ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------
CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – EURÉKA
LẦN THỨ 11 NĂM 2009
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN CỦA LAURENT GAUDÉ TRONG TIỂU
THUYẾT “MẶT TRỜI NHÀ SCORTA”
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: XÃ HỘI
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC
Mã số cơng trình : …………………………….
MỤC LỤC
TĨM TẮT CƠNG TRÌNH ............................................................................1
MỞ ĐẦU.........................................................................................................3
CHƯƠNG 1 ....................................................................................................9
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU.....................9
1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện..........................................................9
1.2. Nghệ thuật kết cấu............................................................................. 19
CHƯƠNG 2 : NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT .......................................... 33
2.1. Người kể chuyện ................................................................................ 33
2.2. Phương thức kể chuyện..................................................................... 39
CHƯƠNG 3 .................................................................................................. 48
TỪ NHÂN VẬT VÀ BIỂU TƯỢNG ĐẾN BỨC THÔNG ĐIỆP PHI THỜI
....................................................................................................................... 48
3.1. Từ nhân vật........................................................................................ 48
3.2. Và biểu tượng..................................................................................... 54
3.3. Đến bức thông điệp phi thời.............................................................. 59
KẾT LUẬN................................................................................................... 63
THƯ MỤC THAM KHẢO .......................................................................... 65
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 67
TĨM TẮT CƠNG TRÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU: trình bày tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài, tình
hình nghiên cứu đề tài trong và ngồi nước, mục đích và nhiệm vụ của đề tài,
cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu, giới hạn của đề tài, đóng góp mới
của đề tài, ý nghĩa lý luận - thực tiễn và bố cục của đề tài.
CHƯƠNG 1:NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN VÀ KẾT
CẤU
L. Gaudé đã xây dựng một cốt truyện xâu chuỗi, không chỉ là xâu chuỗi
các sự kiện trong quan hệ nhân quả mà còn là xâu chuỗi nhiều cốt truyện nhỏ
trong một cốt truyện lớn. Tác phẩm là một tiểu thuyết tồn vẹn nhưng cũng có
thể coi là một tuyển tập truyện ngắn hoàn chỉnh. Chúng song hành cùng nhau
như những cá thể riêng biệt mà nếu đặt cạnh nhau theo một trật tự nhất định, sẽ
trở thành một chỉnh thể thống nhất. Đồng thời, trong chỉnh thể ấy nhà văn đã
thực hiện những thao tác cắt ghép của điện ảnh, tạo nên hiện tượng phân rã cốt
truyện đầy ngẫu hứng. Và cuối cùng, kiểu kết thúc lưỡng phân trong tác phẩm
cũng trở thành một tín hiệu nghệ thuật với tư cách là một yếu tố của nghệ thuật
xây dựng cốt truyện
Về mặt kết cấu, có thể nói đây là thành công của tác giả trong việc lôi kéo
người đọc vào thế giới muôn màu của chuyện kể. Một kết cấu phức hợp, hòa
trộn giữa nhiều kiểu kết cấu (kết cấu truyện trong truyện, kết cấu lặp và kết cấu
xoắn kép) chỉ mới là một cách tiếp cận về kết cấu của Mặt trời nhà Scorta. Ở
góc độ khác, góc độ thời gian, tác phẩm được xây dựng theo kết cấu đồng hiện.
Cịn khi nhìn dưới con mắt không gian, thiên truyện lại phân tầng với không
gian điềm báo và không gian tương phản giữa một bên là Montepuccio nghèo
khó với bên kia là New York hoa lệ nhưng xa xôi.
1
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
Nói đến nghệ thuật kể chuyện của một tác phẩm tự sự không thể không kể
đến nghệ thuật trần thuật. Ở đây, sự hài hòa giữa hai ngôi trần thuật – ngôi ba
và ngôi nhất – làm cho câu chuyện vừa có vẻ thẳng băng lạnh lùng vừa thấm
đẫm trữ tình trong một giai điệu miên man bất tận. L. Gaudé đã liên tục di
chuyển điểm nhìn giữa các nhân vật, đồng thời cũng thay đổi không ngừng
cách thức kể chuyện - cái cách mà nhân vật đối thoại với nhau và với độc giả
chúng ta. Tiểu thuyết khơng có dày đặc những lời thoại, nhưng mỗi lời thoại –
bao gồm tất cả các hình thức phong phú của nó: độc thoại, đối thoại đơn và độc
thoại nội tâm – đều mang lại một hiệu ứng rõ rệt làm dệt nên khơng khí bi
thương như thể thơi miên đó.
CHƯƠNG 3: TỪ NHÂN VẬT VÀ BIỂU TƯỢNG ĐẾN BỨC
THÔNG ĐIỆP PHI THỜI
Từ những nhân vật gân guốc, đẹp theo cách riêng của vùng đất khô cằn
đầy sỏi đá cháy lên dưới mặt trời; từ thế giới biểu tượng đầy màu sắc trong tác
phẩm, ta đọc được bức thông điệp về cuộc sống và con người mà tác giả đã dày
cơng mã hóa bằng kí hiệu ngơn từ. Đó là bài ca về đất Mẹ, về tình yêu và sự
sống đang từng ngày đấu tranh để chứng minh cho sự tồn tại vĩnh cửu của mình.
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải thưởng Goncourt năm 2004 đã được trao cho Laurent Gaudé với
tác phẩm Mặt trời nhà Scorta (The sun of Scorta). Laurent Gaudé đã vượt qua
Alain Jaubert với Thung lũng thiên đường ( Paradise Valley) và tác giả của
Những kẻ nói dối (Liars) – Marc Lambron để giành giải thưởng văn chương
danh giá nhất của Pháp này.
Laurent Gaudé sinh ngày 6 tháng 7 năm 1972 tại Paris. Học văn học
hiện đại nhưng niềm say mê lớn của ơng lại là kịch. Ơng từng làm luận án tiến
sỹ về kịch, sau đó viết kịch một thời gian dài rồi mới chuyển sang tiểu thuyết.
Tuy còn trẻ tuổi nhưng Lauren Gaudé đã đạt được hai giải Goncourt cho Mặt
trời nhà Scorta và Cái chết của vua Tsongor. Người vợ Ý của ông là một trong
những nguồn cảm hứng để ông viết Mặt trời nhà Scorta, cuốn tiểu thuyết lấy
bối cảnh tại một vùng đất rực lửa mặt trời thuộc Ý.
Cuốn sách kể về dòng họ Scorta, một gia đình nghèo bậc nhất ở cái làng
xó xỉnh miền Nam nước Ý, trải qua năm thế hệ từ những năm 1870 cho đến
hiện tại, đã nhận được những luồng ý kiến khác nhau từ các nhà phê bình – kẻ
khen, người chê. Bất chấp điều đó, cuốn sách vẫn trở thành một hiện tượng trên
văn đàn và ngày càng được đón đọc với hơn 80 000 bản đã được bán ra (tính
đến đầu năm 2006).
Những tiếp nhận không đồng nhất về tác phẩm gợi cho chúng tôi sự tị
mị và hứng thú tìm hiểu cái thế giới nghệ thuật mà L. Gaudé đã xây dựng nên.
Tìm hiểu vẻ đẹp của một tác phẩm văn học bao giờ cũng đem lại nhiều cảm
hứng cho người nghiên cứu, hơn nữa đây lại là tác phẩm đã được khẳng định
bởi một giải thưởng uy tín. Mặt khác, chúng tơi hi vọng đề tài sẽ góp một phần
nhỏ bé kết nối văn học Việt Nam với cánh cửa bao la của thế giới bên ngồi,
kêu gọi người đọc tìm đến văn chương trong thời đại mà văn hóa nghe – nhìn
đang ngày càng bành trướng.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu các tác phẩm đạt giải thưởng Goncourt
Khơng ít các tác phẩm được giải Goncourt được dịch và xuất bản ở Việt
Nam cho thấy sự quan tâm của nước ta đến các hoạt động văn học thế giới nói
chung và văn học Pháp nói riêng:
-
Dưới bóng những cơ gái tuổi hoa, Goncourt 1919
-
Người tình, Goncourt 1984
-
Người tình của Bretch, Goncourt 2003
-
Phố những cửa hiệu u tối, Goncourt 1978
-
Những cuộc hôn thú man dại, Goncourt 1985
-
Khói lửa, Goncourt 1916
-
Thiếu nữ đánh cờ vây, Goncourt dành cho giới trẻ 2001
-
Phận người, Goncourt 1933.
…
Trong đó, Laurent Gaudé khơng chỉ nhận giải Goncourt hàng năm cho
tác phẩm Mặt trời nhà Scorta mà trước đó hai năm, ông đã nhận giải Goncort
dành cho giới trẻ với tác phẩm Cái chết của vua Tsongor. Tuy nhiên, với xuất
phát điểm là một kịch tác gia, ông cũng chỉ mới thử sức trong lĩnh vực tiểu
thuyết trong thời gian gần đây và là cây bút trẻ trên văn đàn. Những bài viết về
ông và các tác phẩm của ông hầu hết là các bài điểm sách, cảm nhận trên các
diễn đàn và báo chí. Chưa có một cơng trình nào nghiên cứu tác phẩm của
L.Gaudé một cách chuyên sâu, coi nó như một đối tượng khoa học để mổ xẻ và
phân tích.
2.2 . Tình hình nghiên cứu tự sự học
Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa
rộng nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hoặc nói
cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự nhằm
tìm ra một cách đọc.
4
Tên gọi tự sự học – Narratology, Narratologie, là do nhà nghiên cứu
người Pháp gốc Bungari T.Todorov đề xuất năm 1969, trong sách Ngữ pháp
“Câu chuyện mười ngày”, làm cho ngành nghiên cứu tự sự có được một cái tên
chính thức. Cho đến ngày nay, vấn đề lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm
phổ biến. Từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngơn ngữ học Saussure, trường phái
Praha, trường phái Tân Aristote, triết học phân tích, kí hiệu học, hậu cấu trúc
chủ nghĩa…không trường phái nào là không quan tâm đến vấn đề trần thuật
trong tiểu thuyết.
Từ việc xác định vai trò, ý nghĩa của Tự sự học đối với sự phát triển của
bộ môn nghiên cứu văn học, năm 2001, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội
đã tổ chức Hội thảo Tự sự học lần I với 76 bản tham luận của nhiều nhà nghiên
cứu thuộc nhiều trường đại học và cơ quan nghiên cứu văn học trên cả nước.
Kỷ yếu của Hội thảo lần I (được NXB ĐHSP Hà Nội xuất bản năm 2003
qua cuốn sách Tự sự học – những vấn đề lý thuyết và lịch sử) đã nhận được sự
quan tâm của giới nghiên cứu cùng bạn đọc nói chung. Vì thế có thể coi Hội
thảo lần I là một hoạt động khoa học quan trọng góp phần xây dựng tiền đề cho
sự phát triển của chuyên ngành này ở Việt Nam.
Sau bảy năm, từ sự nảy sinh của một số vấn đề văn học mới, từ nhu cầu
nghiên cứu lý luận - thực tiễn mà Tự sự học đã ngày càng chứng tỏ tính hữu
dụng của nó đối với văn học. Ngày 18-1-2008, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội đã tổ chức Hội thảo Tự sự học lần II. 62 bản tham luận đã được gửi tới
Hội thảo từ các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy văn học, như: Trường ĐHSP Hà
Nội, Viện Văn học, Viện Văn hoá dân gian, Hội Nhà văn Việt Nam, ĐHSP TP
Hồ Chí Minh, ĐHSP Xn Hồ, ĐHSP Huế, ĐHSP Hải Phòng, ĐHSP Thái
Nguyên, Đại học Vinh…Tham gia Hội thảo có nhiều tác giả nghiên cứu văn
học nổi tiếng như GS TS Trần Đình Sử, GS TS Phương Lựu, PGS TS Phạm
Vĩnh Cư, PGS TS Trương Đăng Dung, PGS TS Đặng Anh Đào, GS TS Phan
Đăng Nhật, PGS TS Lã Nhâm Thìn, PGS TS La Khắc Hồ...
Những nghiên cứu về tự sự học trong và ngồi nước đóng vai trò nền
tảng lý luận rất quan trọng cho chúng tơi trong q trình thực hiện đề tài này.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1.Mục đích
- Cung cấp một cái nhìn tồn vẹn về tác phẩm Mặt trời nhà Scorta, khái
quát nội dung và đi sâu tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện của nhà văn trong mối
quan hệ hữu cơ khơng tách rời.
- Là một đóng góp nhỏ trong việc tìm hiểu về văn hố, xã hội nước Ý
qua tác phẩm văn học - vốn còn khá mới mẻ đối với độc giả Việt Nam, so với
một số nước khác như Trung Quốc, Pháp, Mỹ…
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Laurent Gaudé trong tiểu
thuyết Mặt trời nhà Scorta trên nhiều phương diện:
- Đánh giá những điểm mới, những hạn chế (nếu có) trong nghệ thuật kể
chuyện của tác giả.
- Tổng hợp và đánh giá những bình luận về tác giả và tác phẩm của các
nhà phê bình trong và ngoài nước
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1.Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu đề tài chúng tơi dựa trên quan điểm tồn diện, biện
chứng, dựa trên những tài liệu lý luận văn học về nghệ thuật tự sự (tự sự học)
cũng như về tác phẩm văn học.
4.2.Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp phân tích và tổng hợp nhằm tìm ra những đặc sắc trong
nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm
5. Giới hạn của đề tài
Để thực hiện nội dung chính của đề tài, chúng tôi dựa trên ấn bản Mặt
trời nhà Scorta của Nhà xuất bản Hội nhà văn và cơng ty văn hóa Nhã Nam ấn
hành năm 2006.
6. Đóng góp mới của đề tài
6
Như chúng tôi đã đề cập đến, cả trong nước và nước ngồi đều có những
bài viết về cuốn tiểu thuyết này, song chỉ dừng lại ở góc độ bình giảng, cảm
nhận và trong phạm vi giới hạn của các bài báo - chưa có một tài liệu nào
nghiên cứu một cách trọn vẹn, hệ thống và đầy đủ về nó.
Đứng trên quan điểm của mình, chúng tơi cố gắng tiếp cận nghệ thuật kể
chuyện của Laurent Gaudé một cách khách quan và đúng mực nhất, đưa ra
những cách tiếp cận và lý giải vấn đề như một sự gợi ý cho các cơng trình
nghiên cứu cơng phu hơn sau này.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Giúp người đọc nhìn thấy một cách tổng thể bức tranh nghệ thuật mà
Laurent Gaudé xây dựng nên trong tác phẩm, ở cả mặt hình thức lẫn nội dung
trong mối quan hệ hữu cơ với nhau.
- Đề tài vận dụng những nghiên cứu về trần thuật học và tự sự học để
phân tích, bình giảng tác phẩm, từ đó góp phần khẳng định mối liên hệ giữa lý
thuyết lý luận và thực tiễn sáng tác trong văn chương.
- Giúp khẳng định giá trị của một tác phẩm đoạt giải thưởng Goncourt
nhưng lại gây ra những phản ứng trái chiều trong giới phê bình.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có tính chất gợi mở cho những đề tài sau muốn nghiên cứu tiếp về
các tác giả đoạt giải Goncourt nói chung, hoặc về Laurent Gaudé nói riêng.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu tìm hiểu về
cốt truyện của tiểu thuyết dưới các phương diện: cốt truyện xâu chuỗi, kết thúc
lưỡng phân và hiện tượng phân rã cốt truyện; phân tích kết cấu tác phẩm từ
nhiều góc độ: góc độ thời gian, không gian, đồng thời thấy rằng đây là tác
phẩm có một kết cấu phức hợp – kết cấu nhiều kết cấu.
7
Chương 2: Nghệ thuật trần thuật tìm hiểu về điểm nhìn trong tác
phẩm – vấn đề người kể chuyện và cách mà tác giả đem đến câu chuyện cho
chúng ta – phương thức kể chuyện.
Chương 3: Từ nhân vật và biểu tượng đến bức thông điệp về cuộc sống và con
người phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm, các kiểu nhân
vật cũng như thế giới biểu tượng song hành với thế giới nhân vật, từ đó nhìn
thấy bức thơng điệp nhân sinh triết lý mà tác giả gởi gắm.
8
CHƯƠNG 1
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU
Lý thuyết tự sự ngày nay chia làm hai hướng. Một hướng đi sâu nghiên
cứu cấu trúc của truyện, đi tìm các đơn vị nghĩa bắt đầu từ B.Tomasevski,
V.Propp, R.Bathers, Greimas, Tz.Todorov…Hướng thứ hai nghiên cứu cấu trúc
trần thuật với người kể, lời kể, điểm nhìn, khơng gian, thời gian. Hướng này bắt
đầu với H.J James, P.Lubbock, W.Booth, G.Genette.. Ở đây, chúng tôi thiên về
hướng thứ hai, trong cách tiếp nhận quen thuộc với độc giả. Cách tiếp cận này
giúp chúng tơi có cái nhìn tương đối bao qt, quy củ hơn khi đi vào tìm hiểu
thế giới hình tượng trong tác phẩm. Tất nhiên, điều đó khơng có nghĩa là chúng
tôi bỏ qua các đơn vị nghĩa của cấu trúc, bởi lẽ trên thực tế, chúng không thể
tách rời, như sự gắn bó hữu cơ giữa nội dung và hình thức vậy
1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Một nhà phê bình từng nói rằng, “viết là một cơng việc bất hạnh”, để
chỉ sự lao tâm khổ tứ của nhà văn đối với cơng việc sáng tạo nghệ thuật mà
mình đảm đương. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt
truyện. “Cốt truyện là “ơng ngốo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là
nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác
phẩm. Nhân vật, chủ đề, bối cảnh và đối thoại sẽ tuôn trào ra từ trong đầu nhà
văn một cách nhẹ nhàng. Nhưng cốt truyện là nơi có thể khiến dịng chữ nghĩa
của họ bị tắc nghẽn. Khơng thể đưa ra một giải pháp đơn giản cho vấn đề này.
Phóng bút viết phần mở đầu tuyệt vời cho cuốn sách chỉ là một chuyện, nhưng
để tiếp tục dẫn dắt nó đi đến kết thúc vừa ý, bạn sẽ cần phải dựng cốt truyện.
Tác phẩm cần cốt truyện như là cơ thể cần một bộ xương vậy” (Andrew
Taylor)1.
1.1.1. Cốt truyện xâu chuỗi
1
Evan.vnexpress.net
9
“Nếu họa sĩ suy nghĩ bằng đường nét, thì nhà văn suy nghĩ bằng cốt
truyện” (Somerset Maugham)
Cốt truyện, theo cách hiểu truyền thống, “là một hệ thống các sự kiện
phản ánh những diễn biến của cuộc sống, và nhất là các xung đột xã hội một
cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối
quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ tư tưởng và chủ đề tác phẩm”1.
Như vậy, hệ thống sự kiện là yếu tố cốt lõi của cốt truyện. Quan hệ
chính giữa các sự kiện hình thành nên cốt truyện là quan hệ nhân quả. Theo
tính logic của nó, sự kiện B ra đời là do “đã có” sự kiện A và sự có mặt hiện tại
của sự kiện B là “để có” sự kiện C nào đó. Chuỗi sự kiện cứ thế nối tiếp nhau
làm nên trục vận động chính của cốt truyện, liên kết các yếu tố rời rạc trong tác
phẩm thành một quá trình phát triển mạch lạc, hợp lý. Ta có thể mường tượng
việc các sự kiện nương tựa vào nhau, xô đẩy nhau như hiện tượng “đơminơ”, ta
đẩy một con cờ và cú hích đó làm dịch chuyển dịng qn cờ. Trong tác phẩm,
dịng mạch nhân quả này được các nhà cấu trúc thâu tóm lại bằng một mệnh đề
ngắn gọn, một phát ngơn đích đáng: “sau cái này tức là do nguyên nhân của cái
này” (post hoc, orgo protes hoc)2.
Tác giả của Mặt trời nhà Scorta cũng xây dựng cốt truyện của mình theo
ngun lý ấy. Ơng khơng có tham vọng hướng đứa con tinh thần này vào dòng
chảy hậu hiện đại. Sự thật mà Gaudé muốn biểu hiện vẫn là sự thật khách quan
và sự thật tâm lý chứ không phải là sự thật của ngôn ngữ, ta vẫn thấy tác giả
“ẩn mình” đâu đó trong truyện chứ khơng phải “đã chết”, nhân vật vẫn là
những “nhân cách” chứ không phải “cái bóng”…Điều đó cho phép ta soi chiếu
những lý thuyết của tự sự học vào thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Tuy
nhiên, có thể nói ngay rằng Laurent Gaudé đã làm một thao tác ngoạn mục.
Một số nhà văn, như Somerset Maugham chẳng hạn, tạo cho ta cảm giác họ
đang tuân thủ những cốt truyện truyền thống mẫu mực, toàn vẹn và đầy đặn,
mà thực chất đằng sau vẻ cân đối kinh điển ấy lại là những sáng tạo, hoán đổi
1
2
Hà Minh Đức, 1997, Lý luận văn học, Nxb. Giáo dục.
Trịnh Bá Dĩnh dịch, 2002, Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học.
10
bứt ra khỏi khn khổ quen thuộc. Với Gaudé thì sự ngạc nhiên trước nghệ
thuật sáng tạo đến với ta trên con đường ngược lại. Ấn tượng mà đầu tiên ta
gặp gỡ trong Mặt trời nhà Scorta lại là những tản mạn, những dòng chảy lan
man, những gấp khúc tương phản…Có lúc ta bị lẫn lộn, bối rối, để rồi nhận ra,
đằng sau dịng chảy ngẫu hứng đó là một cấu trúc tương đối mẫu mực – cái
mẫu mực không nằm ở toàn thể, mà hiện hữu trong những tiểu phần.
Tác phẩm là một tiểu thuyết toàn vẹn, hẳn nhiên khơng ai có thể phủ
nhận điều đó, cho đến khi ta nhận ra nó cịn là một tuyển tập truyện ngắn hoàn
chỉnh. Chúng song hành cùng nhau như những cá thể riêng biệt, những cá thể
mà nếu đặt cạnh nhau theo một trật tự nhất định, sẽ trở thành những bộ phận
làm nên chỉnh thể thống nhất. Chính ở mỗi chương nhỏ này, tác giả đã phô diễn
một khả năng tổ chức cốt truyện chặt chẽ, mực thước và hài hòa. Gaudé đã
dụng tâm đặt cho các chương truyện những cái tên gợi mở, và khơng hiểu vơ
tình hay cố ý mà các chương có đều dung lượng tương đương nhau. Mười
chương trong cuốn sách có thể xem như mười truyện ngắn độc lập:
Truyện 1: Những hịn đá nóng của định mệnh (28 trang)
Truyện 2: Rủa nguyền của Rocco (39 trang)
Truyện 3: Bọn khố rách áo ôm trở về (28 trang)
Truyện 4: Cửa hàng thuốc lá của bọn miệng hến (31 trang)
Truyện 5: Bữa tiệc (28 trang)
Truyện 6: Những kẻ ăn mặt trời (37 trang)
Truyện 7: Điệu Tarentelle (37 trang)
Truyện 8: Mặt trời nhào xuống (25 trang)
Truyện 9: Động đất (13 trang)
Truyện 10: Đám rước thánh Elia (23 trang)
Vì lối kết cấu này mà cốt truyện của Mặt trời nhà Scorta khơng cịn là
cốt truyện đơn nhất, liền mạch như vẻ thoạt nhìn lúc ban đầu. Nó trở thành một
chuỗi cốt truyện kế tiếp nhau, tập hợp bởi mười câu chuyện nhỏ. Nó có thể làm
11
ta gợi nhớ đến Mười ngày của Bocaxio, điều khác biệt là các câu chuyện ở đây
cấu kết với nhau bởi người kể chuyện. Ở hầu hết các truyện, ta thậm chí cịn có
thể phân định các thành tố của cốt truyện theo kiểu dramatic truyền thống,
chẳng hạn như:
- Những hịn đá nóng của định mệnh
Trình bày: Luciano Mascalzone trở về làng Montepuccio sau 15 năm tù
tội
Thắt nút: Y đến nhà Filomena để thực hiện ý định đồi bại của mình, và y
đã cưỡng hiếp Immacolata trong một sự nhầm lẫn trớ trêu của định mệnh.
Phát triển: Dân làng đuổi đánh và ném đá y đến chết.
Cao trào: Y nhận ra sự nhầm lẫn của mình.
Mở nút: Luciano chết đi, nhưng y đã để lại một đứa con trai trong bụng
người đàn bà tội nghiệp Immacolata.
- Rủa nguyền của Rocco:
Trình bày: Rocco được sinh ra đời.
Thắt nút: Rocco trở thành nỗi khiếp sợ của dân làng.
Phát triển: Những đứa con của Rocco bị dân làng hắt hủi, trong khi đó
Rocco quyết định hiến tất cả tài sản của mình khi hắn chết, để đổi lấy một điều
kiện.
Cao trào: Rocco chết.
Mở nút: tang lễ được cử hành trọng thể như mong muốn của Rocco,
nhưng những đứa trẻ nhận thức được rằng từ nay chúng phải vật lộn với cái
nghèo cùng cực.
- Bọn khố rách áo ơm trở về
Trình bày: ba anh em Domenico, Giuseppe, Carmela trở về làng
12
Thắt nút: họ đối diện với một sự thật đau đớn: mẹ họ đã chết nhưng
không được cử hàng tang lễ như nhà thờ đã hứa mà được chôn ở huyệt công
cộng.
Phát triển: ba anh em đến gặp cha xứ Bozzoni.
Cao trào: cha xứ khước từ lời đề nghị của họ.
Mở nút: ba anh em khai quật thi thể của mẹ và đem chơn ngồi nghĩa
trang
- Cửa hàng thuốc lá của bọn miệng hến
Trình bày: Anh em nhà Scorta chơn mẹ lần nữa
Thắt nút: Việc đó làm cho cha Bozzoni phẫn nộ
Phát triển: Một cuộc chiến ngầm đã bùng nổ, giữa một bên là cha
Bozzoni đơn thương độc mã, và một bên là cả dân làng Montepuccio để bảo vệ
cho danh dự của họ nhà Scorta.
Cao trào: cái chết đột ngột của vị cha xứ mà Raffaele cho là tội lỗi của
mình.
Mở nút: làng Montepuccio chấp nhận việc khơng có cha xứ. Anh em
nhà Scorta quyết định mở cửa hiệu thuốc lá, và kế hoạch của họ thành công
nhờ số tiền mà Raffaele lấy được từ xác cha xứ Bozzoni.
…
Khái niệm cốt truyện với lối phân chia như vậy có truyền thống lâu đời.
Nó bắt nguồn từ Aristote và được các nhà lý luận chủ nghĩa cổ điển định rõ.
Theo đó, cốt truyện, tức là cấu trúc sự kiện của truyện, là tiến trình các sự kiện
xảy ra theo quy tắc nhân quả dẫn đến một kết cục. Truyện nào cũng có tính
thống nhất, bắt đầu từ một trạng thái ổn định, thăng bằng, sau đó xảy ra hỗn
loạn, mâu thuẫn xung đột, cuối cùng trở lại trạng thái thăng bằng. Người ta
biểu diễn mơ hình cốt lõi của truyện bằng sơ đồ chữ V ngược như sau:
13
C
B
A
D
Trong đó, AB là đoạn mở đầu, manh nha truyện, B là xung đột tăng tiến,
phức tạp thêm. C là cao trào và D là kết thúc, trở về thăng bằng.
Theo đó, ta có thể vẽ nên mơ hình cốt truyện của Mặt trời nhà Scorta
như những đường gấp khúc nối nhau:
C
B
A
C
C
B
B
DA
DA
D
Mặt khác, tuy có thể tách rời các chương nhưng mạch truyện không hề
bị đứt gãy, rời rạc. Bởi lẽ Laurent Gaudé đã khéo léo cài một “mầm phôi” vào
cuối mỗi chương truyện, mầm phôi ấy sẽ nảy nở và phát triển thành những “bộ
phận” mới - có thể là một nhân vật, một tình huống hoặc thậm chí một chi tiết –
trong những chương kế tiếp. Bằng cách đó tác giả của nó khơng chỉ giữ vững
được tính cố kết của truyện, lôi cuốn người đọc đuổi theo những trang truyện,
mà đồng thời còn tạo nên lối kết thúc ấn tượng cho mạch truyện.
14
1.1.2. Kết thúc lưỡng phân
Trong một tác phẩm tự sự, mở đầu và kết truyện có những nhiệm vụ
khác nhau nhưng đều là nơi thể hiện tài năng và tư tưởng nghệ thuật của nhà
văn. Nếu mở truyện là cách nhà văn gây ấn tượng trong lịng độc giả thì kết
thúc lại quyết định việc nhà văn lưu lại ấn tượng đó sâu sắc như thế nào.
Vì cốt truyện ở đây là cốt truyện chuỗi, cho nên khi nói đến kết thúc ta
không thể chỉ xét đến kết truyện của toàn bộ câu chuyện, cái kết đến trên dấu
chấm cuối cùng ở trang cuối cùng của cuốn sách. Mười truyện ngắn mà ta đã
gọi tên mang đến cho ta mười cái kết nhỏ. Mỗi chương truyện có một kết thúc
dành riêng cho nó, và hầu hết đều là kết thúc mở - trừ những chương không tồn
tại xung đột như Bữa tiệc, Động đất.
Kết thúc của chương trước báo hiệu cho những xung đột sẽ xuất hiện ở
chương sau, nhờ vậy mà cấu trúc “domino” vẫn không bị phá vỡ, các sự kiện
của cốt truyện vẫn liên hệ với nhau theo tuần tự nhân quả. Vì thế, điểm A của
cốt truyện kế tiếp sẽ trùng với điểm D của cốt truyện trước đó. Điểm khác biệt
nổi bật với cốt truyện “domino” truyền thống là trong những cốt truyện thành
phần, các xung đột đều được xử lý triệt để trong khi số phận của nhân vật lại
được bỏ lửng. Ta có thể ví von đó là các truyện ngắn ở thì hồn thành tiếp diễn.
Chẳng hạn, trong chương Những hịn đá nóng của định mệnh, mâu thuẫn phát
sinh giữa Luciano và dân làng đã được giải quyết bằng cái chết của y, nhưng số
phận của Immacolata vẫn là câu hỏi lớn đối với người đọc. Kết thúc bất ngờ trở
thành lời mời gọi độc giả: “Y chết trước khi cha xứ của làng đọc hết bài kinh.
Đáng lý y có thể cười nếu như trước khi chết y biết được điều gì sẽ nảy sinh từ
cái ngày hơm đó. Immacolata mang thai. Người đàn bà tội nghiệp, sau đó, sinh
một đứa con trai. Dịng họ Mascalzone ra đời như vậy đó. Từ một lầm lẫn. Từ
một ngộ nhận” (tr. 30). Ta sẽ khơng khỏi tị mị, băn khoăn, rồi đây số phận
của mẹ con người đàn bà câm sẽ ra sao? Liệu dân làng Montepuccio có chấp
nhận dịng giống của một kẻ tội đồ? Tương tự, trong khi cha Bozzoni chết đi,
trớ trêu thay, số tiền trong túi cha do Raffele đã lấy cắp lại trở thành chiếc phao
cứu sinh cho sự ra đời của cửa hàng thuốc lá mà anh em Scorta hằng mơ ước.
15
Dịng họ Scorta khơng những khơng bị dồn vào đường cùng ở ngôi làng đã
từng khước từ họ, mà giờ đây cuộc đời của bốn con người ấy đã bước sang một
ngã rẽ mới. Nhưng đó có phải là ngã rẽ an tồn? Liệu số phận có đày đọa họ
thêm nữa?...
Chính bởi những câu hỏi chính đáng ấy mà kết thúc của mỗi chương bao
giờ cũng là kết thúc mở. Chúng như những cánh cửa để người đọc bước vào thế
giới hình tượng nghệ thuật và khám phá những thơng điệp mà nhà văn ký thác.
Một cánh cửa này khép lại, có khi bằng cái chết của một nhân vật mà ta yêu
quý hoặc căm ghét, nhưng rồi một cánh cửa khác lại mở ra. Và người ta không
thể dừng lại trước nó, khơng thể khơng khơng đưa tay nắm lấy chút ánh sáng hé
ra từ cánh cửa ấy, bởi ta hiểu, đằng sau đó cịn là cả một hành trình đang chờ
đợi, đang tiếp diễn. Đó chính là sự tiếp diễn của cuộc sống, ít ra là trong Mặt
trời nhà Scorta.
Tác phẩm kết lại khi đám rước thánh Elia diễu ngang qua cửa hiệu thuốc
lá nhà Scorta, nơi Elia đang đứng và suy ngẫm về tất cả: sự hữu hạn của đời
người, sự bất tử của cuộc sống, mảnh đất mà ông thuộc về, để thấy rằng “chỗ
của ông là ở đây. Không thể khác được. Trước cửa hiệu thuốc lá. Ông lại ngẫm
về sự vĩnh hằng của những cử chỉ ấy, những lời cầu nguyện ấy, những hi vọng
ấy và tìm thấy ở đó một an ủi sâu xa. Mình đã là một con người, ơng nghĩ thầm.
Chỉ là một con người…Những con người, cũng như những cây ô-liu, dưới mặt
trời Montepuccio, là vĩnh cửu” (tr. 296).
Đó có thể là một kết thúc đóng hồn hảo cho câu chuyện về một dịng
họ, nếu ta hiểu kết thúc đóng là cái kết không do độc giả viết nên, như nhà phê
bình Pháp Tadié quan niệm: “một truyện kể, được kết thúc bởi tác giả của nó,
có một kết luận rõ ràng, thì cấu trúc của nó là đóng”1. Với cái kết ấy, truyện
không mở ra nhiều những khả năng cho ta chọn lựa, giả thiết. Nhưng nó đã
khơng thật sự khép lại. Bởi lẽ ngay từ ban đầu, Anna không mang họ Scorta,
không phải là người cuối cùng của dịng họ Scorta. Cơ “vừa trở thành như
vậy” chỉ bởi vì cơ chọn nó. Anna đã chọn cho mình cái họ Scorta, khi cơ thì
1
Đào Duy Hiệp, Độ dài và cấu trúc tiểu thuyết, vnexpress.net
16
thầm vào tai cha mình: “khơng có gì làm thỏa mãn họ nhà Scorta”. Bằng cách
đó, ta hiểu câu chuyện vẫn tiếp tục. Dòng họ Scorta vẫn tiếp tục, như nó đã
từng tiếp tục với Elia – cũng như con gái mình, là kẻ mang họ Manuzio nhưng
mang trong mình dịng máu khát mặt trời của Scorta.
Nói cách khác, Gaudé đã chọn một cái kết lưỡng phân cho tác phẩm của
mình.
Nhưng tất cả khơng chỉ có thể.
Ngay từ đầu truyện, Anna chỉ thoáng xuất hiện qua lời kể của bà ngoại
Carmela khi bà nhờ cha Salvatore trao lại chiếc vé mà bà coi như “chiếc mề
đay” của dòng họ cho cô. Và lần thứ hai nhân vật này xuất hiện cũng là lần
cuối cùng, khi cơ chọn mình là người cuối cùng của cái dòng họ khao khát ăn
mặt trời và uống những vì sao. Mặt trời nhà Scorta bắt đầu với sự khai sinh
một dòng họ, và khép lại chính nó, số phận của dịng họ ấy. Cái kết thúc gặp gỡ
cái mở đầu. Trên góc độ nào đó, ta cũng có thể nói kết thúc truyện thuộc kiểu
kết cấu đầu – cuối tương ứng, một kết cấu ẩn đằng sau nó những suy ngẫm triết
lý về cuộc đời mà trong tác phẩm, bằng nhiều cách, Laurent Gaudé đã nói với
ta về điều đó.
1.1.3. Hiện tượng phân rã cốt truyện
Cốt truyện được xây dựng dựa trên chuỗi sự kiện nhân quả, do đó những
biến đổi của quan hệ nhân quả trong hệ thống sự kiện như tính chặt chẽ, lõng
lẻo, sự tồn tại hay mất đi của nó đều tác động đến cốt truyện, nói rõ hơn, tính
tuần tự của cốt truyện.
Tính tuần tự, theo Roland Bathers1, đó là chuỗi logic các chức năng hạt
nhân gắn với nhau bởi quan hệ đồn kết. Tính tuần tự bị bung ra khi một thành
viên khơng có số hạng đứng trước đồn kết với nó, và được đóng lại khi một
thành viên khác khơng có số hạng kế tiếp. Trong tiểu thuyết Mặt trời nhà
Scorta, có lúc tính tuần tự của các đơn vị trần thuật bị phá vỡ. Chẳng hạn như,
nếu ta làm thao tác liệt kê các sự kiện trong chương 1:
1
Roland Barthes, Nhập mơn phân tích cấu trúc truyện kể, Tơn Quang Cường dịch và chú thích,
vnexpress.net
17
- Luciano đi tù và suy tính những gì y sẽ làm ngay khi ra khỏi đó.
- Luciano trở về làng và cưỡng đoạt Immacolata mà y tưởng nhầm là
Filomena.
- Dân làng trừng trị Luciano
- Luciano chết đi, Immacolata mang thai và sinh được một đứa con trai.
rồi xếp thứ tự trần thuật theo A, B, C, D…và thứ tự sự kiện đánh dấu 1,
2, 3, 4…thì chương này được trần thuật như sau: A2 – B1 – C3 – D4. Đây là
kiểu trần thuật từ giữa trở về quá khứ.
Tuy nhiên trong ví dụ trên chỉ có tính tuần tự của một đoạn trần thuật
trong một chương bị phá vỡ. Hiện tượng này xuất hiện không chỉ một lần trong
tác phẩm. Ở cấp độ lớn hơn, chuyến đi New York của anh em nhà Scorta qua
hồi ức của Carmela cũng là một biểu hiện của sự biến dạng tính tuần tự.
Nếu ta định nghĩa sự kiện là những biến đổi, những sự việc có ảnh
hưởng nhất định đến nhân vật, tính cách và các mối quan hệ hữu cơ giữa chúng
trong tác phẩm; thì chuyến đi New York của anh em nhà Scorta không chỉ là
một sự kiện, một biến cố của cốt truyện mà còn là một sự kiện, một biến cố lớn.
Theo trình tự hợp lý của cốt truyện, nó sẽ được đặt vào phần giữa của chương 2
và chương 3. Nghĩa là đáng lẽ ra, sau phần kết thúc của chương 2 và trước khi
mở đầu của chương 3, ta sẽ (có thể) có hẳn một chương kể về hành trình
chuyến đi của ba anh em Domenico, Giuseppe và Carmela. Trên thực tế,
chương truyện đó đã bị phân rã và đan cài vào các chương khác, cụ thể là
chương 3, 4, và 5.
Thế nhưng nếu quan sát kỹ hơn một chút, ta sẽ nhận ra có đến 11 câu
chuyện được lồng vào trong tiểu thuyết, chính ở đây thực sự xuất hiện hiện
tượng phân rã cốt truyện, tức là tính tuần tự của tồn bộ cốt truyện khơng cịn
giữ vững nữa. Nó đã vận động, co kéo, chuyển dịch để tham gia vào quá trình
kết cấu, nó trở thành một phần của nghệ thuật cấu trúc. Câu chuyện thứ 11
không được đặt tên và cũng không được xếp thành một phần riêng biệt đó
chính là câu chuyện của Carmela. Nếu gom những phân khúc cuối của mỗi
18
chương truyện lại, ta sẽ có câu chuyện thứ 11. Đó là câu chuyện cuộc đời của
Carmela từ khi cịn là một cô bé con đến khi dự cảm cái chết đang gần chạm
vào mình. Khơng theo quan hệ nhân quả, không tuân thủ trật tự thời gian, từng
mảnh đời Carmela bị chia cắt ra, bị phân tán vào dòng ký ức, đảo lộn tồn bộ
thứ tự, vị trí vốn có của nó: cuộc trị chuyện với cha xứ ngay đầu tác phẩm, khi
mà ở chương sau đó cơ bé mang tên Carmela mới chào đời; hay chuyến hành
trình đến miền đất hứa New York được kể một cách phân tán trong nhiều
chương truyện…Lúc này, văn học đã gần với các thủ pháp cắt xén, lắp ghép
hình ảnh trong kỹ xảo điện ảnh. Người đọc có thể chắp nối được đây, đó những
hình ảnh của q khứ với hiện tại song một sự tri nhận đủ đầy chỉ thực sự có
được khi cuốn sách được lật đến những trang cuối cùng.
1.2. Nghệ thuật kết cấu
Khi kể một câu chuyện “dài hơi”, dồn nén nhiều sự kiện, nhà văn không
thể kể ngay một lúc tất cả các chuyện, mà buộc phải có thứ tự trước sau, và
điều đó cho phép nhà văn cấu tạo lại trật tự câu chuyện theo một ý nghĩa nào
đó. Đó là nghệ thuật kết cấu trong tác phẩm tự sự. Ở đây, nghệ thuật kết cấu
đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm nên sức hấp dẫn của Mặt trời nhà
Scorta.
1.2.1. Kết cấu phức hợp
Kết cấu của truyện là một hệ thống các biến cố trong trật tự nghệ thuật
đã được lựa chọn, sắp xếp. Cũng như cốt truyện, kết cấu của Mặt trời nhà
Scorta khá đặc biệt: nó là sự phức hợp của nhiều kiểu kết cấu.
- Kết cấu truyện trong truyện:
Đây là kiểu kết cấu dễ nhận ra nhất trong truyện. Như đã nói, tác phẩm
bao gồm mười chương, từ đó hình thành 11 câu chuyện nhỏ. Thế nhưng đó chỉ
mới là sự phân tầng bậc một. Trong các chương còn xuất hiện những câu
chuyện được đan ghép, được lồng vào qua lời kể của các nhân vật hoặc lời kể
của người kể chuyện ẩn tàng. Đó là câu chuyện về cuộc đời bệ rạc tội lỗi của
Mascalzone (chương 1), câu chuyện về cái chết của bà Câm (chương 3)…
19
- Kết cấu lặp
Sáng tạo nghệ thuật khơng khuyến khích sự lặp lại, trừ những phép lặp
có dụng ý. Kiểu kết cấu lặp trong tiểu thuyết Mặt trời nhà Scorta là một dụng
công kỹ thuật như thế. Mỗi chương gần như được phân thành hai phần: kết thúc
mỗi chương (trừ chương cuối cùng) luôn là lời của Carmela, trong khi những
trang trước đó tác giả dành để miêu tả cuộc đời của từng người trong dòng họ
Scorta, với những biến cố, hành động, với tất cả những gì đã trơi qua mảnh đất
khô cằn ấy, với cả những hạnh phúc lẫn khổ đau mà họ nếm trải. Nó trở thành
một khung mơ hình tự sự thống nhất, được lặp đi lặp lại qua chín chương
truyện.
- Kết cấu xoắn kép
Kết cấu này gợi liên tưởng đến cấu trúc của một chuỗi AND bao gồm
hai mạch xoắn vào nhau. Đó là hai dòng chảy xuyên suốt tác phẩm, một của
diễn biến khách quan và một thuộc về hồi tưởng của Carmela. Dòng hồi tưởng
ấy trở thành một điểm nhấn riêng cho tác phẩm. Nó vừa hịa vào dịng kể, vừa
nằm bên lề tác phẩm một cách lạ lẫm, vừa trầm lắng vừa như sục sơi lên báo
hiệu sự có mặt của chính mình.
1.2.2. Kết cấu từ góc độ thời gian
1.2.2.1. Thời gian trong văn bản tự sự
Thời gian là một vấn đề được lưu ý đặc biệt trong nghệ thuật kể chuyện,
bởi lẽ khi tìm một định nghĩa đơn giản nhất về kể chuyện, người ta cho rằng đó
chính là nghệ thuật xếp đặt những chuỗi tình tiết hoặc nghệ thuật trình bày các
sự biến trong mối liên hệ với thời gian. Đối với lý luận phương Tây, sự quan
tâm đặc biệt lại càng nghiêng hẳn về trục thời gian hơn là không gian. Theo
nhận xét của Gérard Genette: “do một sự mất cân xứng mà ta chưa thể cắt
nghĩa được, song nó đã in dấu vào cơ cấu của tiếng nói (hoặc ít nhất ngơn ngữ
của các nền văn minh lớn nhất thuộc văn hóa phương Tây), tơi có thể kể một
câu chuyện mà khơng cần nói chính xác địa điểm nó xảy ra, hoặc nó cách xa
bao lăm so với địa điểm phát ngôn của tôi, nhưng dường như tôi không thể nào
loại bỏ việc xác định thời gian trong tương quan với hành động kể chuyện của
20
mình, bởi lẽ tơi cứ nhất thiết phải kể lại câu chuyện trong một thì nhất định về
hiện tại, quá khứ hoặc tương lai”1. Có lẽ đây cũng là điều cần chú ý: khi phân
tích văn bản dịch từ ngơn ngữ một số nước (Anh, Pháp, Nga…) thì sắc thái thời
gian đã bị đánh mất rất nhiều. Bởi lẽ khác với văn bản Việt, ở văn bản gốc, thời
gian đã khảm ngay vào “cơ cấu của tiếng nói”, qua các “thì”, các “thức” nhất
định của lời phát ngơn trong văn bản.
Theo Giáo sư Trần Đình Sử, thời gian trong văn bản tự sự được phân
tách thành hai loại lớn, như một cái quy chiếu của câu chuyện kể.
- Thời gian trần thuật:
Thời gian trần thuật là thời gian vận động theo dịng vận động tuyến tính,
một chiều của văn bản ngơn từ. Nói cách khác, đó là thời gian của người kể,
của sự kể.
a) Nó có mở đầu và kết thúc, do đó là một thời gian hữu hạn.
b) Nó có tốc độ và nhịp điệu riêng tùy thuộc vào người kể.
c) Do có tính khơng đảo ngược cho nên nó có thể sắp xếp lại trật tự thời
gian của sự việc vào trật tự trước sau của nó. Nó có thể đem cái xảy ra sau kể
trước, và ngược lại đem cái xảy ra trước kể sau.
d) Thời gian trần thuật ln mang thời hiện tại. Tơi đang nói có nghĩa là
thời điểm đang hiện tại.
Tất nhiên, đây khơng phải là cách phân chia duy nhất. Theo G. Genette,
thời gian trần thuật có bốn hình thức:
a) tỉnh lược (ellipsis) – thời gian được trần thuật rất dài, nhưng thời gian
trần thuật lại bỏ qua, thời gian trần thuật gần như bằng không.
b) lược thuât (summary) – là lược kể trong một câu ngắn một đoạn thời
gian dài.
1
Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương tây hiện đại, Sđd
21
c) cảnh tượng (scene)- kể các cuộc đối thoại, thời gian gần như bằng
thời gian thực tế khi tiến hành đối thoại (người ta gọi thời gian đó là thời gian
kịch)
d) dừng lại (pause) tức là khi nhà văn tiến hành miêu tả chân dung hay
phong cảnh, môi trường. Lúc này thời gian trần thuật dừng lại bằng không.
- Thời gian được trần thuật:
Nếu trong mỗi lời nói ta đều phân biệt được hai sự kiện: sự kiện nói và
sự kiện được nói tới, thì cũng vậy, trong văn học ta phân biệt thời gian trần
thuật và thời gian được trần thuật. Thời gian được trần thuật là thời gian của sự
kiện được nói tới. Đây là cơ sở của thời gian nghệ thuật. Thời gian trần thuật
bao gồm:
a) Thời gian sự kiện: là chuỗi liên tục của các sự kiện trong quan hệ liên
tục trước sau, nhân quả.
b) Thời gian nhân vật:bao gồm thời gian tiểu sử và thời gian được nếm
trải tâm hồn nhân vật. Thời gian sinh mệnh cũng thuộc thời gian con người.
Hoạt động tâm lý, ký ức dòng ý thức tạo thành thời gian nhân vật. Thời gian
nhân vật gắn với các thời điểm có ý nghĩa riêng của nhân vật đó, đồng thời thể
hiện trong tương quan với các nhân vật khác.
c) Thời gian thiên nhiên
d) Thời gian sinh hoạt: đi sâu vào lớp thời gian này người ta sẽ hiểu
được trạng thái sống và tồn tại của con người.
e) Thời gian phong tục: khơng ai có thể sống ngồi phong tục và đời họ
gắn với nhịp điệu của thời gian này. Đó là thời gian của các tiết lễ, nó tạo thành
nhịp độ chung của cuộc sống từng vùng
f) Thời gian xã hội, lịch sử: đó là thời gian thay đổi hưng phế, thịnh suy
của xã hội.
22
Từ đó, giáo sư Trần Đình Sử khẳng định: sự phối trí, sắp xếp của thời
gian trần thuật và thời gian được trần thuật tạo ra thời gian nghệ thuật thật sự.
Một số cách thức như:
-
đảo ngược thời gian
-
tương quan đầu – cuối
-
thời gian tỉnh lược ngắn
-
liên tục nhau
Như vậy, đi tìm thời gian sự kiện được quy chiếu, đó là một phần của
cơng việc tìm hiểu văn bản tự sự. Nhưng cơng việc có tính chất phân tích nghệ
thuật thực sự, đó khơng phải là việc tách rời việc phân tích thời gian sự kiện và
thời gian trần thuật, mà là đi tìm mối liên hệ giữa hai cái đó, phát hiện ra những
độ lệch giữa chúng. Độ lệch đó liên quan đến kết cấu của tác phẩm, kết cấu từ
góc độ thời gian. Ở đây, chúng tơi tìm hiểu thời gian không như là trục tồn tại
của nhân vật trong tiểu thuyết mà với tư cách một yếu tố tổ chức cốt truyện,
một yếu tố làm nên mạch chuyển động của dòng tự sự trong tác phẩm.
1.2.2.2. Kết cấu đồng hiện trong Mặt trời nhà Scorta
Thời gian trong Mặt trời nhà Scorta không liền mạch mà đứt đoạn, trên
đó các sự kiện, dữ kiện của truyện khơng nối tiếp nhau trải dài mà đưa ra
những mảng thời gian rời như những màn, cảnh (scene) trong sân khấu và điện
ảnh. Và mỗi mảng thời gian như thế đã là một kết cấu tương đối trọn vẹn, hồn
chỉnh: nó thuật lại đầy đủ một biến cố, hoàn thành một quãng đời người, hay
đơi khi, thậm chí, một đời người. Những “vách ngăn” như vậy của thời gian tạo
ra một cấu trúc tập trung, sắc nét hơn. Trong khi đó, những đứt quãng không
làm câu chuyện rời rạc, vỡ vụn mà trái lại, tạo ra một khoảng lặng tâm trạng,
một “độ ngưng” suy tưởng, nơi mà ta có thể thả trơi mình vào những trầm tư…
Laurent Gaudé gần như đã làm cái cơng việc viết lại gia phả cho một
dịng họ bị rủa nguyền. Hơn một trăm năm đời người với bao nhiêu là diễn tiến,
thăng trầm nén lại trong chừng ấy trang giấy, chừng ấy số phận, chừng ấy
gương mặt. Chuyện bỏ đi những chi tiết, những sự kiện không quan trọng trở
23