Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.2 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Nguyễn Cơng Trứ
<b>I. Tìm hiểu chung:</b>
<b>1. Tác giả:</b>
- Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858).
- Biệt hiệu: Hi Văn.
- Quê: huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Học giỏi, giàu ý chí (42 tuổi mới đỗ cử nhân), tài hoa, văn võ toàn tài nhưng
nhiều thăng trầm trên đường công danh (lúc Thủ khoa, khi tham tán, lúc chỉ làm lính
thú). (Ơng cũng rất đa tình, 63 tuổi cưới cô vợ thứ 9 – 40 năm trước anh bằng tuổi em).
- Giàu lòng yêu nước thương dân.
- Sự nghiệp sáng tác: để lại khoảng 50 bài thơ, 60 bài ca trù và 1 bài phú Nôm nổi
tiếng Nhà nho vui cảnh nghèo.
<b>2. Tác phẩm:</b>
<b>a. Hoàn cảnh sáng tác:</b>
Được sáng tác năm 1848, khi nhà thơ đã cáo quan về hưu, đã 70 tuổi.
<b>b. Cảm nhận chung:</b>
- Trừ nhan đề, tác giả đã bốn lần nhắc đến từ “ngất ngưởng” trong bài thơ.
- Ngất ngưởng: vốn là từ diễn tả con người, sự vật cao hơn con người, sự vật khác,
- Thái độ “ngất ngưởng”: là thái độ khác người, xem mình cao hơn người khác, là
sự thoải mái, tự do, không theo một khuôn khổ nào.
- Mỗi từ ngất ngưởng trong bài thơ gắn với một giai đoạn trong cuộc đời của tác
giả. Bài thơ như một lời tự thuật, tự tổng kết về cuộc đời của mình.
<b>c. Bố cục:</b>
Chia làm ba phần:
- Từ đầu đến “Thừa Thiên”: Ngất ngưởng ở chốn quan trường.
- Tiếp theo đến “Bụt cũng … ngất ngưởng”: Ngất ngưởng khi “đô môn giải tổ”.
- Cịn lại: Tun ngơn về lẽ sống ngất ngưởng.
<b>II. Đọc hiểu văn bản:</b>
<b>1. Ngất ngưởng tại chốn triều chung:</b>
Giải thích những từ khó: các chức quan, các danh vị.
- <i>“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”</i>
Mọi việc trong trời đất khơng có việc nào khơng phải là phận sự của ta
Câu thơ chữ Hán đặt ở đầu bài thơ có tác dụng như một tun ngơn và khẳng định
trách nhiệm của mình trước vũ trụ, trước trời đất.
nhân gian thuyết Vũ Hầu – Thuật hoài; Làm trai cho đáng nên trai / Xuống Đông Đông
tĩnh, lên Đồi Đồi n – Ca dao).
<i>- Ơng Hi Văn tài bộ đã vào lồng</i>
Ông Hi Văn tài bộ: Ông Hi Văn có tài; đã vào lồng: bị trói buộc vào lồng.
Tác giả xưng tên và khẳng định mình là người có tài. (Là người đầu tiên xưng tên
và khẳng định tài năng của mình).
Hai câu đầu: Một cái tên, một phẩm chất, một tuyên ngôn Một con người.
- Ông nhắc lại: đỗ thủ khoa, làm tham tán, làm tổng đốc (quan đứng đầu tỉnh), lúc
bình tây cờ đại tướng, về phủ dỗn (thủ đơ) Thừa Thiên.
Đó chính là khoa trường và quan trường của một nam nhi thời phong kiến: đạt thủ
khoa (cao nhất)
Tác giả sử dụng từ Hán Việt mang tính chất trang trọng, kết hợp với điệp từ “khi”
và phép liệt kê: khoe tài, nhấn mạnh những chức danh mình đã vượt qua.
Giọng thơ có vẻ khoe khoang, phơ trương (khoe nhiều chức, xưng “ông”): thể hiện
một ý thức rõ nét về tài năng và địa vị của bản thân.
Từ “khi” ngồi sắc thái liệt kê cịn cho thấy sự thay đổi chức vụ liên tục, không
chịu ở yên vị trí một cơng việc nào q lâu, khơng q quan trọng những việc mình
làm (dù đó là niềm tự hào chính đáng).
Với sáu câu thơ, Nguyễn Cơng Trứ “ngất ngưởng” bằng chính tài năng và sự
nghiệp của bản thân.
<b>2. Ngất ngưởng khi “đô môn giải tổ”:</b>
- Nguyễn Công Trứ khơng nhắc đến những yến tiệc linh đình, những vật phẩm vua
ban khi về hưu.
- Có thể nói, ơng đã dành toàn bộ quỹ thời gian khi về hưu để “chiều chuộng” con
người mình bằng những thú vui. Ơng “ngất ngưởng” ở chốn hành lạc:
+ Đi chơi.
+ Đi chùa.
+ Đi ngao du sơn thủy.
- Ông thực hiện những thú vui ấy rất khác người:
+ Đi chơi thay vì cưỡi ngựa, cụ thượng Trứ lại cưỡi bò vàng.
+ Đi chùa – chùa là chốn thâm nghiêm, nơi thoát tục “tu là cõi phúc, tình là dây
oan”, ơng mang theo một hai cơ đầu, mang xn tình vào chốn thiền môn.
+ Đi ngoạn cảnh: tay kiếm cung rất đạo mạo, đoan trang nhưng trở thành có dáng
vẻ thật từ bi.
Những việc làm của Nguyễn Công Trứ rất “chỏi”, rất khác đời khác người. Nhưng
Nguyễn Công Trứ sống với những thú vui, sống tự do, không ràng buộc bởi những
khuôn khổ của xã hội phong kiến.
Ngất ngưởng: ở tính cách, nhân cách của mình – sống thỏa thích, tự do, sống theo
cách của mình.
- Giọng điệu những câu thơ:
+ Mang vẻ mê say, sảng khoái.
+ Thể hiện một thái độ tự mãn, rất bằng lòng với mình.
- Nếu “ngất ngưởng” là thái độ thì ở đây là những việc làm trái khoáy, khác người,
<b>3. Một tuyên ngôn, một lẽ sống:</b>
<i> - Được mất dương dương người thái thượng,</i>
<i>Khen chê phơi phới ngọn đông phong</i>
<i>Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,</i>
<i>Không Phật không Tiên không vướng tục</i>
<i>Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú</i>
<i>Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.</i>
Nguyễn Công Trứ quan niệm:
+ chuyện được mất ở đời: vui như người thái thượng.
+ lời khen tiếng chê: không q quan trọng, như gió thoảng ngồi tai, như ngọn gió
đơng, ngọn gió mùa xn điểm xuyến cho cuộc đời.
+ sống theo những thú vui ở đời
+ chuyện tín ngưởng: không quá vướng bận, không nhập tục nhưng cũng không
quá trần tục, thốt tục ơng rất tin tưởng vào chính mình
+ Ơng tự hào vì mình có sự nghiệp hiểu hách: Chẳng Trái Nhạc cũng vào phường
Hàn, Phú
+ Và trên hết ơng khẳng định mình ln trọn đạo vua tơi, là con người hết lòng với
dân với nước.
- <i>Trong triều ai ngất ngưởng như ông</i>
Câu thơ như một tuyên ngơn khẳng định: ơng là người có tài – khó có thể kiếm
được người thứ hai trong triều, dám sống với những điều mình thích nhưng vẫn giữ
được đạo vua tôi.
Câu kết như một lời thách thức, một lần nữa lại khẳng định sự ngất ngưởng của
mình trong triều, nêu bật sự khác biệt của Nguyễn Công Trứ với những đại thần
trong triều, một cái tôi đứng riêng đám quan lại nhợt nhạt.
<b>III. Tổng kết:</b>