèo, đến nay cịn 18 hộ. Hiện nay tình hình
kinh tế xã hội ở làng Thượng Kiệm khá ổn định trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Hầu hết trong các hộ gia đình đều có đầy đủ phương tiện, tiện
nghi: xe máy, ti vi, tủ lạnh, điện thoại, thậm chí có cả ơ tơ, tồn làng có 450
nhà xây cao tầng, 505 nhà ngói và khơng có nhà mái tranh. Hộ giàu đạt
khoảng 32%, hộ khá đạt khoảng 53%, trung bình 10%, hộ nghèo 5%. Bộ mặt
nơng thơn ngày càng đổi mới rõ rệt.
Cùng với đời sống sản xuất là đời sống xã hội của con người Thượng

Kiệm cũng vô cùng phong phú và đậm nét văn hóa của một làng quê cổ truyền
Việt Nam. Làng Thượng Kiệm cũng như làng cồ khác đều được hình thành từ
nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, ban đầu là những điểm tụ cư thuận lợi cho
việc trồng trọt và chăn nuôi.
Bên cạnh không gian trồng trọt là không gian cư trú gọi là Làng. Đây
là tập hợp của một nhóm dân sống ở gần nhau trên một khoảng không gian
nhất định. Họ sống gần nhau trong tình làng nghĩa xóm thân thương, trong
tình cảm “anh em xa khơng bằng láng giềng gần”. Đến nay đời sống của người
16
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

dân đã được cải thiện rất nhiều, họ quyết tâm phấn đấu vì cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, xã hội dân chủ, văn minh. Trong những năm vừa qua, làng Thượng
Kiệm đã đạt được danh hiệu là làng văn hóa cấp tỉnh. Từ năm 2000 làng có
phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong cơng cuộc
đổi mới q hương đất nước. Người dân Thượng Kiệm luôn phát huy truyền
thống của quê hương đã tích cực vươn lên xóa đói giảm nghèo xây dựng quê
hương ngày một giàu đẹp.
1.1.3. Truyền thống lịch sử văn hóa
Nhân dân Thượng Kiệm có tinh thần yêu nước nồng nàn. Khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng phong trào Cần Vương, cụ Nguyễn Công
Uẩn, Trần Văn Tài người xóm Vinh Ngoại đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa
do cụ Phan Đình Phùng phát động. Cụ Uẩn giữ chức Bang Tá. Khi cuộc khởi
nghĩa bị đàn áp, hai cụ bị thực dân Pháp bắt. Chúng ra sức mua chuộc và
phong cho cụ Uẩn chức Bang Tá quân vụ tương đương với chức vụ cũ của

nghĩa quân. Lợi dụng chức vụ này cụ bí mật tổ chức cuộc khởi nghĩa, nhưng
việc bị bại lộ, cụ bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai và bị hành hình cùng bốn
người nữa ở Sơn Tây.
Khi phong trào Cách mạng bùng lên, nhân dân Thượng Kiệm tham gia
Cách mạng từ rất sớm. Ông Nguyễn Cự Tẩm đã tham gia thanh niên cứu quốc
trường kỹ nghệ thực hành ở Hà Nội. Năm 1942, anh bị thực dân Pháp bắt đi
tù. Năm 1943, chúng cho anh về quê, chịu quản thúc. Sau khi Nhật đảo chính
Pháp, anh đi Hà Nội. Chắp nối được với tổ chức và trực tiếp tham gia hoạt
động (cho đến nay đồng chí vẫn cịn tham gia ở qn đội, được phong hàm
trung Tướng quân đội nhân dân Việt Nam).

17
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Ngày 10/3/1945, hàng trăm nơng dân nghèo xóm 3 Thượng Kiệm đã
được tổ chức phá kho thóc của Nhật để tại nhà Phó Lý Nguyễn Hữu Tư, kho
thóc khoảng 5 tấn đã nhanh chóng được phân chia cho dân nghèo.
Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng
Minh. Tin Nhật đầu hàng truyền đi nhanh chóng, phong trào cả nước rất sơi nổi.
Ngày 21/8/1945, trên 2000 nhân dân lương giáo Kim Sơn đã biểu tình kéo lên
huyện giành chính quyền giương cao khẩu hiệu: “ủng hộ mặt trận Việt Minh”,
“Việt Nam độc lập muôn năm”... Tri huyện Phạm Gia Hệ đã phải ngoan ngỗn
bàn giao chính quyền cho nhân dân. Chính quyền bù nhìn ở các xã cũng tự tan
rã. Ngày 22/8/1945 một cuộc mít tinh lớn có hàng vạn người tham gia được tổ
chức tại sân vận động Ngô Gia Lễ. Ủy ban lâm thời huyện gia mắt nhân dân và

tuyên bố dành chính quyền ở huyện Kim Sơn do Việt Minh lãnh đạo.
Thượng Kiệm nằm ở trung tâm huyện lỵ, nên khơng khí cách mạng
tháng 8 tác động rất mạnh. Chính quyền địch ở xã hoảng sợ phải tự giải tán, tổ
chức cách mạng ở Phú Vinh về Thượng Kiệm chưa đủ mạnh. Lợi dụng tình
hình đó, ngày 24/8/1945 linh mục Hoàng Quynh đã chỉ đạo bọn phản động,
tay sai tranh thủ lập chính quyền ở Phú Vinh và Thượng Kiệm. Chúng chống
phá cách mạng rất quyết liệt.
Chính quyền chưa thực sự về tay nhân dân nhưng phong trào cách
mạng đã hòa nhập chung vào phong trào cách mạng trong cả nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mở đầu cho thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy
gay go quyết liệt, nhưng cũng rất hào hùng.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 tuy giành được thắng lợi, nhưng
đứng trước tình hình cực kỳ khó khăn “thù trong giặc ngồi”.
Tháng 10 năm 1945, bọn Tàu Tưởng kéo ra Kim Sơn đóng trụ sở ở
đây. Chúng hống hách bất chấp luật lệ dùng tiền “Quan Kim” và tiền “Quốc
18
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

tệ” đã mất giá để vơ vét lương thực thực phẩm và phá hoại nền kinh tế của ta.
Ở Thượng Kiệm lúc này, bọn phản động cũng ngóc đầu dậy ra sức chống phá
cách mạng. Chính quyền Cách mạng còn non trẻ, lại bị địch thao túng. Do vậy
cuộc đấu tranh để bảo vệ thành quả cách mạng, củng cố chính quyền là nhu
cầu cấp thiết. Cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng nhân dân xã diễn ra rất quyết
liệt giữa ta và bọn phản động. Chính quyền được bầu lần này tiến bộ hơn lần
trước, nhưng nhìn chung chính quyền vẫn bị bọn phản động thao túng. Trước

tình hình đó, u cầu củng cố chính quyền dân chủ nhân dân và xây dựng
phong trào quần chúng rất cấp bách. Được sự quan tâm của mặt trận Việt
Minh huyện, mặt trận Việt Minh ở hai thôn Phú Vinh và Thượng Kiệm được
thành lập các tổ chức Hội phụ nữ cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội nhi
đồng cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc.... cũng lần lượt được ra đời.
Phong trào giảm tô, giảm thuế, chia lại công điền... diễn ra rất sôi nổi,
ở Thượng Kiệm, mặt trận Việt Minh đã tổ chức cho thanh niên tập võ ở đình
Thượng Kiệm thờ anh hùng Triệu Quang Phục.
Khi thực dân Pháp trở mặt núp sau quân Anh gây hấn ở Nam Bộ, nhân
dân Nam Bộ đã đứng lên kháng chiến. Ngày 23/9/1945 thanh niên Thượng
Kiệm đã hưởng ứng phong trào Nam Tiến, tiêu biểu là các anh Võ Xuân
Ngọc, Nguyễn Cự Tẩm...
Bọn phản động đội lốt thiên chúa giáo dần dần lộ rõ bộ mặt chống phá
cách mạng. Ngày 8/9/1947 chúng giết đồng chí Nguyễn Ngọc Ái, Chủ tịch
Mặt trận Việt Minh, Chủ Tịch Ủy ban kháng chiến huyện Kim Sơn, tiến công
trụ sở huyện, Bộ Việt Minh, giết một số cán bộ huyện. Tại Thượng Kiệm
chúng bắt anh Phan Văn Thức chôn sống ở đất thánh Phú Vinh sau đó lại lơi
xác cho trơi ra bể. Chúng tổ chức lực lượng vệ sĩ thường xuyên gây rối.

19
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Tháng 6/1945, huyện Ủy Kim Sơn được thành lập để chỉ đạo phong
trào. Huyện ủy đã kết nạp hai đồng chí Nguyễn Duy Liêm ở Thượng Kiệm và
Trần Văn Bộ ở Phú Vinh vào Đảng Cộng Sản Việt Nam và đồng thời quyết

định thành lập chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiền của xã tại đền thờ Trần Hưng
Đạo ở Vinh Ngoại.
Chi bộ Thượng Kiệm đã từng bước củng cố đội ngũ và lãnh đạo phong
trào. Lực lượng du kích của xã đã có hai trung đội ở hai thơn. Tại Thượng
Kiệm đã có hai trung đội 33 người (trong đó có 14 du kích, được trang bị 30
lựu đạn, 14 mìn, 29 mã tấu và một súng lục. Phú Vinh cũng có một trung đội
du kích gồm 39 người, trang bị 40 lựu đạn, 10 mìn, 42 mã tấu và một súng lục.
Trong hai ngày 15 và 16 tháng 3 năm 1949 hai trung đội du kích đã góp phần
ngăn chặn những hành động phá hoại của bon phản động ở xã và đã hỗ trợ tích
cực cho phong trào cách mạng phát triển.
Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân phá tề, trừ gian, chống địch thu thuế,
chống bắt phu bắt lính, chống càn quét của địch. Ngày 9/12/1951, các trung
đoàn 48,52 (đại đoàn 32) được đồng bào lương giáo Kim Sơn giúp đỡ, đã đột
nhập vào xung quanh căn cứ điểm ở Phát Diệm. Du kích Thượng Kiệm vừa
phối hợp chiến đấu và dẫn đường cho bộ đội tấn công vào hầu hết các vị trí
quan trọng ở hữu ngạn Sơng Vạc. Trận mở màn tấn công địch ở Phát Diệm
thắng lợi, đã cổ vũ nhân dân tin tưởng vào kháng chiến.
Ngày 23/3/1953, thực dân Pháp mở cuộc hành quân Hốt tơ Ampo cấp
tốc chuyển qn về Phát Diệm. Du kích ở xóm 1, 2, 3, xã Thượng Kiệm cùng
các nơi hoạt động công khai.
Năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi, Miền Bắc
được hồn tồn giải phóng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền Nam tiếp
tục cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
20
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp


Ngày 1/7/1954, trên quê hương Thượng Kiệm đã sạch bóng quân thù
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xã Thượng Kiệm có 18 liệt sĩ, 4
thương binh, 76 cá nhân và 55 gia đình được Đảng và Chính Phủ khen
thưởng...
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) máy bay Mỹ
thường xuyên quần đảo trên bầu trời Thượng Kiệm. Ngày 30/6/1965, máy bay
Mỹ đánh phá cầu Trì Chính trên trục đường 10 qua Thượng Kiệm, mở đầu cho
những trận đánh phá ác liệt ở trong xã. Từ 30/6/1965 đến 27/12/1972, giặc Mỹ
đánh vào Thượng Kiệm 164 trận với 709 bom phá, 6 bom định giờ, 27 bom từ
trường, 6 bom bi mẹ bằng 3.600 bi con, 32 tên lửa, 152 quả rốc két, 14 bom
xuyên, 20 lần đánh bằng đạn 20 ly, nếu tính trọng lượng toàn bộ số bom đạn là
413.690 kg. Nhưng nhân dân Thượng Kiệm đã chiến đấu kiên cường, lực
lượng vũ trang của xã đã đánh 56 trận, trong đó có 5 lần bắn trúng và 2 lần
bắn rơi máy bay Mỹ. Đến năm 1972, xã Thượng kiệm có 573 người tham gia
lực lượng vũ trang, đóng góp 45.000 ngày cơng phục vụ chiến đấu, đào 748
hầm Quảng Bình, 712 hầm mặt bằng, 7.386 hố cá nhân, 355 gia đình có hầm
ngủ, 427 gia đình có lũy , 28 nhà làm cho mẫu giáo, 16 lớp học có đủ hầm
hào, đắp 4 chỉ lung sở chỉ đạo phòng chống và đánh máy bay địch.
Thượng Kiệm là một địa phương có bề dày truyền thống lịch sử. Tất
cả những người trong làng không kể già trẻ gái trai, đàn ông, đàn bà khi có
giặc đều vùng lên đánh giặc. Với tất cả khả năng của mình họ đã chiến đấu để
bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần đoàn kết của những người dân
trong làng rất cao, vì thế họ đã bảo vệ được làng q của mình khơng để quê
hương mình rơi vào tay kẻ thù. Trong làng cũng có nhiều vị anh hùng có cơng
lớn đánh giặc, nay tên tuổi của họ được ghi trong hồ sơ sổ sách của làng.

21
Sinh viên: Hà Giang Nam


Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Truyền thống lịch sử văn hóa của làng có từ lâu đời nay vẫn được tiếp tục
được bảo tồn và phát huy.
Xã Thượng Kiệm đã được Nhà nước tặng danh hiệu lực lượng vũ
trang nhân dân năm 2000.
1.2. Diễn trình lịch sử Đình Thượng Kiệm
1.2.1. Vài nét về Đình làng Việt Nam
Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn
của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và mọi đổi
thay trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến trúc
đình làng vì vậy mang đậm dấu ấn văn hóa, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc
điêu khắc Việt truyền thống.
Đến thế kỷ 18, Việt Nam có chừng 11.800 làng xã. Mỗi làng có một
cụm kiến trúc nghệ thuật tơn giáo đình, đền, chùa với hàng trăm pho tượng và
nhiều đồ trang trí thờ cúng khác nhau. Đền thường thờ Thánh, có thể là Thánh
mẫu tam tịa hoặc một vị Anh hùng dân tộc, chùa thì thờ Phật. Cịn đình thờ
thần Thành hồng làng và chủ yếu là nơi hội họp bàn việc làng, lễ hội có chức
năng như nhà Văn hóa bây giờ. Ngơ Thì Nhậm đã viết:
“Trời lấy đình để ni mn vật
Đất lấy đình để chứa mn lồi
Người ta lấy đình để làm nơi tụ họp”.
Từ đó có thể thấy, đình chính là ngơi nhà chung của cộng đồng làng
xã Việt Nam. Nơi đây thực hiện ba chức năng chính: hành chính, tơn giáo và
văn hóa. Ba chức năng này khơng bao giờ tách biệt mà ln đan xen, hịa
quyện lẫn nhau. Tuy nhiên, tùy vào từng thời kỳ mà chức năng này có thể nổi
trội và được phát huy cao độ hơn chức năng kia.


22
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

Theo quan niệm kiến trúc, đình là một kiến trúc cơng cộng, bỏ ngỏ.
Thời xưa có rất nhiều loại đình: quán đình, dịch đình, trạm đình… thường
được xây nơi biên ải, đường đi đón sứ giả nước ngồi, cho người qua đường tá
túc. Giang đình – đình ven sơng nơi bến đị cũng có chức năng như vậy. Kiều
đình là cầu có nhà thường gọi là cầu ngói. Phương đình –đình vng, Viên
đình – đình trịn, là các kiểu kiến trúc xây dựng trong vườn hoa, hoặc lọt thỏm
trong các kiến trúc đền chùa…
Song, đình làng là một loại kiến trúc đặc biệt, là sản phẩm của văn
minh làng xã phát triển ở một mức độ dân chủ và tự ti tương đối với chính
quyền phong kiến. Nhiều học giả cho rằng, làng xã là một cộng đồng nhiều gia
tộc có nguồn gốc từ cơng xã thị tộc kiểu như buôn của người Tây Nguyên,
làng của người Mường. Đình làng là ngơi nhà chung giống như nhà Rơng.
Hình ảnh ngơi nhà cơng cộng như vậy thấy ngay trên các họa tiết của trống
đồng. Nhưng ở miền Bắc Việt Nam thời Lý - Trần (thế kỷ XI-XIV) làng xã
chưa phát triển mà hình thức phổ biến là điền trang – thái ấp với quan hệ quý
tộc – nông nô. Sau khi thắng quân Minh, năm 1427, nhà Lê lập quốc thúc đẩy
quan hệ địa chủ - nông nô với quần cư làng xã - một ý tưởng có từ thời Hồ
Quý Ly được bổ sung và hoàn thiện.
Và trong đơn vị hành chính phong kiến gồm thơn, xã, tổng huyện,
tỉnh, thì làng khơng thuộc đơn vị nào. Làng to tự thành một xã, làng nhỏ thì
mấy làng ghép lại mới thành một xã. Trên một miếng đất nổi, xung quanh có

lũy tre xanh bao bọc, ngồi là đồng ruộng, làng là quần cư của vài hoặc nhiều
dòng họ kết cấu theo địa lý tự nhiên. Từ làng này sang làng kia có đường liên
xã, liên huyện rồi ra tỉnh. Làng là tế bào căn bản của xã hội Việt Nam. Mỗi
làng có tập tục riêng, lề thói riêng, bộ máy hành chính và văn hóa riêng nhưng
đều giống nhau ở phương thức trồng lúa nước và nghề phụ thủ công. Vua chúa
23
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

chỉ quản lý được lãnh địa riêng này thông qua bộ máy hương lý chủ yếu nhờ
thu thuế chứ không bao giờ nắm được đến tận người dân. Dù quốc gia có bộ
luật nhưng hương ước và lệ làng vẫn trên hết: “phép vua thua lệ làng” .
Đình làng là trụ sở hành chính của chính quyền dân cử trong một xã
hội với giai tầng sỹ, nông, cơng, thương có thể chuyển đổi qua khoa cử. Cái
trụ sở này tựu trung đủ mọi lề thói nơng dân với toàn bộ nét văn minh và hủ
lậu của làng xã: từ rước xách hội hè, khao vọng quan trên, đón người đỗ đạt,
họp việc làng… đến hội họp rượu chè, xử kiện vụ tranh chấp ruộng đất, phạt
vạ gái chửa hoang… nghĩa là tất cả các sự kiện chung của nơng thơn đều kéo
đến đình trình diễn. Ở đây cũng có những quy củ nhất định, có sự phân biệt
chiếu trên, chiếu dưới. Khi ăn cỗ, bậc hương lão, hương lý ngồi giữa đình,
thấp hơn ngồi hai bên, cịn thường dân ngồi ngồi sân đình.
Trải qua các thời kỳ, tùy theo khả năng kinh tế, trình độ xây dựng của
các tốp thợ và nhiều yếu tố chi phối khác, ngơi đình làng có thể được xây
dựng với quy mơ, kích thước, trang trí mỹ thuật khác nhau. Sơ khai của các
ngơi đình xưa nhất được tìm thấy đến ngày nay có niên đại thuộc vào giai
đoạn thời Mạc thế kỷ XVI chỉ có một tịa Đại Đình được bố cục theo hình chữ

“Nhất” khơng có tường bao (thể hiện tính chất mở, chức năng sinh hoạt của
làng xã của cơng trình).
Sang thế kỷ XVII, do nhu cầu và phát triển của tín ngưỡng Thành
Hồng làng nên đình làng đã có sự biến đổi nhất định về kiến trúc, vào cuối
thế kỷ này xuất hiện những ngơi đình có hậu cung mở rộng phần phía sau nối
liền với tịa Đại Đình để có nơi thờ thần riêng (để thâm nghiêm hóa vị thần),
tạo thành hình “chi vồ” hay cịn gọi là hình chữ “Đinh”.
Nhưng vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, về mặt kiến trúc thì
đình làng đã có sự đa dạng hơn, đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng cư dân
24
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


Khóa luận tốt nghiệp

làng xã về việc có một khơng gian đủ rộng cho việc thờ cúng. Tòa hậu cung,
chốn thâm nghiêm phát triển thêm từ hình chữ “Đinh” tạo thành một tịa phía
sau, song song với tịa Đại Đình. Trước tịa Đại Đình có dựng thêm một tịa
“Tiền tế” đã làm cho mặt bằng cơng trình kiến trúc thành hình chữ “Cơng”.
Bên cạnh đó, cũng phổ biến loại mặt bằng hình chữ “Cơng”, do làm
thêm gian nối Đại Đình và Hậu cung. Sang thế kỷ XVIII, ở một số đình, nhà
tiền tế có xu hướng chuyển thành Phương đình.
Từ thế kỷ XIX, trở về sau này ngơi đình làng đã có thêm vào hai bên
của tịa Đại Đình hai dãy nhà tả vu và hữu vu để phục vụ cho nhu cầu sinh
hoạt của cộng đồng làng xã, cùng với nghi môn và tường rào phát triển về sau
này đã tạo ra mặt bằng kiến trúc với các đơn ngun kiến trúc phía trong là
chữ “Cơng” và các đơn ngun kiến trúc phía ngồi là chữ “Quốc”.
Có thể nói, ngơi đình chưa bao giờ mất đi trong đời sống làng xã mà

nó vẫn thực hiện chức năng vốn có của mình. Tính phi tơn giáo, tinh thần thế
tục và cấu trúc điêu khắc đa hướng là thành tựu nghệ thuật có một khơng hai
của văn minh Việt Nam dưới chế độ xã hội phong kiến.
1.2.2. Niên đại khởi dựng của di tích
Gọi là đình Thượng Kiệm là gọi theo tên làng Thượng Kiệm, ở xóm 3
xã Thượng Kiệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Di tích có tên là đình
Thượng Kiệm - Tương truyền Thượng Kiệm là do cụ Nguyễn Cơng Trứ đặt,
có nghĩa là “chuộng tiết kiệm” vì khi cụ đến lập ấp lễ hội chỉ có một buồng
cau. Từ thành phố Ninh Bình, đi theo quốc lộ 10 xuống Kim Sơn, đến thị trấn
Phát Diệm 28 km thấy một tấm biển chỉ dẫn lớn ghi “Di tích lịch sử đình
Thượng Kiệm” rẽ phải 2km nữa là đến di tích đình Thượng Kiệm. Ngồi ra,
tới di tích cịn có một con đường khác đó là đường thuỷ. Từ Thành Phố Ninh

25
Sinh viên: Hà Giang Nam

Lớp: BT29A


×