MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ XXI - thế kỉ được diễn đạt bằng hàng loạt những khái niệm mới
như kỷ nguyên công nghệ thông tin, nền kinh tế tri thức, xu thế tồn cầu
hố… Dù dưới bất cứ khái niệm nào, đặc trưng nổi bật nhất vẫn là sự nổi lên
vai trò và vị thế của con người. Con người đã và đang khẳng định mình là
nhân vật trung tâm của lịch sử theo cả hai nghĩa chủ thể và mục đích hành
động. Phát triển con người là mục tiêu cuối cùng, là đỉnh cao nhất trong quá
trình phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời là động lực quyết định của sự
phát triển ấy.
Việt Nam đang bước vào thời kì mới của sự phát triển, thời kì đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, từng bước hội nhập với cộng đồng quốc tế. Mục tiêu của
sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta là tạo ra một bước phát triển nhanh chóng, cơ
bản trở thành nước cơng nghiệp vào năm 2020. Muốn vậy cần tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Trong đó, đặc biệt coi trọng năng lực nội sinh, nâng cao chất lượng nguồn lực
con người - nhân tố quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc vị trí, vai trị và ý nghĩa chiến
lược của việc xây dựng và phát triển NNL trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,
HĐH ở nước ta, Đảng ta rất quan tâm đến việc phát huy yếu tố con người.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ con người,
NNL là nhân tố quyết định sự phát triển trong thời kì CNH, HĐH. Nâng cao
chất lượng NNL cả thể lực, trí lực, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống để
phát huy tính tích cực xã hội của nhân dân, khơi dậy nhân tố con người xã hội
chủ nghĩa là khâu quan trọng hàng đầu đối với xã hội nước ta hiện nay.
Hải Dương là một tỉnh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc,
cách Thủ đơ Hà Nội 57km, là điểm trung chuyển giữa Thành phố cảng Hải
1
Phịng và Hà Nội. Với vị trí địa lí thuận lợi đó, Hải Dương có nhiều tiềm năng
và thế mạnh cho phát triển KTXH. Tuy nhiên những điều kiện khách quan đó
có được khai thác và sử dụng hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào nhân
tố chủ quan là nguồn lực con người Hải Dương. Xác định rõ tầm quan trọng
của NNL, ngay từ Đại hội Đảng bộ đầu tiên sau ngày tái lập, Đảng bộ tỉnh
Hải Dương đã rất chú trọng đến phát triển NNL, coi đây là một trong những
định hướng lớn của chiến lược phát triển KTXH. Công tác phát triển NNL đã
được triển khai rộng khắp và đạt những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên,
nhiều vấn đề đang đặt ra đối với công tác phát triển NNL địi hỏi phải có sự
tổng kết q trình Đảng bộ Hải Dương lãnh đạo thực hiện phát triển NNL
nhằm đánh giá một cách khách quan những thành tựu, hạn chế đồng thời đúc
kết những kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện chủ trương, giải pháp chỉ đạo
thực hiện phát triển NNL nói riêng và phát triển KTXH nói chung.
Với những lí do đó, tơi đã chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh
đạo phát triển NNL từ năm 1997 đến năm 2009” làm Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một trong những vấn đề nổi cộm đầu thế kỉ XXI được thế giới quan
tâm là vấn đề NNL. Ở nước ta, phát triển NNL cũng được Đảng, Nhà nước,
nhiều cơ quan, cán bộ nghiên cứu cũng như toàn xã hội đặc biệt quan tâm.
Đến nay, chúng ta có thể chỉ ra những cơng trình khoa học tiêu biểu theo các
nhóm sau:
Nhóm các đề tài nghiên cứu khoa học và các cuốn sách viết về vấn đề
này như: “Con người và nguồn lực con người trong phát triển” (1995) của
Viện thông tin khoa học xã hội, “Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước” (1999) của Mai Quốc Chánh - Nxb
Chính trị quốc gia, “Phát triển NNL phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước” (2005) của Nguyễn Thanh - Nxb. Chính trị quốc gia…
2
Nhóm các bài viết in trên các báo và tạp chí như: “Phát triển NNL của
Việt Nam đến năm 2010” của Nguyễn Thị Hằng trên Tạp chí cộng sản, số 7
năm 1999; “Đào tạo NNL cho cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước” của
Lê Viết Khuyến trên Báo Nhân dân, số 17297 năm 2002; “Phát triển NNL
Việt Nam trong bối cảnh Tồn cầu hố” của Mạc Văn Tiến trên Tạp chí Lao
động xã hội, số 264 năm 2006; “Phát triển NNL và lĩnh vực xã hội theo tinh
thần văn kiện Đại hội X của Đảng” của Nguyễn Thanh Tuấn trên Tạp chí lao
động xã hội, số 284 năm 2006…
Các cơng trình này đã đề cập đến đặc điểm, vai trò của nguồn lực con
người trên phương diện là động lực quan trọng cho sự phát triển; khảo sát
thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển NNL đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên các cơng trình đó nghiên cứu trên một địa
bàn lớn, đề xuất những vấn đề ở tầm vĩ mô, không mang đặc thù của chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngồi ra, cịn một số luận văn, luận án, khoá luận viết về vấn đề phát
triển NNL ở một số địa phương như: “Phát triển NNL trong thời kì cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ở tỉnh Thanh Hố đến năm 2010” (2002) Luận án
tiến sĩ Kinh tế của Bùi Sĩ Lợi ở Trường Đại học Kinh tế quốc dân; “Phát triển
NNL cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa ở Tây Nguyên” (2007)
Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Văn Thanh; “Phát huy nguồn lực con người
trong thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam” Luận văn Thạc sĩ
Triết học của Nguyễn Văn Sơn… Những luận án, luận văn trên đều xuất phát
từ thực trạng đội ngũ lao động, đặc điểm tình hình và mục tiêu phát triển
KTXH đặc thù của mỗi địa phương để đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ phát triển
NNL tại chỗ phục vụ sự nghiệp phát triển của địa phương đó.
Trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong những năm qua cũng đã có rất nhiều
những tổng kết, báo cáo đánh giá kết quả phát triển NNL của các cơ quan Nhà
nước, các đoàn thể như: Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Ban chỉ đạo
3
thực hiện phát triển NNL của Tỉnh và các huyện; Sở Giáo dục và Đào tạo,
Cục Thống kê Tỉnh, Hội Nơng dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ…
Những cơng trình nghiên cứu, những tổng kết nêu trên là những nguồn
tài liệu quý báu, là cơ sở để tác giả kế thừa, tiếp tục nghiên cứu.Tuy vậy, cho
đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách tồn diện
về chủ trương phát triển NNL của tỉnh Hải Dương trong thời kì CNH, HĐH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự vận
dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong công tác phát triển NNL.
- Làm sáng tỏ vai trò của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong quá trình chỉ
đạo thực hiện phát triển NNL.
- Đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo
phát triển NNL trong thời gian từ 1997- 2009.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Với những mục tiêu trên, luận văn thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu:
- Khái quát tình hình KTXH của Tỉnh và phản ánh thực trạng NNL của
Hải Dương sau ngày tái lập tỉnh.
- Hệ thống hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng bộ tỉnh Hải Dương về phát triển NNL.
- Trình bày quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả thực hiện phát triển
NNL trong những năm 1997- 2009.
- Trình bày một số giải pháp để nâng cao chất lượng NNL của Tỉnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chủ trương của Đảng
bộ tỉnh Hải Dương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển NNL.
4
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Nghiên cứu những chủ trương trong quá trình lãnh đạo thực
hiện phát triển NNL của tỉnh Hải Dương.
- Thời gian: Từ năm 1997 (năm tái lập tỉnh) đến năm 2009.
- Không gian: Địa bàn tỉnh Hải Dương
5. Nguồn tƣ liệu, cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu:
Để thực hiện luận văn, tác giả đã khai thác nhiều nguồn tư liệu khác
nhau: các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam;
các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XII (năm 1997), lần thứ
XIII (năm 2000), lần thứ XIV (năm 2005); các chỉ thị, nghị quyết, thông tư
của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Hải Dương về phát triển NNL; các báo
cáo tổng kết hàng năm, báo cáo tổng kết từng giai đoạn của Tỉnh uỷ, Uỷ ban
Nhân dân, các sở ban ngành, đoàn thể tỉnh Hải Dương ; các cơng trình nghiên
cứu, các số liệu, kết quả điều tra thực tiễn ở Hải Dương về phát triển NNL…
Đây là những nguồn tư liệu cơ bản, không thể thiếu của luận văn. Những
nguồn tư liệu đó được tác giả khai thác từ Trung tâm Lưu trữ của Tỉnh ủy, Uỷ
ban Nhân dân Tỉnh, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương; Sở
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hải Dương, Thư viện Quân đội; Thư viện Quốc gia
Việt Nam…
Bên cạnh đó, tác giả cịn sử dụng nguồn tư liệu về phát triển NNL, tư
liệu về giáo dục đào tạo… từ các nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước, do các nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Khoa
học xã hội, Lao động… phát hành. Đây là những tài liệu góp phần cung cấp
những gợi mở cho nghiên cứu.
* Cơ sở phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận, phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; cơ sở lí luận chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
5
tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người; các quan điểm và đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước về con người, nhân tố con người và nguồn
lực con người.
* Phương pháp nghiên cứu: Để xem xét vấn đề NNL và phát triển
NNL một cách khách quan, sát thực tiễn, luận văn đã kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu như:
Phương pháp lịch sử, lôgic để làm sáng tỏ đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong lãnh đạo
phát triển NNL.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, xử lí số liệu để
làm rõ những thành tựu, hạn chế, lí giải nguyên nhân và đề xuất những giải
pháp nâng cao chất lượng NNL của Tỉnh.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hố quan điểm, chủ trương chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hải Dương về phát triển NNL.
- Trình bày có hệ thống q trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo tổ
chức thực phát triển NNL trong thời gian 1997- 2009.
- Từ những kết quả nghiên cứu, luận văn đã nêu ra một số giải pháp
tiếp tục phát triển NNL của Tỉnh.
- Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm
phong phú thêm tài liệu tham khảo cho giảng dạy một số chuyên đề Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam về khía cạnh con người như giải quyết các vấn đề
xã hội, nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Luận văn góp phần cung cấp một tài liệu tham khảo cho việc tổng kết,
xây dựng, hoạch định giải pháp phát triển NNL trong thời kì CNH, HĐH ở
tỉnh Hải Dương.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có 3 chương:
Chƣơng 1: Đảng bộ tỉnh Hải Dương chú trọng phát triển NNL trong
những năm 1997- 2000.
Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Hải Dương tăng cường lãnh đạo phát triển
NNL trong những năm 2001- 2009.
Chƣơng 3: Một số nhận xét và giải pháp.
7
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG NHỮNG NĂM 1997- 2000
1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và thực
trạng nguồn nhân lực tỉnh Hải Dƣơng trƣớc ngày tái lập tỉnh
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Hải Dương là một tỉnh nằm ở Đồng bằng sơng Hồng, trong khu vực
kinh tế trọng điểm phía Bắc, cách Thủ đơ Hà Nội 57km và Hải Phịng 45km.
Hải Dương là vùng đất được hình thành trong thời đại đồ đá. Cùng với nhiều
biến thiên thăng trầm của lịch sử, vùng đất này có những thay đổi về tên gọi,
địa giới hành chính. Thời Hùng Vương, Hải Dương là một bộ phận thuộc bộ
Dương Tuyền; thiên niên kỉ I thuộc quận Giao Chỉ, Giao Châu. Dưới thời Lý,
Trần có tên là Nam Sách Lộ, Hồng Lộ rồi Hồng Châu, Nam Sách Châu vào
cuối thế kỉ XIV. Năm 1831, tỉnh Hải Dương chính thức được thành lập với
tên gọi là tỉnh Đông bao gồm:
Phủ Thượng Hồng gồm Đường Hào, Dương Yên, Cẩm Giàng, Thanh
Miện, Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo.
Phủ Nam Sách gồm Nam Sách, Chí Linh, Thanh Hà, Tiên Lãng.
Phủ Kinh Môn gồm Giáp Sơn, Đông Triều, Thủy Đường, An Lão,
Nghi Dương, Kim Thành, An Dương.
Năm 1887, huyện An Dương, An Lão và một phần Thủy Đường được
tách ra thành lập tỉnh Hải Phòng. Năm 1889, cắt tất cả Thủy Đường và năm
1893 cắt huyện Tiên Lãng cùng một phần huyện Kim Thành, Kinh Mơn về
Hải Phịng. Năm 1947, các huyện Đơng Triều, Chí Linh, Nam Sách, Kinh
Mơn chuyển về tỉnh Hồng Quảng.
Từ năm 1960, Hải Dương được thành lập.
8
Tháng 3 năm 1968, theo Nghị quyết số 504/NQ - TVQH của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, tỉnh Hải Dương hợp nhất với Hưng Yên thành tỉnh Hải
Hưng. Toàn Tỉnh có 20 huyện và 2 thị xã.
Tháng 1 năm 1997, Hải Hưng tách thành 2 tỉnh là Hải Dương và Hưng
Yên. Hải Dương ngày nay bao gồm các huyện: Ninh Giang, Tứ Kỳ, Gia Lộc,
Thanh Miện, Bình Giang, Cẩm Giàng, Nam Sách, Kinh Mơn, Kim Thành,
Thanh Hà, Chí Linh, Thành phố Hải Dương.
Hải Dương nằm ở phía Đơng đồng bằng Bắc Bộ ở vào 20043’ đến
21014’ độ vĩ bắc và 106003’ đến 106038’ độ kinh đông, tiếp giáp với 6 tỉnh là
Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thành phố Hải Phịng, Thái Bình và
Hưng n.
Trong số những tỉnh nằm ở trung tâm của đồng bằng châu thổ Sông
Hồng, Hải Dương là “phên dậu” của kinh thành Thăng Long xưa, Hà Nội
ngày nay. Hải Dương nằm trên nhiều tuyến đường giao thông quan trọng như
Quốc lộ 5 nối liền hai trung tâm kinh tế quan trọng của miền Bắc là Thành
phố Hà Nội và Thành phố Hải Phòng; Quốc lộ 18 từ Hà Nội qua Bắc Ninh,
Hải Dương đến vùng than và Cảng Cái Lân; Quốc lộ 37, Quốc lộ 38; Quốc lộ
10. Ngồi ra, Tỉnh cịn có hệ thồng đường bộ nội tỉnh với 14 tuyến tiêu chuẩn
cấp 3 đồng bằng với chiều dài trên 347km đường tỉnh, 392,589 km đường
huyện và 1386,15km đường xã đảm bảo cho giao thông thuận lợi; hệ thống
đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với Quốc lộ 5, vận chuyển
hàng hóa, hành khách qua 7 ga trong Tỉnh, tuyến Kép - Bãi Cháy chạy qua
Chí Linh là tuyến vận chuyển hàng lâm, nơng sản ở các tỉnh miền núi phía
Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân cũng như hàng nhập khẩu và than cho
các tỉnh trong cả nước; giao thông đường thủy gồm 16 tuyến chính với các
sơng nhỏ dài 400km, các loại tàu thuyền trọng tải 500 tấn có thể qua lại. Hệ
thống giao thông trên là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế từ trong
Tỉnh đi cả nước và nước ngoài thuận lợi. Là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng
9
điểm Bắc bộ, Hải Dương có cơ hội tham gia vào phân cơng lao động trên
phạm vi tồn vùng và xuất khẩu.
Diện tích tự nhiên của Tỉnh là 1.662 km2, được chia làm hai vùng: vùng
đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc của Tỉnh, chiếm
11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện
Kinh Mơn; là vùng đồi núi thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây công
nghiệp ngắn ngày, cây lấy gỗ. Vùng đồng bằng cịn lại chiếm 89% diện tích
tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp sản xuất
hàng hóa lớn. Đất đai tương đối bằng phẳng, màu mỡ chủ yếu là đất phù sa
sơng Thái Bình, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với hệ thống cây trồng đa
dạng bao gồm các cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả đặc biệt là cây trồng
vụ đông. Mạng lưới sơng ngịi lớn nhất so với các tỉnh trong Đồng bằng sơng
Hồng có khả năng bồi đắp phù sa cho đồng bằng của Tỉnh. Bên cạnh ngành
trồng trọt, Hải Dương cịn là tỉnh có điệu kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi
với đàn gia súc phong phú như: trâu, bị, dê, lợn... Cùng với hệ thống sơng ngịi
dày đặc nên nghề ni cá nước ngọt đang ngày càng phát triển.
Hải Dương có nhiều loại khống sản trong đó có nhiều khống sản với
trữ lượng khá cho phát triển các ngành công ngiệp như đá vôi xi măng với trữ
lượng 200 triệu tấn cho phép sản xuất 4 đến 5 triệu tấn xi măng một năm; cao
lanh với trữ lượng 400.000 tấn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất đồ sứ; đất
sét chịu lửa; bơ xít với trữ lượng 200.000 tấn.
Ngành công nghiệp của Tỉnh đang trên đà phát triển với tốc độ nhanh,
có nhiều nhà máy nổi tiếng toàn quốc như: Nhà máy sứ Hải Dương, nhà máy
chế tạo đá mài, nhà máy chế tạo bơm... có những nhà máy hiện đại như xi
măng Hoàng Thạch, nhiệt điện Phả Lại, chế tạo ô tô FORD...
Bên cạnh những tiềm năng cơng nghiệp và nơng nghiệp, Hải Dương
cịn có tiềm năng to lớn để phát triển ngành du lịch, dịch vụ. Tồn tỉnh có
1.097 di tích lịch sử trong đó có 97 di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Tiêu
10
biểu là khu di tích thắng cảnh Cơn Sơn - Kiếp Bạc; đền thờ Chu Văn An, Văn
miếu Mao Điền...
Hải Dương là tỉnh có dân số đơng. Theo điều tra dân số năm 2008, Hải
Dương có 1.723.319 người với mật độ 1.044,26 người/km2. Trong đó dân số
nơng thơn chiếm 86%, dân số thành thị là 14%. Trên địa bàn Tỉnh có 10 dân
tộc, đơng nhất là dân tộc Kinh có 1.646.426 người, chiếm 95,54%; các dân
tộc thiểu số như dân tộc Sán Dìu có 1.516 người, chiếm 0,09%; dân tộc Tày
có 469 người, chiếm 0,028%; dân tộc Nùng có 75 người, chiếm 0,0045%; dân
tộc Thái có 65 người, chiếm 0,0039%; dân tộc Mơng có 17 người, chiếm
0,001%; dân tộc Dao có 27 người, chiếm 0,0016%; dân tộc Thổ có 21 người,
chiếm 0,0012% và các dân tộc khác chiếm 0,213%.
Về trình độ dân trí: Tính đến năm 2002 đã phổ cập giáo dục tiểu học
cho 12 huyện, thành phố với tổng số 263 xã, phường, thị trấn; số người biết
chữ đạt 95%. Số học sinh phổ thông năm học 2001 - 2002 có 372.880 em; số
giáo viên 17.000 người. Số thầy thuốc có 1.618 người, bình qn y, bác sĩ
trên 1 vạn dân là 9,8 người.
Về lực lượng công nhân: theo số liệu thống kê của Sở Lao động
Thương binh và Xã hội, đầu năm 1997 tồn Tỉnh có 34.200 cơng nhân lao
động. Trong đó, cơng nhân lao động trong các doanh nghiệp nhà nước là
26.000 người và đang có xu hướng giảm dần. Cơng nhân làm việc trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.600 người. Cơ cấu tuổi công
nhân lao động là: từ 18 - 30 chiếm 22,8%; từ 31 - 40 chiếm 23,8%; từ 57 - 60
chiếm 9,4%. Phần lớn cơng nhân có trình độ học vấn phổ thông trung học
(75%) và được đào tạo nghề (trên 90%).
Về lao động nơng nghiệp: Năm 1997, tồn tỉnh có 1.422.131 nơng dân.
Trình độ học vấn của nơng dân: Tiểu học chiếm 5,6%; THCS chiếm 68,8%;
THPT chiếm 25,6%. Số nông dân được tập huấn KHKT nông nghiệp là 7,2%.
11
Với dân số đó, Hải Dương có nguồn lao động dồi dào để phát triển
KTXH đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài vào những ngành kinh tế cần lợi
thế lao động.
Hải Dương nổi tiếng là vùng quê văn hiến có truyền thống lịch sử và
cách mạng vẻ vang, rất giàu tiềm năng đã và đang vươn lên mạnh mẽ, hòa
nhịp cùng với sự thay đổi của đất nước. Nơi đây từ lâu đã được xem là vùng
“Đất danh nhân”, vùng “địa linh” đã sinh thành, nuôi dưỡng và quy tụ nhiều
“nhân kiệt”, những anh hùng, những danh nhân tiêu biểu cho truyền thống
văn hóa lịch sử của dân tộc qua các thời đại như Thiện Nhân, Thiện Khánh,
Khúc Thừa Dụ, Chu Văn An, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Trần Khắc Chung,
Ngơ Bệ, Nguyễn Hữu cầu, Đốc Tít, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng...
Hải Dương còn là đất học, đất khoa bảng. Đây là vùng đất đứng đầu về
tiến sĩ nho học của cả nước với 472 người trong đó có 11 trạng nguyên. Trong
gần 1000 năm đào tạo và tuyển chọn nhân tài từ khoa thi đầu tiên đến khoa thi
cuối cùng (1075 - 1919) của giáo dục Nho học, Việt Nam có khoảng 3000
tiến sĩ và học vị tương đương. Xét trên địa bàn Hải Dương, số tiến sĩ chiếm
17% cả nước. Làng Mộ Trạch (Bình Giang) được mệnh danh là “làng tiến sĩ”
với 39 tiến sĩ dưới các triều đại phong kiến Việt Nam. Văn miếu Mao Điền là
một minh chứng cho truyền thống hiếu học của người dân Xứ Đông. Nhiều
tiến sĩ nho học của Hải Dương là những tác giả nổi tiếng để lại cho ngày nay
hàng trăm những tác phẩm có giá trị trên các lĩnh vực như chính trị, quân sự,
khoa học, văn hóa, ngoại giao như Tuệ Tĩnh, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh,
Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Vũ Hữu, Nguyễn Dữ... Hải Dương cũng là
quê hương của nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử của Việt Nam - tiến sĩ Nguyễn
Thị Duệ. Truyền thống hiếu học là hành trang, là niềm tự hào, là cội nguồn
tạo nên sức sống mãnh liệt, sức bật mạnh mẽ của mảnh đất này để không
ngừng nâng cao chất lượng NNL, xây dựng đất nước hôm nay.
Những con người của Hải Dương luôn tự hào về những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của mảnh đất “địa linh, nhân kiệt”, nơi “ánh mặt trời tỏa
12
sáng miền duyên hải” và nỗ lực không ngừng, khẳng định vị thế bằng những
“bước chân Thánh Gióng” [77, tr.146] trong cơng cuộc xây dựng và phát
triển KTXH.
Truyền thống đó đã được phát huy mạnh mẽ khi Đảng ra đời lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến giành độc lập cho dân tộc và tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Đảng bộ tỉnh Hải Dương tự hào là một Đảng bộ ra
đời khá sớm. Liền sau đó, Đảng bộ Hải Dương đã lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành nhiều chiến công hiển hách trong việc giành và giữ chính quyền,
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những tấm
gương như Mạc Thị Bưởi, cô gái Lai Vu... đã đi vào lịch sử dân tộc như một
biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, góp phần vào thắng
lợi chung của cả dân tộc.
Thời kì đổi mới, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã nhận thức rõ đặc điểm
KTXH, những thuận lợi và những khó khăn của Tỉnh để trên cơ sở đó vận
dụng năng động, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ
thể của địa phương nhằm phát huy các nguồn lực nhất là nguồn lực con người
tạo nhân tố tích cực cho xây dựng, phát triển KTXH.
Sau hơn 10 năm tiến hành đổi mới đến ngày tái lập, KTXH của Tỉnh đã
đi vào ổn định và từng bước phát triển, cơ sở hạ tầng được đầu tư tốt hơn; đời
sống nhân dân được cải thiện, nâng cao; văn hóa, giáo dục được quan tâm,
chăm lo và đạt những tiến bộ đáng kể.
Vận dụng và quán triệt chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kì thực hiện CNH, HĐH đất nước, Đảng bộ tỉnh Hải Dương
ngay từ khi được tái lập đã luôn quan tâm lãnh đạo sâu sát sự nghiệp chăm lo
đời sống cho nhân dân, phát triển KTXH. Để có những bước chuyển vững
chắc hơn, Đảng bộ Tỉnh đã tiến hành Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ
XII (tháng 11 năm 1997) và đề ra nhiệm vụ phát triển KTXH trong 3 năm từ
1998 đến 2000: “Đẩy mạnh CNH, HĐH đưa Hải Dương hội nhập vào các
tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; thực hiện bằng được mục tiêu dân
13
giàu, tỉnh mạnh, xã hội công bằng, văn minh” [62, tr.3]. Vượt qua những khó
khăn, thách thức ban đầu sau ngày tái lập, được sự quan tâm và lãnh đạo của
Trung ương Đảng, sự giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là dưới
sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương, nền kimh tế xã hội của Tỉnh sau gần
một năm tái lập thực sự có những chuyển biến rõ rệt và thu được nhiều kết
quả đáng ghi nhận: Nhìn tổng quát nền kinh tế Hải Dương phát triển với nhịp
độ cao gắn với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng thu nhập dân cư.
So với năm 1996, tổng sản phẩm GDP tăng 12,5%; sản xuất nông, lâm nghiệp
tăng 6,5%; công nghiệp, xây dựng tăng 12%; cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp
- công nghiệp, xây dựng - dịch vụ tiếp tục chuyển dịch hợp lí 36% - 34% 30% [62, tr.26].
Về sản xuất nơng nghiệp: phát triển tương đối tồn diện, trồng trọt tăng
6,3%; chăn nuôi tăng 6,8%. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế
nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.
Về sản xuất cơng nghiệp: có tốc độ tăng cao, khu vực công nghiệp
Trung ương tăng 15,6%; quốc doanh địa phương tăng 17,45%; ngoài quốc
doanh tăng 110%.
Về thương nghiệp, dịch vụ: tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội
tăng 15%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 1997 tăng 28% so với năm 1996.
Sự ổn định và từng bước phát triển về kinh tế đã tác động không nhỏ về
mặt xã hội. Các lĩnh vực như văn hóa, giáo dục cũng có những chuyển biến
tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, sự nghiệp giáo dục phát
triển cả về chất lượng chuyên môn cũng như cơ sở vật chất, các chương trình
chăm sóc sức khỏe cộng đồng được triển khai có hiệu quả, cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình có nhiều tiến bộ. Đồng thời cũng đòi hỏi một lực lượng
lao động không ngừng phát triển về chất lượng và hợp lí về số lượng để đáp
ứng cho nhu cầu phát triển của Tỉnh.
14
1.1.2. Thực trạng nguồn nhân lực tỉnh Hải Dương
Khái niệm nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội
bao gồm tồn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (khơng bị khiếm
khuyết hoặc dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn bao
gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những
con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể
chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này
NNL bao gồm những người bắt đầu bước vào độ tuổi lao động trở lên có tham
gia vào nền sản xuất xã hội...
Như vậy, NNL được hiểu một cách khái quát là tổng thể những lực
lượng, các tiềm năng, yếu tố đã, đang và sẽ tạo nên sức mạnh, chất lượng lao
động của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.
NNL được xem xét trên cả hai phương diện số lượng và chất lượng.
Về mặt số lượng: số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy
mô và tốc độ tăng NNL. Ở nước ta, số lượng người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động và những người trên độ tuổi lao động đang tham gia hoạt
động kinh tế và cả những lực lượng đang được chuẩn bị để sẵn sàng tham gia
vào quá trình này.
Về mặt chất lượng: Là trạng thái nhất định của NNL thể hiện mối quan
hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của NNL. Chất lượng
NNL không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế mà cịn là
chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội. Chất lượng NNL
được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Thứ nhất, chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của dân cư: Sức khỏe là
trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần xã hội. Sức khỏe là tổng hòa nhiều
15
yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Bộ y tế
quy định ba loại đó là: thể lực tốt (khơng có bệnh tật gì); trung bình và yếu
(khơng có khả năng lao động).
Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khỏe của người lao động người ta
còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá sức khỏe của quốc gia thông qua: tỷ lệ sinh
thô, chết thô, tỷ lệ tăng tự nhiên; tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 1 tuổi và dưới 5
tuổi; tỷ lệ sinh thấp cân của trẻ em; tỷ lệ dừng mức sinh; tuổi thọ trung bình;
cơ cấu giới tính, tuổi tác...
Thứ hai, chỉ tiêu biểu hiện trình độ học vấn của người lao động: là sự
hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông tự nhiên và
xã hội. Trình độ học vấn được biểu hiện thông qua các tỷ lệ như: số lượng
người biết chữ và chưa biết chữ; số người có trình độ tiểu học; số người có
trình độ THCS; số người có trình độ THPT; số người có trình độ đại học và
trên đại học...
Thứ ba, chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao
động: là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chun mơn nào đó, biểu hiện
trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lí một cơng việc thuộc một
chun mơn nhất định. Trình độ chun mơn của NNL được đo bằng: tỷ lệ
cán bộ trung cấp; tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học; tỷ lệ cán bộ trên đại học...
Thứ tư, chỉ số phát triển con người. Chỉ số này được tính bởi ba chỉ tiêu
chủ yếu là tuổi thọ bình quân; thu nhập bình quân đầu người (GDP/người);
trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư).
Ngồi những chỉ tiêu có thể lượng hóa được người ta còn xem xét chỉ
tiêu năng lực phẩm chất của người lao động như truyền thống dân tộc bảo vệ
tổ quốc; truyền thống văn hóa, văn minh dân tộc; phong tục tập quán, lối
sống; ý thức nghề nghiệp...
Trước đây NNL thường được hiểu một cách đơn giản, đó chỉ là sức
người với sự kết hợp giữa thể lực và trí lực của họ. Trong điều kiện kinh tế thị
16
trường hiện nay, cùng với thể lực và trí lực, những giá trị chuẩn mực đạo đức,
sự hoàn thiện về nhân cách và phẩm chất tốt đẹp của con người là những yếu
tố không thể thiếu tạo nên chất lượng NNL.
NNL được chia thành: NNL sẵn có, NNL tham gia vào hoạt động kinh
tế và NNL dự trữ. Trong đó:
NNL sẵn có trong dân cư: gồm tất cả những người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động, khơng kể đến trạng thái có hay khơng tham gia
hoạt động kinh tế. Những người trong độ tuổi lao động ở Việt Nam là từ đủ
15 đến 60 đối với nam và từ đủ 15 đến 55 đối với nữ.
NNL tham gia vào hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động:
bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có cơng ăn việc làm, đang
hoạt động trong các ngành kinh tế quốc dân và những người đang khơng có
việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm và sẵn sàng làm việc.
NNL dự trữ: chênh lệch giữa NNL sẵn có trong dân cư và NNL tham gia
hoạt động kinh tế là NNL dự trữ như những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân
sự, những người đi học, làm nội trợ, những người chưa có nhu cầu làm việc.
Phát triển NNL: là sự biến đổi về số lượng và chất lượng NNL biểu
hiện thông qua các mặt như cơ cấu, thể lực, kĩ năng, kiến thức và tinh thần
cần thiết nhờ vậy mà phát triển được năng lực của họ, ổn định được công ăn
việc làm, nâng cao địa vị kinh tế và xã hội của họ và đóng góp cho sự phát
triển của xã hội.
Phát triển NNL ở tầm vĩ mô được hiểu là các hoạt động nhằm tạo ra
NNL có khả năng đáp ứng được nhu cầu phát triển KTXH trong mỗi giai
đoạn phát triển cả về quy mô, cơ cấu, số lượng và chất lượng.
Thực chất của phát triển NNL là quá trình phát triển về số lượng và
nâng cao chất lượng NNL nhằm tạo ra quy mô và cơ cấu ngày càng phù hợp
với nhu cầu về nhân lực, phục vụ sự nghiệp phát triển KTXH. Do vậy, phát
triển NNL bao gồm tất cả các lĩnh vực từ nâng cao chất lượng dân số, giáo
17
dục đào tạo, đảm bảo sức khỏe tới dạy nghề, tạo việc làm, quản lí và sử dụng
có hiệu quả nhân lực.
Như vậy, phát triển NNL là quá trình biến đổi của NNL nhằm phát huy,
khơi dậy những tiềm năng con người; là phát triển toàn bộ nhân cách và từng
bộ phận trong cấu trúc nhân cách; phát triển cả năng lực vật chất và tinh thần;
tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức và tay nghề, cả tâm
hồn và hành vi từ trình độ, chất lượng này lên trình độ, chất lượng khác cao
hơn, toàn diện hơn. Phát triển NNL bao gồm những nội dung: phát triển quy
mơ và cơ cấu dân số thích hợp; đào tạo, nâng cao chất lượng NNL; quản lí và
sử dụng có hiệu quả NNL.
Thực trạng NNL tỉnh Hải Dương khi tái lập tỉnh
- Về quy mô và tốc độ tăng NNL: số lượng nhân lực là một điều kiện
thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói chung và Hải Dương nói
riêng. Hải Dương là một trong những tỉnh có lực lượng lao động khá dồi dào,
hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Năm 1995, dân số của Tỉnh là 1.677.398 người, năm 1996 dân số tăng
lên là 1.692.105 người với mật độ gần 1000 người/km2. Trong cả nước, Hải
Dương là tỉnh có mức độ tăng dân số tự nhiên ở mức trung bình 1,5% (1995)
và 1,34% (1996). Với điều kiện đó, hàng năm Hải Dương có một số lượng lớn
người đến độ tuổi lao động. Nếu như năm 1995, Tỉnh có 850.790 lao động thì
đến 1996, số lao động đã là 863.691 người, chiếm 54,6% dân số trong Tỉnh.
Số người có nhu cầu làm việc tăng khoảng 2% mỗi năm. Tỷ lệ này tương
tương với mức bình quân chung của cả nước. Trung bình một năm Tỉnh được
bổ sung trên 10 nghìn lao động. Ngoài ra phải kể đến những người ngoài độ
tuổi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên. Như vậy, số lượng lao
động của Hải Dương khá dồi dào. Đây là một trong những nhân tố thuận lợi
nếu Tỉnh biết sử dụng một cách hợp lí, triệt để và có hiệu quả. Ngược lại, nếu
khơng giải quyết tốt số lượng lao động dồi dào này thì đây là một nhân tố kìm
hãm quá trình phát triển của Tỉnh.
18
- Thực trạng chất lượng NNL:
Hiện tại chưa có một cuộc điều tra nào nghiên cứu mang tính tồn diện
về chất lượng NNL của Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng.
Tuy nhiên khi nhìn nhận chất lượng NNL chúng ta thường tập trung vào một
số những yếu tố như sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chun mơn kĩ
thuật...
Hải Dương có đến 86,7% dân số sống ở khu vực nông thôn vào năm
1995 và đến 1996, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 86% với phương thức
lao động thủ công truyền thống, phân tán và thiếu công cụ, cấu trúc hạ tầng
kém phát triển, cơ cấu kinh tế thuần nông là chủ yếu, đời sống vật chất tinh
thần cịn thấp. Phần lớn lao động nơng thơn làm việc theo kinh nghiệm, lực
lượng lao động nông thôn có trình độ chun mơn kĩ thuật rất thấp với
khoảng gần 3% lao động có trình độ từ sơ cấp học nghề trở lên.
Thực trạng sức khỏe của lao động cũng nằm trong xu thế chung của cả
nước do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như di truyền, điều kiện sống chưa tốt
cùng với sự thiếu hụt những kiến thức về chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức
khỏe... là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về thể lực cũng
như tầm vóc người lao động so với nhiều nước trên thế giới. Theo kết quả
điều tra của Viện Dinh dưỡng Bộ Y tế, năm 1995, chiều cao trung bình của
học sinh nam 15 tuổi ở nước ta là 147cm, cân nặng là 34,4kg thấp hơn học
sinh nam Thái Lan tương ứng là 2cm và 6kg; thấp hơn học sinh nam Nhật
Bản là 9cm chiều cao và gần 9kg cân nặng. Thực trạng sức khỏe của lao động
tỉnh Hải Dương với lao động cả nước về chiều cao, cân nặng, dinh dưỡng... ở
mức độ trung bình, thấp hơn một số đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phịng nhưng lại cao hơn các tỉnh trung du miền núi phía Bắc
và ngang bằng với một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động Hải Dương là khá cao và có
những chuyển biến tích cực. Lực lượng lao động biết chữ tăng từ 92,5% (năm
1989) lên 96,4% (năm 1996) trong khi tỷ lệ tương ứng của cả nước là 91,3%
19
và 94,9%. Tỷ lệ đến trường cao, chỉ có 6,2% lực lượng lao động chưa bao giờ
đến trường. Cơ cấu NNL phân theo bậc học cũng có những điểm tích cực. Tỷ
lệ tốt nghiệp tốt nghiệp tiểu học và THCS là 81,84%, đã tốt nghiệp THPT là
13,87%. Tuy vậy, trình độ học vấn của lực lượng lao động chưa thể đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
So sánh giữa các huyện trong Tỉnh, trình độ học vấn của lực lượng lao
động có sự khác nhau. Lực lượng lao động tốt nghiệp THCS và THPT cao
nhất ở thành phố Hải Dương, Chí Linh, Kim Thành, Nam Sách và thấp hơn ở
các huyện còn lại.
Phân bố lao động trong các ngành kinh tế có sự khác biệt khá lớn.
Trong đó, lao động tập trung trong ngành nơng, lâm nghiệp chiếm tỷ lệ lớn.
Bảng 1.1: Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế
Đơn vị: người
Năm
Tổng số
1995
1996
1997
850.790
863.691
878.541
590.994
600.168
620.808
Thủy sản
3448
3204
3303
CN khai thác
210
212
207
CN chế biến
12.498
13.009
13.623
CN sản xuất & phân phối điện, nước
2625
2711
2928
Xây dựng
8622
8198
7543
Thương nghiệp, sửa chữa
3386
3304
4388
Khách sạn, nhà hàng
295
298
336
Vận tải, TTLL
1903
1875
1853
Tài chính, tín dụng
749
764
870
Hoạt động KH&CN
34
34
41
Hoạt động kinh doanh- dịch vụ tư vấn
83
79
95
3007
3044
3439
18.638
18.826
19.057
Y tế- lao động cứu trợ xã hội
2933
3023
3429
Hoạt động văn hóa- thể thao
266
267
277
...
...
...
Nơng, lâm nghiệp
Quản lí nhà nước- ANQP
Giáo dục- đào tạo
...
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 1997, Nxb Thống kê.
20
Về trình độ chun mơn kĩ thuật, lực lượng lao động có chun mơn kĩ
thuật của Tỉnh đạt mức độ khá cao so với cả nước với khoảng trên 13% năm
1997 trong khi tỷ lệ trung bình của cả nước đạt 12,29%. Tuy vậy cũng giống
như thực trạng chung của cả nước, cơ cấu giữa các loại lao động có chun
mơn kĩ thuật biến động theo hướng bất hợp lí. Tỷ lệ công nhân kĩ thuật - trung
học chuyên nghiệp - đại học, cao đẳng là 4 - 1,1 - 1, 3. Với tỷ lệ đó, Hải
Dương thiếu nghiêm trọng lực lượng công nhân lành nghề đặc biệt là công
nhân có trình độ tay nghề cao đáp ứng nhu cầu các ngành công nghiệp chế
tạo. Khoảng cách chênh lệch giữa các khu vực về tỷ trọng lực lượng lao động
có trình độ chun mơn kĩ thuật cũng khá lớn. Khu vực tập trung đông đảo
nhất là thành phố Hải Dương, Kinh Môn; tỷ lệ thấp ở các huyện như Ninh
Giang, Tứ Kỳ. Xu hướng tập trung những người lao động có trình độ chun
mơn kĩ thuật cao ở Thành phố Hải Dương và những huyện tập trung nhiều
trung tâm công nghiệp ngày càng ra tăng. Lực lượng lao động của Tỉnh chủ
yếu tập trung trong ngành nông, lâm nghiệp. Các ngành kinh tế địi hỏi trình
độ kĩ thuật cao chiếm số lượng lao động rất ít.
Trong q trình đẩy mạnh CNH, HĐH lực lượng lao động của Tỉnh còn
chưa đáp ứng được nhu cầu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo cịn thấp, nhất là ở
khu vực nơng thơn chỉ mới đạt 3,7% tổng số lao động .
Về thực trạng việc làm: lao động hoạt động ngoài khu vực Nhà nước là
94% nhưng tỷ lệ đó có sự khác nhau. Ở khu vực nơng thơn, lao động ngồi
khu vực Nhà nước là 96% còn ở thành thị là 72%.
Như vậy, dân số của tỉnh Hải Dương chủ yếu sống ở vùng nông thôn,
lao động chủ yếu là lao động nông - lâm nghiệp. Hải Dương có nguồn lao
động phong phú, dồi dào là một tiềm năng lớn cho phát triển các ngành kinh
tế của Tỉnh đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Tuy nhiên, có thể
thấy rằng năng suất lao động nhất là trong nơng nghiệp cịn thấp, trình độ tay
nghề lao động cịn kém, lao động chưa qua đào tạo khơng có trình độ chun
21
mơn kĩ thuật cịn chiếm tỷ trọng cao. Do đó, nâng cao chất lượng NNL đảm
bảo cho sự phát triển trong những năm đầu tái lập tỉnh trở thành vấn đề gay
gắt, nổi cộm được Đảng bộ tỉnh Hải Dương quan tâm chỉ đạo.
1.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dƣơng vận dụng chủ trƣơng của Trung ƣơng
Đảng lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực trong những năm 1997- 2000
1.2.1. Chủ trương của phát triển nguồn nhân lực của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Phát triển NNL là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của tất cả các quốc gia, các dân tộc. Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng quốc
gia nào quan tâm, chăm lo phát triển, sử dụng hợp lí và có hiệu quả NNL thì
tất sẽ dẫn đến thành cơng.
Trong q trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng
và Nhà nước luôn nhận thức và khẳng định tầm quan trọng của vấn đề phát
triển NNL trong mọi giai đoạn lịch sử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng đã ln nhắc
nhở, căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người” [38, tr.56] và “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần có con người xã hội chủ nghĩa” [38, tr.222]. Khi đề cập đến con người
với tư cách là “vốn quý nhất”, là lực lượng xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, Người khơng chỉ nói đến trí tuệ, tài năng, sức khỏe của con người mà cịn
nói đến nhiều yếu tố khác trong đó có những giá trị xã hội được kết tinh trong
bản thân từng người thông qua hoạt động thực tiễn và cải tạo xã hội. Với quan
điểm về sự phát triển con người toàn diện, trong suốt những năm tháng lãnh
đạo cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc giáo dục và thường xuyên nâng cao
trình độ văn hóa, khoa học, kĩ thuật cho mọi người đồng thời ra sức nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
22
Quán triệt quan điểm đó của Đảng và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta một lần nữa khẳng định chủ trương “phát huy nhân tố
con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo
lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” [16, tr.13].
Đặc biệt từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII với đường lối tiến
hành CNH, HĐH đất nước thì vai trị của phát triển NNL lại càng được nhấn
mạnh, Đảng đã khẳng định CNH, HĐH là một cuộc cách mạng toàn diện và
sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cách mạng con người, vì
con người và do con người bởi khi nói về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
chúng ta phải khẳng định “những ưu việt ấy không ai đưa đến cho chúng ta,
cũng khơng thể tự nhiên mà có. Đó là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và
bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về trí lực và thể
lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức,
tình cảm trong sáng” [17, tr.5-6].
Vì vậy, để đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và đưa sự nghiệp cách mạng thành cơng ở một nước vẫn cịn
trong tình trạng lạc hậu như nước ta, chúng ta khơng thể khơng phát triển con
người. Đó là động lực mạnh mẽ nhất. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của công cuộc CNH, HĐH” [20, tr.21].
Chăm lo, phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong
chiến lược phát triển đất nước được đề cập đến trong Báo cáo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại Đại hội VIII, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến các
phương hướng phát triển trí tuệ, thể chất của con người Việt Nam.
23
Từ năm 1996, Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết về phương hướng,
mục tiêu, điều kiện và giải pháp thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan trực tiếp
đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII thể hiện rõ quan điểm của Đảng về vấn đề phát triển
NNL, tựu trung lại là: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [20, tr.85]; phát triển nguồn lực
con người một cách tồn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ...; phát
triển NNL phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã
hội bằng nhiều biện pháp trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt; mọi kế
hoạch xây dựng và phát triển KTXH phải được đặt trong mối quan hệ không
thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ,
tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng
đồng Việt Nam, cho xây dựng và phát triển NNL nhiều về số lượng, mạnh về
chất lượng.
Những quan điểm, chủ trương trên của Đảng đã được cụ thể hóa bằng
các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5
năm nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng NNL, đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng đất nước.
1.2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực của Đảng
bộ tỉnh Hải Dương
Chủ trương và biện pháp phát triển nguồn nhân lực của Đảng bộ
tỉnh Hải Dương
Tháng 1 năm 1997 tỉnh Hải Dương được tái lập sau 29 năm hợp nhất.
Đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng đối với Đảng bộ, quân và dân
tỉnh Hải Dương. Cùng với việc kiện toàn bộ máy tổ chức các cơ quan Đảng,
đoàn thể, cơ quan quản lí nhà nước, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã sắp xếp, tổ
chức lại hệ thống tổ chức Đảng cho phù hợp với bộ máy tổ chức mới và tăng
24