Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.45 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Câu hỏi 1: </b>Bạn hãy cho biết về ngày truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển;
những bến, bãi của đường Hồ Chí Minh mà lịch sử đã ghi nhận,
Đó là những bến, bãi nào, ở đâu ?
<b>Trả lời:</b>
Ngày truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển là ngày 23-10 hằng năm.
Năm nay là trịn 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961
23-10-2011)
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã đi vào lịch sử, những bến tàu trên tuyến
đường này như bến tàu khơng số K15 Đồ Sơn (Hải Phịng), bến tàu không số Lộc An
(Bà Rịa – Vũng Tàu), bến tàu không số Vũng Rô (Phú Yên), bến Vàm Lũng (Cà
Mau), Thạnh Phong (Bến Tre), Đức Phổ, Sa Kỳ, Ba Làng An (Quảng Ngãi) đã trở
thành những khu di tích lịch sử thu hút nhiều du khách và một số nơi đã được Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch cơng nhận là Di tích lịch sử Quốc gia.
<b>Câu hỏi 2: </b>Ý nghĩa, tầm quan trọng của đường Hồ Chí Minh trên biển đối với cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước?
<b>Trả lời:</b>
Cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên
Biển Đơng là tuyến chi viện chiến lược đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải
Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành con đường huyền thoại, duy
nhất có trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Trên con đường này, đoàn tàu khơng số
hồn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử chở vũ khí, đạn dược chi viện cho chiến trường
miền Nam.
<b>Câu hỏi 3:</b> Những thành tích cơ bản của Đồn tàu không số trong những năm tháng
chống Mỹ cứu nước?
<b>Trả lời:</b>
ngàn tấn vũ khí trang bị và 80 ngàn lượt cán bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục
hơn 4.000 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20 cơn bão, chiến đấu hơn 30 lần với tàu
địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu
xuồng của địch, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần chi viện đắc lực cho nhiều
hướng chiến trường, nhiều chiến dịch lớn, nhiều địa bàn trọng yếu mà đường bộ chưa
với tới được.
<b>Câu hỏi 4:</b> Hãy cho biết về người thuyền trưởng của Đồn tàu khơng số đã được đặt
tên cho một hòn đảo của nước ta hiện nay? Hãy nêu một trong những chiến công của
thuyền trưởng đó?
<b>Trả lời:</b>
Người thuyền trưởng của Đồn tàu khơng số đã được đặt tên cho một hòn đảo
của nước ta hiện nay là Đảo Phan Vinh (thuộc Quần đảo Trường Sa), Đó là Nguyễn
Phan Vinh (Q dậu 1933 – Mậu thân 1968). Liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân, sinh năm 1933 tại thơn Bình Ninh, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh
Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) ông tản cư vào sống ở Tam Kì
đi học, là học sinh trường Trung học Tam Kì II (Tam Thái) tại làng Khánh Thọ. Đến
năm 1954 đang giữa năm học của lớp 7 (tương đương lớp 9 bây giờ) ông xung phong
nhập ngũ, rồi tập kết ra miền Bắc. Đến năm 1963 ông là Trung úy thuyền trưởng hải
qn. Đầu năm 1967 ơng chỉ huy “Đồn tàu khơng số” vượt đường Hồ Chí Minh hay
đường Trường Sơn trên biển Đơng với nhiệm vụ chun chở vũ khí quân dụng chi
viện cho chiến trường miền Nam. Đến tháng 7 năm 1968 ông đã anh dũng vượt qua
bao thử thách, gian khổ chỉ huy được 11 chuyến tàu hải qn tới đích an tịan.
Ngày 27/2/1968, tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy rời quân
cảng Hải Phòng mang theo hơn 14 tấn vũ khí (chuyến thứ 11) vào Hòn Hèo, một căn
cứ của quân và dân ta cách Nha Trang 12 km về phía bắc thuộc 2 xã Ninh Phước và
Ninh Vân, huyện Ninh Hòa. 0h ngày 1/3/1968, khi vào gần đến bờ, tàu 235 bị địch
phát hiện và tấn công ác liệt. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đã chỉ huy các chiến
sỹ trên tàu chống trả quyết liệt, nổ súng đến viên đạn cuối cùng và hy sinh với con tàu
bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay mình tự hủy, khơng để lại một chút
dấu vết ...
Ngày 25/8/1970, thuyền trưởng liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh đã được truy tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Từ đó, tên đảo Phan Vinh được
ghi trên bản đồ biển, đảo Việt Nam và trở thành niềm tự hào của các thế hệ cán bộ,
chiến sĩ trên đảo.
<b>Câu hỏi 5: </b>Bạn có suy nghĩ gì về những con người, những chiến công và con đường
huyền thoại trên biển mang tên lãnh tụ Hồ Chí Minh?
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một thiên anh hùng ca bất tử, một
bộ phận quan trọng trong hệ thống vận tải quân sự chiến lựợc góp phần vào thắng lợi
Những chiến công của tuyến đường huyền thoại trên biển chính là những kỳ
tích lịch sử, được làm nên bởi trí tuệ, lịng u nước, sức mạnh của ý chí “Khơng có
gì q hơn độc lập tự do” và khát vọng hịa bình, khát vọng về một ngày mai tươi
sáng. Âm thầm, lặng lẽ chở nặng nghĩa tình, vũ khí trang bị từ miền Bắc đến với
miền Nam, Đường Hồ Chí Minh trên biển cũng gánh chịu khơng ít những tổn thất, hy
sinh. Đó là việc bắt buộc phải cho nổ Tàu 143 ở Vũng Rơ (2-1965); có hàng chục
chuyến tàu xuất bến phải quay về. Trong số 168 con tàu đã ra đi từ năm 1966 đến
năm 1972, có 8 con tàu đã phải phá hủy để xóa dấu vết nhằm bảo đảm bí mật tuyệt
đối của tuyến đường huyết mạch. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này,
“đã có 117 cán bộ, chiến sĩ hy sinh quên mình trên biển”. Những chiến sĩ: Phan Vinh,
Huỳnh Ngọc Trạch, Nguyễn Chánh Tâm, ... và bao đồng chí khác đã vĩnh viễn nằm
lại dưới lịng biển bao la, sâu thẳm. Trong chặng vượt biển cuối cùng, các anh đã
không thể cùng đồng đội đi trọn quãng đường, ở lại với biển khơi, với sóng gió.
Chính các anh cùng đồng đội đã dệt nên huyền thoại bằng tuổi thanh xn,
nhiệt huyết của mình cho ngày tồn thắng. Tên tuổi các anh là những bài ca đi cùng
năm tháng; các anh mãi mãi là những người lính Hải quân trên những con tàu đi về
phía vầng dương, nhắn nhủ thế hệ trẻ hơm nay tự soi mình và ngẫm về nghĩa vụ,
trách nhiệm, tình yêu đối với quê hương, đất nước và biển đảo của Tổ quốc. Tổ quốc
và nhân dân đời đời ghi nhớ và tri ân các anh, những chiến sĩ đã làm nên kỳ tích
Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Các trận chiến đấu đó là những tấm gương cao đẹp về phẩm chất và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng của cán bộ, chiến sĩ Hải qn, đồng thời nói lên tính chất khốc
liệt, đầy khó khăn nguy hiểm của cơng tác vận chuyển vũ khí bằng đường biển chi
viện cho chiến trường miền Nam, góp phần đưa đến ngày đại thắng 30/4/1975.