Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ lớp mẫu giáo 5 6 tuổi a2 vào lớp 1 tại trường mầm non điền trung, huyện bá thước, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.62 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHUẨN BỊ TÂM THẾ CHO TRẺ
LỚP MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI A2 VÀO LỚP 1 TẠI TRƯỜNG
MẦM NON ĐIỀN TRUNG, HUYỆN BÁ THƯỚC,
TỈNH THANH HOÁ

Người thực hiện: Nguyễn Thị Lan
Chức vụ: Giáo Viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá
Thước, tỉnh Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Chun mơn

THANH HĨA NĂM 2020


MỤC LỤC
STT

Nội dung

Trang

1
1.1
1.2
1.3


1.4
2
2.1
2.2
2.2.1
2.2.2
2.3

Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thuận lợi
Khó khăn
Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề

1
1
2
2
2
3
3
4
4
4

6

2.3.1

Giải pháp 1: Chuẩn bị tốt về mặt thể chất cho trẻ

6

2.3.2

Giải pháp 2: Chuẩn bị tốt về mặt ngôn ngữ và kỹ năng
chuẩn bị cho hoạt động tiền đọc, tiền viết
Giải pháp 3: Chuẩn bị tốt về mặt nhận thức cho trẻ, hình
thành một số kỹ năng cần thiết tạo cho trẻ mạnh dạn, tự tin,
tự kiểm sốt, có trách nhiệm, độc lập, kiên định
Giải pháp 4: Tạo cho trẻ cơ hội trải nghiệm
Giải pháp 5: Phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc thực
hiện mục tiêu giáo dục trẻ
Hiệu quả của sáng kiến
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

9

2.3.3

2.3.4
2.3.5

2.4
3
3.1
3.2

10

12
14
16
18
18
18

1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
“Giáo dục Mầm non có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc


3

dân, là khâu đầu tiên của quá trình phát triển tồn diện nhân cách con người,
đồng thời góp phần chuẩn bị cho trẻ đến Trường Tiểu học. Trẻ bước vào lớp 1 có
sự chuyển dần hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang hoạt động học tập. Đây là quá
trình rất cần có sự tổ chức, hướng dẫn và giáo dục đúng đắn của cả gia đình, nhà
trường và xã hội. Nếu không được chuẩn bị tốt trước khi vào lớp 1 thì có thể ở
một số trẻ sẽ có những biểu hiện như: Tâm lí sợ sệt, bỡ ngỡ khơng thích ứng với
cuộc sống và hoạt động ở trường phổ thơng, khó khăn trong việc thực hiện
nhiệm vụ học tập và thiết lập các mối quan hệ với mọi người xung quanh,...
Chính vì vậy, việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 giữ một vai trò quan trọng và cần

thiết”. [1]
Khi trẻ lên 6 tuổi nghĩa là trẻ hết tuổi Mầm non là lúc trẻ đạt xong nền
móng của nhân cách cho trẻ. Sự phát triển về mặt đạo đức cho trẻ sau này đều
mang dấu ấn của thời ấu thơ. Vì thế từ lứa tuổi này chúng ta phải chăm lo phát
triển toàn diện cho trẻ, trên cơ sở đó từng bước hình thành nhân cách cho trẻ
theo phương hướng, yêu cầu mà xã hội đặt ra. Có thể nói thời kỳ trẻ 6 tuổi là
bản lề cho sự phát triển mang tính bước ngoặt. Đặc biệt khi trẻ ở giai đoạn này
sẽ chuyển từ giai đoạn Mầm non và bước sang giai đoạn Tiểu học. Lúc này
chúng ta sẽ nhận thấy đặc điểm phát triển của trẻ 6 tuổi là phát triển về thể chất,
tâm sinh lý nhận thức, có sự thay đổi khi trẻ tiếp xúc với môi trường học đường.
“Việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 là rất quan trọng. Theo các nhà tâm lí giáo dục, học tập ở lớp 1 có tác động rất lớn đến việc bé có yêu trường học, yêu
việc học hành và tìm được phương pháp học tập tốt cho những năm sau này hay
không. Thực tế cho thấy nhiều trẻ đến lớp 1 trong những ngày đầu đầy hăm hở
và chỉ vài tuần sau đã chán nản đòi bỏ học ở nhà. Trước hết, cần khẳng định, vào
lớp 1 là một “bước ngoặt” lớn trong cuộc đời của mỗi đứa trẻ, đang từ cuộc sống
khá thoải mái về mặt thời gian cũng như tinh thần, trẻ phải chuyển qua một mơi
trường địi hỏi “làm việc” một cách thực sự, cần biết tập trung chú ý trong cả
một tiết học dài 40 - 45 phút... đây là việc không đơn giản khi trẻ bắt đầu bước
vào những tuần học đầu tiên ở lớp 1.”[1]
Tuy nhà trường đã tạo điều kiện cho chúng tôi được tham gia học các
chuyên đề trong năm, được cung cấp các tài liệu tham khảo. Được tham khảo
nhiều tài liệu, sách báo, những thông tin trên mạng và qua đồng nghiệp về kiến
thức chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào lớp 1.
100% trẻ trong lớp đã được học qua lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, nên trẻ rất có
nề nếp trong tất cả các hoạt động một ngày của bé.
Nhưng trong thực tế tại trường mầm non Điền Trung nói riêng và huyện
Bá Thước nói chung thì đại đa số phụ huynh lại cho rằng để giúp trẻ học tốt ở
trường phổ thông cần dạy trước cho trẻ như: Tập viết, tập đọc, tập làm tốn...
Như vậy là đứa trẻ khơng đủ sức tiếp thu những tri thức trên hoặc có tiếp thu
được thì trẻ lại tỏ ra chán nản, không tập trung khi phải học lại những kiến thức

ấy ở lớp 1, mà ở Mầm non lại quá sức đối với trẻ.
Thời lượng hoạt động có chủ đích ở Trường Mầm non khác với Trường
Tiểu học, cách truyền tải kiến thức cũng làm cho trẻ bị hụt hẫng: Ở Mầm non thì
“Học bằng chơi, chơi mà học”, học mọi lúc mọi nơi. Nhưng giáo viên Tiểu học


4

lại chưa thật sự quan tâm đến tâm lý của trẻ, các cô chỉ muốn khi trẻ vào lớp 1
phải đọc thông viết thạo, mà theo quy định của bậc học Mầm non, trẻ khơng
được học trước chương trình.
Giáo viên chưa hỗ trợ cha mẹ sẵn sàng cho sự thay đổi của các con, và
chưa hướng dẫn cha mẹ các hoạt động chuẩn bị cho trẻ tại gia đình.
Một số cha mẹ đi làm ăn xa để con ở nhà với ơng bà, nên mức độ quan
tâm cịn rất hạn chế, chủ yếu là phó mặc cho giáo viên và nhà trường.
Sự phối kết hợp giữa phụ huynh với giáo viên trong công tác chuẩn bị tâm
thế cho trẻ vào lớp 1 cịn hạn chế.
Cơng tác phối kết hợp giữa Trường Mầm non và Trường Tiểu học chưa
chặt chẽ trong việc tạo tâm thế cho trẻ vào lớp 1, nên khi lên lớp 1 trẻ còn bị
hẫng.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải
pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi A2 vào lớp 1 tại Trường
Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa", để giúp các con có
đủ tâm thế, tự tin khi bước vào lớp 1.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu để tìm ra một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ lớp mẫu
giáo 5 – 6 tuổi A2 vào lớp 1 tại Trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước,
tỉnh Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ lớp Mẫu giáo 5 - 6

tuổi A2 vào lớp 1 tại Trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh
Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này, trong bài viết sáng kiến kinh nghiệm của mình
tơi đã sử dụng các phương pháp sau:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Tôi tiến hành nghiên cứu đọc sách và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về tâm sinh lý của trẻ 5 - 6 tuổi. Sưu tầm tư liệu, hình ảnh, qua thơng tin thực tế
ở nhà trường.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Thông qua việc trực tiếp giảng dạy hàng
ngày của bản thân và dự giờ của các đồng nghiệp.
- Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với các giáo viên trong nhà trường
để trao đổi các kinh nghiệm sáng tạo trong dạy trẻ.
- Đàm thoại với phụ huynh để tìm hiểu về tính cách tâm lý của trẻ khi ở
nhà trường.
- Đàm thoại và trò chuyện trực tiếp trẻ hàng ngày, tạo các tình huống cho
trẻ có cơ hội diễn đạt những hiểu biết, những suy nghĩ của mình. Động viên,
khuyến khích giúp trẻ tự tin bộc lộ khả năng, cảm xúc của mình .
- Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thống kê tốn học:
Xử lý số liệu thơng tin thu được thơng qua việc sử dụng các phép tính


5

toán.
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Tham khảo các bài viết, ý kiến của lãnh đạo, của đồng nghiệp về vấn đề
mình đang thực sự quan tâm để xây dựng bài viết hoàn chỉnh.

* Phương pháp điều tra:
Điều tra số lượng trẻ trên lớp, độ tuổi 5 - 6 tuổi với tổng số trẻ mẫu giáo
lớn 5 - 6 tuổi do tôi chủ nhiệm là 29 trẻ.
2. Nội dung:
2.1. Cơ sở lý luận:
“Có thể nói đi học lớp 1 là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của trẻ
vì trẻ chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ đạo của lứa tuổi mẫu giáo sang hoạt
động học tập là chủ đạo của học sinh ở Trường Tiểu học.
Ở Trường Tiểu học, học là hoạt động chủ đạo và bắt buộc, khơng thích
cũng phải học, học phải tạo ra sản phẩm (phải hoàn thành các nhiệm vụ học tập,
làm bài tập, trả lời câu hỏi... theo tiến độ của cả lớp). Vì vậy cần chuẩn bị tâm lý
sẵn sàng đi học lớp 1 cho trẻ để giúp trẻ thành công ngay từ những ngày đầu,
tuần đầu của lớp 1, để trẻ tự tin và thích được đi học lớp 1”[1]
Theo nhà tâm lý học Nguyễn Ánh Tuyết thì: Bước ngoặt 6 tuổi và sự
chuẩn bị về mặt tâm lý cho trẻ vào lớp 1 như sau:
“Thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng của trẻ em. Ở
độ tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ trẻ đang tiến vào bước ngoặt đó với sự biến đổi
của hoạt động chủ đạo. Hoạt động vui chơi vốn giữ vị trí chủ đạo trong suốt thời
kỳ mẫu giáo, nhưng vào cuối tuổi này khơng cịn giữ ngun dạng hồn chỉnh
của nó, những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh.
Cuối giai đoạn mẫu giáo lớn, trẻ đã có những tiền đề cần thiết của sự chín
muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý, nhận thức, trí tuệ ngơn ngữ và tâm thế
để trẻ có thể thích nghi bước đầu với điều kiện học tập ở lớp 1.
Việc chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1 là chuẩn bị những tiền đề, những yếu
tố của hoạt động học tập để có thể thích ứng tốt nhất, nhanh nhất đối với việc
học ở lớp 1.”[2]
Việc chuẩn bị cho con trẻ vào học lớp 1 không chỉ là chuẩn bị đầy đủ
quần áo, sách vở, cặp bút, dụng cụ học tập và cho con học trước chương trình
lớp 1 là đủ mà phải chuẩn bị tâm lý cho trẻ, để trẻ bước vào lớp một với một tâm
thế vững vàng, đầy háo hức đón chờ một sự thay đổi nhiều điều mới lạ. Bởi lẽ

trẻ con háo hức muốn khám phá điều mới lạ thì trẻ mới ham thích đến trường,
mới say sưa tìm tịi để khám phá thế giới xung quanh. Đây là động cơ tốt, ta
muốn trẻ học tốt thì phải tạo động lực thúc đẩy. Quá trình dạy - học, là quá trình
tương tác diễn ra giữa người dạy và người học, cần tạo động lực thúc đẩy tác
động trực tiếp đến người học và người dạy thì kết quả đạt được mới cao.
Thực tế cho thấy khi trẻ Mầm non lên học tập ở Trường Tiểu học một loạt
quan hệ xã hội cần được thay đổi: Quan hệ trẻ với cô được thay thế bằng quan
hệ “thầy - trò”, quan hệ giữa trẻ với trẻ ở Trường Mầm non là quan hệ bạn bè
cùng chơi nay chuyển sang quan hệ bạn bè cùng học. Vì vậy việc cho trẻ làm
quen với hoạt động học tập, với quan hệ xã hội ở Trường Tiểu học hay trong quá


6

trình học tập ở Trường Mầm non là rất cần thiết.
2.2. Thực trạng:
2.2.1. Thuận lợi
Trường Mầm non Điền Trung được công nhận là Trường đạt chuẩn quốc
gia mức độ I. Là một trong những trường chuyên môn nằm trong tốp đầu tồn
huyện, hàng năm tập thể nhà trường ln đạt nhiều thành tích cao trong phong
trào thi đua của bậc học Mầm non.
- Bản thân là một giáo viên có trình độ trên chuẩn.
- Được cung cấp các tài liệu tham khảo về kiến thức chuẩn bị tốt tâm thế
cho trẻ vào lớp 1.
- Nhà trường tạo điều kiện bản thân được học các chuyên đề hàng năm
được tham khảo nhiều tài liệu, sách báo, những thông tin trên mạng và kiến thức
chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1 đã giúp cho bản thân có nhiều kiến thức để
viết đề tài.
- Lớp lớn tơi phụ trách có đầy đủ các trang thiết bị dạy học như: Máy tính,
tivi các loại đồ dùng đồ chơi đầy đủ phục vụ cho chương trình giáo dục Mầm

non của Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Phịng học thống mát, có đủ ánh sáng cho trẻ hoạt động. Tỷ lệ huy động
trẻ ra lớp là 100%, 100% trẻ ăn bán trú tại trường.
- Đa số các cháu có cùng độ tuổi, cháu đi học đều và ngoan, lễ phép, biết
vâng lời cô giáo.
- Lớp tơi phụ trách có 29 cháu cùng độ tuổi, hầu như các cháu đã học qua
chương trình lớp mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) nên việc thực hiện lịch sinh hoạt hằng
ngày trẻ đã thực hiện tốt và đi vào nề nếp.
- Nhiều cháu có khả năng lao động tự phục vụ. Qua đó cũng giúp tơi
thành cơng hơn trong việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ trước khi vào lớp 1.
Bên cạnh những thuận lợi, bản thân tôi cũng cịn gặp những khó khăn
nhất định, cụ thể.
2.2.2. Khó khăn
- Trẻ chưa có tâm thế với mơi trường học, chương trình học, và chế độ
sinh hoạt hằng ngày ở Trường Tiểu học.
- Trẻ chưa được làm quen một số đồ dùng, chưa được làm quen với môi
trường trong lớp cũng như ở ngoài lớp ở Trường Tiểu học.
- Trẻ chưa quen với cách xưng hô của cô giáo với học sinh ở Trường Tiểu
học: “Cô - em”.
- Giáo viên Tiểu học chưa thực sự quan tâm đến bước ngoạt tâm lý của trẻ
trước khi bước vào lớp 1. Mặt khác, tâm lý của giáo viên Tiểu học muốn khi trẻ
vào lớp 1 phải đọc thông viết thạo, mà theo quy định của bậc học Mầm non, trẻ
không được học trước chương trình.
- Thời lượng hoạt động có chủ đích ở Trường Mầm non khác với Trường
Tiểu học, cách truyền tải kiến thức cũng làm cho trẻ bị hụt hẫng: Ở Mầm non thì
“Học bằng chơi, chơi mà học”, học mọi lúc mọi nơi.
- Khả năng tập trung trong thời gian dài của trẻ cịn kém.
- Khả năng tự kiểm sốt, thể hiện cảm xúc của trẻ còn hạn chế. Mặt khác,



7

một số trẻ phạm vi giao tiếp còn hạn chế, còn rụt rè, bỡ ngỡ, nhiều cháu chưa
mạnh dạn, chưa tự tin, chưa biểu đạt những mong muốn của bản thân bằng ngơn
ngữ mạch lạc.
- Nhiều trẻ đang cịn có tính ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn, chưa nhanh
nhẹn, tư duy để giải quyết vấn đề, hoặc lười lao động chưa có thói quen tự giác,
tự phục vụ.
- Có sự thay đổi nhóm bạn nên khả năng liên kết với bạn mới cịn hạn chế,
trẻ chưa mạnh dạn thích nghi với sự thay đổi nhóm bạn.
- Và có những trẻ là con một trong gia đình, được ơng bà bố mẹ cưng
chiều, ít cho tiếp xúc với mơi trường xung quanh, nên khả năng nhận thức của
các cháu còn kém.
- Bên cạnh đó, một số phụ huynh cịn muốn cho trẻ học trước chương
trình trước khi bước vào lớp 1, như vậy sẽ gây áp lực và sự nhàm chán cho trẻ.
Việc nhận thức vấn đề cho con vào lớp 1 của một số phụ huynh còn lệch lạc.
Một số phụ huynh chưa thực sự hiểu về bậc học Mầm non, họ cho rằng: “Trăng
đến rằm thì trăng trịn”, trẻ đến 6 tuổi thì nghiễm nhiên đi học lớp 1, không phải
cần chuẩn bị tâm thế cho trẻ cũng như không cần biết khả năng nhận thức và sức
khỏe của trẻ có thể đảm bảo được cho trẻ học tập hay không.
- Sự phối kết hợp giữa phụ huynh với giáo viên trong công tác chuẩn bị
tâm thế cho trẻ vào lớp 1 còn hạn chế.
- Giáo viên chưa hỗ trợ cha mẹ sẵn sàng cho sự thay đổi của các con, và
chưa hướng dẫn cha mẹ các hoạt động chuẩn bị cho trẻ tại gia đình.
- Mặt khác, đồ dùng đồ chơi của lớp mới đủ so với yêu cầu tối thiểu,
nhưng còn thiếu đồ dùng hiện đại, chưa mang tính lắp ghép nhiều để phát huy
được tính tích cực của trẻ.
Sau khi được phân cơng chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi A2, Căn cứ
vào tình hình trên trước khi tiến hành nghiên cứu đề tài, tơi đã đi sâu vào tìm
hiểu danh sách từng trẻ, với mong muốn trang bị cho trẻ những kiến thức, những

kỹ năng cơ bản cần thiết trước khi bước vào lớp 1.
Từ đó tơi bắt đầu khảo sát chất lượng trên trẻ, kết quả đạt như sau:
Bảng khảo sát thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến:
Đạt
Chưa đạt
Tổng
STT
Nội dung khảo sát
số
Số
Số
Tỉ lệ
Tỉ lệ
trẻ trẻ
trẻ
1
Tâm thế trẻ tự tin thể hiện rõ mong
muốn của mình bằng câu nói mạch 29
16 55% 13 45%
lạc.
2
Trẻ có nề nếp, kỷ luật tốt trong việc
29
15 52% 14 48%
tham gia các hoạt động.
3
Đảm bảo đủ điều kiện về mặt thể chất,
29
18 62% 12 41%
trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ.

4
Trẻ thích ứng với mơi trường mới, có
khả năng liên kết khi thay đổi mơi 29
12 41% 17 59%
trường, thay đổi tổ, nhóm bạn.


8

5

Khả năng tập trung của trẻ khi thực
29
13 45% 16 55%
hiện nhiệm vụ.
6
Trẻ có kỹ năng nhận thức để đáp ứng
các địi hỏi học đường: Tự kiểm sốt,
29
12 41% 17 59%
tự tin, trách nhiệm, độc lập, kiên định.
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát trên cho ta thấy chất lượng của trẻ còn
thấp:
Một số trẻ chưa mạnh dạn, tự tin thể hiện rõ mong muốn của mình bằng
câu nói mạch lạc với người lớn và mọi người xung quanh.
Trẻ chưa có nề nếp, kỷ luật khi tham gia các hoạt động tại lớp.
Kỹ năng lao động tự phục vụ của trẻ còn hạn chế đa số trẻ còn ỷ lại cô
giáo chưa biết tự phục vụ bản thân.
Đặc biệt là khả năng liên kết khi thay đổi môi trường, thay đổi tổ, nhóm
bạn mới cịn hạn chế, rụt rè.

Khả năng tập trung thực hiện nhiệm vụ chưa cao.
Hơn nữa trẻ chưa có kỹ năng nhận thức để đáp ứng các địi hỏi học
đường: Tự kiểm sốt, tự tin, trách nhiệm, độc lập, kiên định.
Đứng trước tình hình trên, tơi nghĩ cần phải có kế hoạch, giải pháp để
nâng cao chất lượng chăm sóc, phát triển đầy đủ các mặt giáo dục cho trẻ để trẻ
có tâm thế sẵn sàng bước vào Trường Tiểu học đạt kết quả tốt nhất.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Chuẩn bị tốt về mặt thể chất cho trẻ.
* Tăng cường công tác giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe
Ngay từ đầu năm học tôi đã dành nhiều thời gian trao đổi và tâm sự với
phụ huynh về sở thích của từng trẻ. Dạy trẻ biết lợi ích của thực phẩm đối với
sức khỏe con người, giáo dục trẻ biết những thực phẩm có nhiều năng lượng
giúp trẻ vui chơi, chạy nhảy như: Sữa, cơm, bắp, khoai, thịt, cá, trứng, dầu, mỡ,
đậu,… Thực phẩm giúp sáng mắt, da đẹp là các loại trái cây, rau củ có màu đỏ.
Thực phẩm giúp bé nhanh lớn, thông minh là: Gạo, mì, thịt, cá, trứng, sữa, dầu,
mỡ, rau, củ, trái cây…, để giúp trẻ nhận biết và ăn đầy đủ 4 nhóm chất dinh
dưỡng: Gluxid, Protein, Lipid, Vitamin và khống chất.
Ví dụ: Có những trẻ chỉ ăn cơm với canh. Ban đầu tôi vẫn chiều theo ý
trẻ, để tạo cho trẻ cảm giác an tâm ở lớp, tin tưởng, thân thiện và gần gũi với cô
hơn, dần dần tôi thêm vào khẩu phần của trẻ một chút thức ăn để cho trẻ tập làm
quen, và khích lệ trẻ ăn hết xuất.
Tơi thực hiện lịch cân đo đúng thời gian quy định, để kịp thời phát hiện
trẻ suy dinh dưỡng, trẻ béo phì, sau đó điều chỉnh chế độ ăn hợp lý cho trẻ.
Cho trẻ biết tháp dinh dưỡng, những thực phẩm nào cần ăn ít, ăn vừa, ăn
đủ, để trẻ tự biết cách lựa chọn tốt nhất cho cơ thể mình.
Ngồi việc cung cấp cho trẻ thơng tin về 4 nhóm chất trong bữa ăn hằng
ngày, tơi cịn cho trẻ xem thêm hình ảnh, video về 4 nhóm chất dinh dưỡng:


9


Hình ảnh: Trị chuyện với trẻ về các nhóm thực phẩm.
Bên cạnh đó, tơi giáo dục cho trẻ những hành vi văn minh trong ăn uống
để bảo vệ sức khỏe của mình như: Biết rửa tay bằng xà phịng trước và sau khi
ăn, ăn đúng bữa, ăn hết xuất, giờ ăn cơm khơng nói chun, ho - ngáp biết che
miệng, thức ăn rơi ra bàn nhặt bỏ vào đĩa rồi lau tay sạch sẽ, ăn chín, uống sơi
tránh được bệnh về tiêu hóa, rửa, gọt hoa quả trước khi ăn,…
Qua biện pháp nêu trên đa số trẻ lớp tôi đã hiểu được tầm quan trọng của
dinh dưỡng đối với cơ thể, nhận biết được giá trị dinh dưỡng của các loại thực
phẩm cần thiết cho sự phát triển về cân nặng, chiều cao, sáng mắt, đẹp da….để
ăn uống phù hợp. Từ đó trẻ đã có những hiểu biết nhất định về dinh dưỡng, trẻ
có sức khỏe tốt hơn, chiều cao và cân nặng ngày càng được cải thiện đạt được
tiêu chí do nhà trường đề ra. Và trẻ sẽ là một trong những tuyên truyền tích cực
cho cha mẹ về tầm quan trọng của các nhóm thực phẩm trong bữa ăn hằng ngày.
Tuy nhiên muốn phát triển tốt lĩnh vực thể chất cho trẻ ngoài chú trọng về
mặt dinh dưỡng chúng ta còn phải chú trọng phát triển vận động qua các hoạt
động học tập, vui chơi đúng cách, vừa sức với trẻ.
* Tăng cường giáo dục phát triển vận động cho trẻ
Để tăng cường phát triển vận động cho trẻ, tôi đã tổ chức cho trẻ tham gia
những hoạt động có chủ đích, bước đầu là rèn các kỹ năng vận động như: Khởi
động - trọng động - trò chơi - hồi tĩnh, hay rèn cho trẻ kỹ năng tập đúng động
tác, đúng kỹ thuật.
Sự phát triển vận động gắn chặt với sự phát triển toàn bộ cơ thể và tâm lý
của trẻ. Vì vậy, tơi lựa chọn bài tập, trị chơi vận động có tác dụng chung đến cơ
thể và nhiều cơ bắp tham gia, chọn bài tập vừa sức giáo dục tư thế đúng, giáo
dục kỹ năng hành động và vận động trong tập thể.
Qua quá trình hướng dẫn trẻ tôi luôn tạo ra sự hứng thú, hấp dẫn trong
q trình tham gia vận động cho trẻ.
Ví dụ: Các trò chơi vận động như: Mèo đuổi chuột, dung dăng dung dẻ,
bịt mắt bắt dê, nhà ai bán lợn… Trị chơi thể thao như ném bóng rổ, tung bóng

qua dây, chạy nhanh 40m,… Là những hình thức hoạt động hấp dẫn trẻ em và có
tác dụng giáo dục rất cao, giúp trẻ đồn kết khi chơi, tính kiên trì nhẫn nại, tính
kỷ luật cũng được hình thành từ các trò chơi vận động này, trẻ tham gia chơi
hiệu quả là góp phần nâng cao chất lượng lĩnh vực phát triển thể chất.


10

Hình ảnh: Trẻ chơi TCVĐ: “Nhà ai bán lợn”.
Để đảm bảo sức khỏe cho trẻ tôi luôn nghiêm túc thực hiện chế độ sinh
hoạt một ngày của trẻ. Chế độ sinh hoạt phải thỏa mãn nhu cầu phát triển phù
hợp với độ tuổi, đảm bảo điều kiện vệ sinh cho trẻ và tạo ra cảm giác an toàn,
xuất phát từ nhu cầu tự nhiên, khơng gị ép, áp đặt.
Coi trọng nguyên tắc vừa sức, đặc điểm cá nhân, đảm bảo theo trình tự dễ
trước, khó sau, đơn giản trước, phức tạp sau, tạo nề nếp và thói quen cho trẻ.
Trong q trình tổ chức cho trẻ tập luyện, tơi lựa chọn hình thức phù hợp
nhằm phát huy tính tích cực ở trẻ, cần linh động trong tổ chức tập luyện.
Ví dụ: Khi tổ chức cho cháu bò theo hướng thẳng và ném bóng vào đích
cơ quy định rõ “mốc” mà bạn thứ nhất bị đến thì bạn tiếp theo đã vào vạch xuất
phát để dành thời gian cho các cháu luyện tập. Chú ý rèn cho trẻ ý thức tổ chức
kỷ luật biết chờ đến lượt không chen lấn xô đẩy nhau, thực hiện đúng luật chơi.
Sau khi tổ chức ở hoạt động học, tôi luôn củng cố kỹ năng cho trẻ qua trò
chơi ở mọi lúc mọi nơi.
Tận dụng mơi trường sẵn có, các đồ chơi phát triển thể lực tôi định hướng
và bao quát cho trẻ chơi tránh sợ trẻ mệt, ngã mà không cho trẻ chơi những vận
động mà trẻ thích. Bao quát và xử lý kịp thời đối với những trẻ hiếu động tránh
để trẻ hoạt động q sức và khơng đảm bảo an tồn cho trẻ đồng thời chú ý đến
trẻ có thể lực, sức khỏe yếu hơn mà giao nhiệm vụ vừa sức khi chơi.
Ví dụ: Dạy trẻ bài chạy 40m, đây là yêu cầu dành chung cho cả lớp, song
nếu lớp có 1 - 2 cháu thể lực yếu hơn thì cơ có thể chạy cùng trẻ, để động viên

và dìu chân trẻ chạy, nếu thấy trẻ mệt không đủ sức chạy tiếp cơ giáo có thể ra
lệnh cho trẻ ngừng chạy, đi vừa, đi chậm để đảm bảo sức khỏe.
Qua việc tổ chức các vận động, các trị chơi, tơi nắm được đặc điểm tâm
sinh lý những sai sót yếu kém của từng trẻ để lựa chọn nội dung và phương pháp
hướng dẫn phù hợp. Trẻ khỏe mạnh nhanh nhẹn hoạt bát tự tin trong mọi hoạt
động kỹ năng vận động năng lực phối hợp cảm giác năng lực định hướng trong
vận động tốt và 100% trẻ có thói quen vệ sinh tốt, giữ gìn thân thể gọn gàng,
sạch sẽ.


11

2.3.2. Giải pháp 2: Chuẩn bị tốt về mặt ngôn ngữ và kỹ năng chuẩn bị
cho hoạt động tiền đọc, tiền viết
Ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch rèn luyện và phát triển
ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt
động như: Thơng qua trị chuyện, giao tiếp thường ngày, thông qua các hoạt
động học tập nhất là: Hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học: Đọc
thơ, đồng dao, kể lại chuyện… Nhằm cung cấp cho trẻ vốn từ phong phú về thế
giới xung quanh, phát triển ngơn ngữ nói mạch lạc. Tạo điều kiện cho trẻ diễn
đạt một cách rõ ràng nguyện vọng của mình, uốn nắn kịp thời ngơn ngữ của trẻ.
Như việc nói câu có nghĩa, đủ chủ ngữ - vị ngữ.
Khi cho trẻ chơi ở Góc học tập – Sách: Tơi tập cho trẻ kỹ năng mở - lật
sách nhẹ nhàng không làm nhàu sách, hướng dẫn trẻ kể truyện sáng tạo theo
tranh và yêu cầu trẻ lật sách đến trang số cần học.
Ví dụ: Tơi u cầu trẻ lật sách đến trang số 8, 9, hoặc 15.
Hay trong giờ LQVTPVH, qua hoạt động đọc thơ kết hợp với tranh thơ
chữ to, tơi hướng dẫn trẻ đọc thơ tình cảm, và mỗi một tiếng chỉ vào một từ
trong tranh, trong môi trường giàu chữ viết sẽ giúp trẻ có được những kỹ năng
cần thiết cho việc đọc sau này. Việc nhận biết chữ cái, từ đơn giản sẽ giúp trẻ có

hứng thú hơn với việc đọc.

Hình ảnh: Trẻ đọc thơ, và kể truyện trước lớp.
Thông qua đọc thơ, kể chuyện nhằm cung cấp cho trẻ vốn từ phong phú
về thế giới xung quanh, phát triển ngơn ngữ nói mạch lạc. Thơng qua ngơn ngữ,
lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự vật hiện tượng và hiểu được đặc
điểm, tính chất, cấu tạo, cơng dụng của chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ
và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp trẻ
mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh.
Ví dụ: Tơi cho trẻ kể lại những gì trẻ đã quan sát được về đặc điểm, cấu
tạo, tính chất, cách sử dụng, cách bảo quản… của sự vật hiện tượng đó.
Để phát triển ở trẻ khả năng sử dụng ngôn ngữ trong cuộc sống hàng ngày
một cách phong phú, hình thành một số kỹ năng chuẩn bị cho việc đọc, viết,
thông qua các hoạt động sinh hoạt, học tập, lao động, các buổi tham quan, dạo
chơi… Tơi khuyến khích trẻ sử dụng tiếng mẹ đẻ, mở rộng vốn từ về thế giới
xung quanh, tập cho trẻ biết diễn đạt một cách rõ ràng, mạch lạc, khơng nói
ngọng, nói lắp, nói lí nhí.
Ví dụ: Ở vườn rau của bé, chúng tôi thường cắm những biển tên vào từng


12

loại rau, khi tham quan tôi cho trẻ gọi tên những loại rau, và nêu đặc điểm của
từng loại rau đó, nhằm cung cấp vốn từ, và phát triển ngơn ngữ cho trẻ..
Như vậy, phát triển khả năng tiền đọc ở đây được đề cập đến chính là việc
tạo cơ hội để trẻ hiểu được ý nghĩa và vai trò của việc đọc trước khi dạy trẻ phân
biệt chữ cái, âm tiết hay từ.
Hướng dẫn trẻ nhận biết chữ cái là một trong những nội dung cùng với
các nội dung khác giúp trẻ hiểu và biết cách sử dụng biểu tượng và ký hiệu viết
nhằm phát triển khả năng tiền đọc, chuẩn bị tiền đề vững chắc cho việc học đọc

sau này.
Ví dụ: Ngay từ đầu năm học, tơi đã rèn cho trẻ nhận biết được đồ dùng cá
nhân của mình qua kí hiệu. Ở mỗi khăn của trẻ, tơi đã thêu những kí hiệu khác
nhau: Tên chữ cái đầu của trẻ, mặt trời, bông hoa… để trẻ nhận ra và đọc được
kí hiệu đó.
Hướng dẫn trẻ kỹ năng tơ, ngồi, cầm bút, kỹ năng tơ trùng khít thơng qua
các hoạt động: Tập tô chữ cái, chữ số, vẽ tranh, nặn
Cho trẻ tự viết: Tạo môi trường chữ viết thuận lợi cho trẻ. Các cuốn sách,
tranh cho trẻ đọc, giấy, bút, thiệp, các bản sao chép các nét gần giống với nét
chữ, bảng chữ cái, bảng ký hiệu,... sẽ giúp trẻ học cách tự luyện tập, tự “viết”
các câu chuyện của mình đồng thời khuyến khích trẻ chia sẻ, giới thiệu những
“sản phẩm” mà mình đã tạo ra.
Ví dụ: Trong các hoạt động vui chơi, hoạt động góc đặc biệt là góc bác sĩ
và góc bán hàng tơi ln khuyến khích trẻ sau khi khám bệnh phải kê đơn thuốc
cho bênh nhân, hay ở góc bán hàng thì người bán hàng sẽ viết hóa đơn cho
người mua hàng.
Như vậy, việc cho trẻ làm quen với đọc, viết đã phát triển khả năng tiền
đọc, tiền viết được chuẩn bị đồng thời với việc phát triển khả năng nghe và sử
dụng lời nói của trẻ. Các hoạt động này khơng nhấn mạnh đến việc phát triển
các kỹ năng riêng lẻ mà đã tập trung vào hình thành ở trẻ tất cả những tiền đề
cần thiết cho việc phát triển khả năng đọc, viết của trẻ vào tiểu học.
2.3.3. Giải pháp 3: Chuẩn bị tốt về mặt nhận thức cho trẻ, hình thành
một số kỹ năng cần thiết tạo cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự kiểm sốt, có trách
nhiệm, độc lập, kiên định
Để chuẩn bị sẵn sàng tâm thế cho trẻ an tâm vào lớp 1, tôi luôn đề cao
công tác “Chuẩn bị tốt về mặt nhận thức, hình thành một số kỹ năng cần thiết
tạo cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự kiểm sốt, có trách nhiệm, độc lập, kiên định”
Đây là những yêu cầu cơ bản đối với trẻ, trong bước ngoặt tự tin đến với Trường
Tiểu học.
Hoạt động học tập ở Trường Tiểu học diễn ra trong thời gian khá dài. Vì

vậy tơi ln rèn luyện cho trẻ biết tập trung chú ý vào những vấn đề cần nhận
thức, dạy trẻ biết tập trung chú ý trong giờ học để giúp trẻ giải quyết nhiệm vụ
học tập tốt. Trong các hoạt động hàng ngày, tôi luôn tạo điều kiện giúp trẻ chú ý
từ không chủ định sang chú ý có chủ định.
Bên cạnh đó tơi cũng tập cho trẻ hồn thành dứt điểm cơng việc trong một
thời gian nhất định: Chơi trong bao lâu, thực hiện cơng việc đó trong bao lâu thì


13

kết thúc,…điều này rất cần thiết cho trẻ, nó giúp cho trẻ hồn thành cơng việc
của người học sinh khi lên lớp một.
- Phát triển khả năng tư duy cho trẻ: Ở mẫu giáo lớn thì tư duy trực quan
hình tượng chiếm ưu thế. Vì vậy để phát triển tư duy hình tượng cho trẻ tơi ln
chú ý cung cấp cho trẻ các biểu tượng đa dạng, dồi dào về thế giới xung quanh
giúp trẻ hệ thống hóa, chính xác hóa những biểu tượng đó, và đưa ra được kết
quả chính xác.
Ví dụ: Tơi giới thiệu cho trẻ đặc điểm của một con vật và yêu cầu trẻ nói
tên con vật đó.
- Định hướng vào mơi trường xung quanh: Khả năng định hướng về
không gian và thời gian là một biểu hiện của sự phát triển trí tuệ. Nó khơng chỉ
giúp trẻ thích ứng với mơi trường sống mà cịn là điều kiện giúp trẻ tiếp thu, lĩnh
hội kiến thức ở phổ thông.
- Định hướng trong không gian, thời gian: Cuối tuổi mẫu giáo phần lớn trẻ
đã trẻ biết xác định được không gian trên, dưới, trước, sau, phải, trái và thời gian
như: Sáng, trưa, chiều, tối, hôm qua, hôm nay,… Nhưng lớp tơi vẫn cịn một số
trẻ nhầm lẫn, chưa phân biệt được. Vì vậy trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi,
học tập tôi thường xuyên rèn luyện cho trẻ. Vì nếu trẻ khơng phân biệt được vị
trí trong khơng gian và thời gian thì sẽ khó khăn hơn trong việc tiếp thu kiến
thức ở các môn học.

- Tự tin là khi trẻ mạnh dạn thể hiện các khả năng bản thân trong mối
quan hệ với xã hội, trẻ không ngại khám phá những điều mới mẻ, thú vị trong
cuộc sống. Từ đó tạo tiền đề giúp trẻ tự trau dồi và học tập các kiến thức, kỹ
năng một cách dễ dàng hơn. Tự tin cũng là yếu tố giúp trẻ vượt qua hầu hết
những khó khăn, trở ngại mà bất kỳ ai cũng sẽ phải đối mặt trong cuộc đời.
Để bước vào môi trường học tập và sinh hoạt mới mà ở đó địi hỏi tính
độc lập, tự kiểm sốt, có trách nhiệm, tự giác và chủ động cao, việc hình thành
những kỹ năng sinh hoạt tối thiểu cho trẻ là thực sự cần thiết, giúp trẻ tự giác,
tích cực, tự tin tham gia vào các hoạt động hàng ngày ở Trường Tiểu học.
Những kỹ năng này bao gồm:
- Kỹ năng học tập: Với đòi hỏi của Giáo dục Tiểu học, để trẻ vào lớp 1
theo kịp được chương trình học thì việc chuẩn bị cho trẻ có các kỹ năng học tập
là vơ cùng cần thiết. Những kỹ năng đầu đời này sẽ trở thành thói quen của trẻ
trong suốt những năm học ở Trường Tiểu học và Phổ thơng. Vì vậy, tơi rèn cho
trẻ thói quen ngồi học ngay ngắn, khơng nói chuyện, ngồi học đúng tư thế.
Ví dụ: Giờ tập tơ: Tơi tập cho trẻ ngồi thẳng lưng, để sách, vở ngay ngắn,
không cúi đầu quá sát khi hoặc viết, tô màu...
- Dạy cho trẻ kỹ năng sử dụng các dụng cụ học tập: Sử dụng bút chì, bút
màu, cầm bút đúng cách, sử dụng thước kẻ, cách để sách khi viết, vẽ, tô màu...
tạo cho trẻ thói quen gọn gàng, chỉ lấy những dụng cụ học tập nào cần sử dụng
ra khỏi hộp đựng, túi, cặp và cất đúng chỗ sau khi sử dụng xong, dạy trẻ biết bảo
quản đồ dùng học tập của mình.
- Kỹ năng lao động và kỹ năng tự phục vụ: Ngồi lao động tự phục vụ, tơi
tập cho trẻ tham gia vào các hoạt động theo nhóm, tập thể và hình thành ở trẻ


14

tinh thần trách nhiệm với cơng việc được giao.
Ví dụ: Trực nhật lớp, chăm sóc cây, tưới cây cùng cơ làm việc ở khu

vườn trường, vệ sinh sân trường, vệ sinh đồ dùng, đồ chơi …..

Hình ảnh: Trẻ vệ sinh lớp học và tưới hoa cùng cơ.
Để hình thành kỹ năng lao động và thực hiện các nhiệm vụ lao động cho
trẻ, tơi đã: Giải thích tỉ mỉ ý nghĩa của công việc, dạy trẻ những phương thức, kỹ
năng làm việc cần thiết (đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công cụ và vật liệu);
hướng dẫn trẻ cùng nhau lập kế hoạch và phối hợp hoạt động trong nhóm.
Những kỹ năng lao động cần thiết giúp trẻ có thể độc lập thực hiện quá trình lao
động hay tham gia vào hoạt động của nhóm. Đây là điều kiện thiết yếu để trẻ dễ
dàng hịa nhập với mơi trường học tập và sinh hoạt ở các bậc học cao hơn.
- Tơi dạy cho trẻ về tính trách nhiệm và biết tự kiểm sốt hành vi, thái độ
của mình, phải thẳng thắn nhận lỗi khi gây ra lỗi, và không được đổ lỗi cho bạn
khác. Dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình, bằng cách: Làm sai thì
hãy nói lời “xin lỗi”, nhận được giúp đỡ thì hãy nói lời “cảm ơn”.
Ở cuối độ tuổi Mầm non, thì tính độc lập và kiên định là vô cùng cần thiết
để trẻ khẳng định mình, trước khi trẻ tách khỏi cha mẹ, tôi trao đổi với phụ
huynh hãy để con tự phục vụ những cơng việc vừa sức tại gia đình, hãy ln
khích lệ trẻ để trẻ thực hiện tốt mọi cơng việc.
Như vậy, qua việc tổ chức các họat động để phát triển nhận thức cho trẻ,
tôi thấy rằng: Trẻ được thực hành, được trải nghiệm, tạo cơ hội cho trẻ được học
theo nhóm nhỏ, trẻ biết chia sẻ ý tưởng cùng nhau, tăng cường sự hợp tác giữa
giáo viên và trẻ, kích thích tính sáng tạo, tính tự lập, tính tích cực nhận thức của
trẻ. Tạo tiền đề vững chắc về trí tuệ cho trẻ khi vào Tiểu học.
2.3.4. Giải pháp 4: Tạo cho trẻ cơ hội trải nghiệm
Khi bước vào lớp 1 là trẻ sẽ chuyển sang một giai đoạn mới trong cuộc
đời. Tuy nhiên khi bước vào lớp 1 thì chương trình học, mơi trường học, giờ
giấc đều thay đổi địi hỏi trẻ phải thích nghi. Để trẻ khỏi bỡ ngỡ khi đến học ở
trường mới, tôi đã rèn cho trẻ một số thói quen, và những kỹ năng cơ bản:
- Giờ sinh hoạt: Tôi tạo cơ hội cho trẻ làm quen dần với giờ sinh hoạt ở
Trường Tiểu học bằng cách: Cho trẻ thức dậy sớm hơn bình thường 30 phút, để

trẻ tự vệ sinh cá nhân, thay quần áo, chải tóc…


15

- Trò chuyện với trẻ về Trường Tiểu học: Ở cuối độ tuổi Mầm non, tôi
dành 45 phút mỗi ngày trị chuyện với trẻ, để trẻ có ấn tượng về Trường Tiểu
học: Đây là Trường Tiểu học Điền Trung. Ngôi trường sẽ đón nhận các con khi
các con bước vào lớp 1.

Hình ảnh: Trường Tiểu học Điền Trung.
Đến với Trường Tiểu học, các con sẽ được khám phá và làm quen với rất
nhiều điều mới. Chúng mình sẽ được học với Thầy cô giáo mới, được làm quen
với nhiều bạn mới. Ở đây các con chủ yếu là học tập cặp sách để đựng sách vở
và đồ dùng học tập, không giống như ở Trường Mầm non các con vừa chơi vừa
học, cặp sách chúng mình mang thêm quần áo, bánh, sữa. Vì vậy các con phải có
thói quen nề nếp học tập: Đi học đúng giờ, học bài và ghi chép bài đầy đủ, chấp
hành đúng nội quy của nhà trường.
Khi vào lớp 1 các con đã khôn lớn, các con phải biết tự lập, khơng có sự
giúp đỡ của cơ hay của bố mẹ, Vì vậy các con phải nghiêm túc, học hành chăm
chỉ để ba mẹ, thầy cơ, bạn bè u mến…
- Rèn cho trẻ thói quen lao động, tự phục vụ: Ngay từ đầu năm học, tôi đã
hướng dẫn và rèn cho trẻ kỹ năng tự phục vụ: Tự thay quần áo, tự buộc tóc, tự đi
dép, tự kê bàn ghế, vệ sinh cá nhân…
- Thể hiện chính kiến của bản thân: Tơi tạo cơ hội để trẻ thể hiện sự kiến
định của mình.
Vi dụ: Khi ôn lại chữ cái đã học “h, k”, tôi gọi trẻ lên và đọc chữ cái, tơi
sẽ nói con đọc chưa đúng rồi, và khi đó trẻ sẽ đưa ra cấu tạo của chữ cái để xác
định rằng đó là chữ “h, k”
- Khích lệ trẻ để trẻ tự tin: Trong những việc trẻ làm sẽ có những việc

chưa đạt u cầu, mặc dù vậy tơi ln động viên, khích lệ trẻ để lần sau trẻ sẽ


16

thực hiện tốt hơn.
- Tạo cơ hội để trẻ thực hiện trách nhiệm của bản thân: Tôi cho trẻ tham
gia hoạt động góc, ở góc bác sỹ, tơi sẽ là người đóng vai bệnh nhân đến khám
bệnh, lúc đấy trẻ sẽ thể hiện vai bác sỹ của mình. Tơi dạy cho trẻ cách quan tâm
đến mọi người xung quanh: Khi bạn của mình bị ngã, con phải chạy đến đỡ bạn
đứng dậy, và động viên bạn.
- Cho trẻ làm quen với một số đồ dùng ở Trường Tiểu học: Hộp bút, thước
kẻ, hộp màu, sách giáo khoa, vở, bút mực…

Hình ảnh: Trẻ LQ với một số đồ dùng học tập ở Trường Tiểu Học
- Cho trẻ xem các video, hay tư liệu về Trường Tiểu học, xem các anh chị
học tập và vui chơi như thế nào để trẻ có ấn tượng và mong muốn được đến
trường để khám phá.
Qua việc tổ chức các hoạt động, và cho trẻ được trải nghiệm các kỹ năng
trên thì tơi nhận thấy trẻ đã hào hứng với ngơi trường mới, có thêm nhiều hiểu
biết về Trường Tiểu học. Là một tâm thế vững chắc cho trẻ an tâm vào lớp 1.
2.3.5. Giải pháp 5: Phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc thực hiện
mục tiêu giáo dục trẻ
Công tác chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 không chỉ là việc của cô giáo mà cịn
là của gia đình trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch phối
hợp với phụ huynh để chăm sóc, giáo dục trẻ, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Trao
đổi, thống nhất với gia đình về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức
chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Giải thích cho phụ huynh hiểu tầm quan trọng việc
cho trẻ 5 - 6 tuổi chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào Trường Tiểu học. Sự chuẩn bị này
cần tập trung vào các lĩnh vực: Thể chất, dinh dưỡng, nhận thức, ngôn ngữ, cảm

xúc, quan hệ xã hội, động cơ học tập. Việc chuẩn bị này không phải tập trung
vào kỹ năng học tập (viết, đọc) mà là phát triển các chức năng tâm lý đảm bảo
cho việc học.
Lựa chọn nội dung tuyên truyền cho phụ huynh là một trong những nhiệm
vụ được tơi rất chú trọng quan tâm vì tơi ln nghĩ rằng phụ huynh là trợ thủ đắc


17

lực trong việc chăm sóc, ni dạy trẻ. Vì thế bản thân tôi thường xuyên trao đổi
với phụ huynh về tình hình học tập và vui chơi của trẻ ở lớp, những gì mà trẻ
quan tâm… tơi trao đổi cho phụ huynh hiểu và ủng hộ những gì mà tơi đã chuẩn
bị tâm thế cho trẻ vào Trường Tiểu học.
Tôi luôn nhấn mạnh cho phụ huynh biết rằng khi trẻ được tới Trường
Mầm non để học thì có thể nói hầu hết trẻ đã hồn thành chương trình mẫu giáo
5 tuổi, đều đạt được các chuẩn phát triển về kiến thức
Song từ đó, tơi cũng giải thích cho phụ huynh biết rằng do đặc điểm phát
triển và môi trường sống cụ thể của từng trẻ khác nhau nên mức độ và sự hồn
thiện trong từng lĩnh vực ln có sự khác biệt. Bởi vậy, các bậc phụ huynh rất
cần tìm hiểu các chỉ số cơ bản trong “Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi” từ đó
mà các phụ huynh cần phải biết và kết hợp cùng cô giáo để giúp con mình cần
bổ sung phát triển hồn thiện những chỉ số quan trọng chuẩn bị cho hoạt động
học tập ở lớp 1.
Ngồi ra, tơi cịn tun truyền với cha mẹ trẻ về kiến thức để dạy cho trẻ
cần phải phù hợp với độ tuổi, không nên cho trẻ học trước sẽ dẫn đến trờn não
trẻ, và gây cho trẻ sự nhàm chán. Vì thế tơi thường xun trao đổi, chia sẻ với
phụ huynh về kiến thức phù hợp đối với trẻ, để phụ huynh hiểu và không ép con
học trước chương trình, nhằm tạo tâm thế cho con thoải mái, có đủ tự tin trong
giao tiếp, kỹ năng sống để con sẵn sàng vào lớp 1.
Để giải thích cho một số phụ huynh nơn nóng, mong muốn cho con học

trước chương trình, tơi thường xun giải thích cho phụ huynh hiểu rằng ở
Trường Mầm non chuẩn bị cho trẻ vào lớp một bằng chương trình dạy làm quen
với chữ cái và con số. Học chữ ở tuổi Mầm non chỉ tạo nền tảng bước đầu cho
trẻ, khi vào lớp 1 trẻ mới thực sự được dạy theo chương trình đúng chuẩn. Mục
đích giáo dục Mầm non là chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Các cô giáo Mầm
non cũng khơng có chức năng và nhiệm vụ dạy học cho trẻ như các cơ giáo Tiểu
học.
Đồng thời tơi cịn nhắc nhở phụ huynh kết hợp cùng với cô giáo giúp trẻ
có những kĩ năng sống tốt nhất. Bởi khi bước vào Trường Tiểu học vấn đề kỹ
năng sống cho trẻ rất quan trọng.
Tôi chia sẻ và tuyên truyền với phụ huynh về thời gian học và chế độ sinh
hoạt hằng ngày ở Trường Tiểu học.
Ví dụ: Cha mẹ hãy cho con đi học chuyên cần, đúng giờ, không mang quà
bánh đến trường, tạo cho trẻ thói quen tự lập trước khi vào lớp.
Tôi hướng dẫn cha mẹ trẻ: Cách đưa con và đón con tại Trường Tiểu học,
và hãy ln lắng nghe, trao đổi với trẻ sau một ngày học tập, hãy quan tâm đến
cảm xúc của con, và hỗ trợ việc học của con, tạo tâm thế cho con, để con cảm
thấy yên tâm khi thay đổi môi trường học tập.
Ví dụ: Cha mẹ hãy nhắc nhở con chuẩn bị quần áo, cặp sách, đồ dùng học
tập sẵn sàng cho ngày mai đến lớp.
Vì thế tơi thường xun trao đổi, liên lạc với phụ huynh qua góc tuyên
truyền của lớp “Những điều cha mẹ cần biết”, qua điện thoại, hay giờ đón trẻ, để
phụ huynh hiểu được các kỹ năng học tập, lao động tự phục vụ bản thân của trẻ


18

qua các chủ đề trong năm học và từ đó giúp họ hiểu hơn về công tác chuẩn bị để
sẵn sàng cho trẻ vào lớp 1.
Ngồi ra tơi cịn làm tốt công tác tham mưu với BGH nhà trường để có kế

hoạch phối kết hợp với Trường Tiểu học trong việc tạo tâm thế khi tiếp nhận trẻ
vào lớp 1.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình tổ chức các hoạt động hàng ngày nhằm tạo tâm thế cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở Trường Mầm non Điền Trung chuẩn bị vào lớp một. Bằng
các biện pháp cụ thể mà tôi đã thực hiện, chất lượng cuối năm học đã có những
chuyển biến rõ nét như sau:
Bảng khảo sát chất lượng sau khi áp dụng SKKN
Đạt
Chưa đạt
Tổng
STT
Nội dung khảo sát
số
Số
Số
Tỉ lệ
Tỉ lệ
trẻ trẻ
trẻ
1
Tâm thế trẻ tự tin thể hiện rõ mong
muốn của mình bằng câu nói mạch 29
29 100% 0
0%
lạc.
2
Trẻ có nề nếp, kỷ luật tốt trong việc
29
29 100% 0

0%
tham gia các hoạt động.
3
Đảm bảo đủ điều kiện về mặt thể
chất, trẻ có kỹ năng lao động tự phục 29
29 100% 0
0%
vụ.
4
Trẻ thích ứng với mơi trường mới,
có khả năng liên kết khi thay đổi mơi 29
28 97%
1
3%
trường, thay đổi tổ, nhóm bạn.
5
Khả năng tập trung của trẻ khi thực
29
27 93%
2
7%
hiện nhiệm vụ.
6
Trẻ có kỹ năng nhận thức để đáp ứng
các đòi hỏi học đường: Tự kiểm
29
28 97%
1
3%
soát, tự tin, trách nhiệm, độc lập,

kiên định.
Qua bảng kháo sát trên cho ta thấy: 100% trẻ đã tự tin thể hiện rõ mong
muốn của mình bằng những câu nói mạch lạc.
Và trẻ có nề nếp, kỷ luật tham gia các hoạt động, đảm bảo đủ điều kiện về
mặt thể chất, trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ, tỉ lệ trẻ chưa đạt khơng cịn
nữa.
Bên cạnh đó, số trẻ thích ứng với mơi trường mới, có khả năng liên kết
khi thay đổi môi trường, thay đổi tổ, nhóm bạn đã tăng lên 56%. Hay tỉ lệ trẻ
chưa đạt trong khả năng tập trung của trẻ khi thực hiện nhiệm vụ đã giảm 48%
so với đầu năm.
Đặc biệt là trẻ có kỹ năng nhận thức để đáp ứng các địi hỏi học đường:
Tự kiểm sốt, tự tin, trách nhiệm, độc lập, kiên định đã tăng lên rõ rệt.
Ngoài ra, khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm cịn có tác dụng đối với:
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục


19

Sau khi thực hiện “Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ lớp mẫu
giáo 5 - 6 tuổi A2 vào lớp 1 tại Trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước,
tỉnh Thanh Hóa” tơi đã thu được kết quả tốt, số trẻ mạnh dạn, tự tin khi tham gia
các hoạt động học tập, vui chơi, lao động đã tăng lên rõ rệt, đặc biệt là trẻ đã
mạnh dạn tham gia các hoạt động một cách tích cực và chủ động trong các tình
huống.
Trẻ đã mạnh dạn trao đổi với cô giáo và mọi người xung quanh về mong
muốn của bản thân. Từ đó kết quả của các hoạt động giáo dục do tôi tổ chức
được nâng lên rõ rệt. Và trẻ có được những kiến thức, những kỹ năng cơ bản
trước khi bước vào lớp 1.
2.4.2. Đối với bản thân
Với những biện pháp như trên tôi đã vận dụng vào tình hình thực tế một

cách hợp lý và kết quả mang lại rất khả quan, tôi đã biết cách lựa chọn nội dung,
hình thức trong mọi hoạt động chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ, đặc biệt có
kinh nghiệm hơn trong việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo lớn vào lớp 1.
Mặt khác tơi cịn nắm bắt và hiểu rõ hơn về tâm sinh lý của trẻ theo lứa tuổi để
từ đó có thể dễ dàng giúp trẻ sớm thích nghi với mơi trường học tập mới. Qua
q trình thực hiện tơi thấy mình được nâng cao hơn về chuyên môn, nghiệp vụ
sư phạm cũng như phương pháp giảng dạy, đặc biệt việc chuẩn bị tâm thế cho
trẻ vào lớp 1.
Qua đây rèn cho tơi tính ham học hỏi, sống trách nhiệm, ln tìm tịi ra
cái mới để giúp trẻ hoạt động một cách tích cực hơn, từ đó tạo cho tơi một thói
quen tốt, và luôn gần gũi tươi cười với trẻ, với phụ huynh, giúp tơi có kỹ năng
hơn trong giao tiếp và cơng tác tuyên truyền.
Bản thân cũng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc chuẩn bị hành
trang cho trẻ vào lớp 1.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp
Đây cũng là một kinh nghiệm cho bạn bè đồng nghiệp quan tâm và học
hỏi. Để có thêm kiến thức và kỹ năng chuẩn bị tâm thế cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi vào lớp 1.
Qua đó đồng nghiệp sẽ hiểu được tầm quan trọng trong việc chuẩn bị tâm
thế cho trẻ không chỉ là trẻ lên lớp 1, mà là tâm thế để chuyển tiếp trong bậc học
mầm non, từ lớp nhà trẻ lên lớp bé, hay từ lớp nhỡ lên lớp lớn.
Từ đó công tác tuyên truyền, phối kết hợp của đồng nghiệp với phụ huynh
được nâng lên.
2.4.4. Đối với nhà trường
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được nhà trường lựa chọn và phổ biến
cho toàn thể giáo viên trong nhà trường tham khảo và áp dụng có tính khả thi
cao phù hợp với điều kiện của lớp, của trường. Vì thế chất lượng giáo dục của
nhà trường ngày càng được nâng cao, phụ huynh yên tâm và phấn khởi khi đưa
con tới học tại trường.
Qua đề tài nghiên cứu của bản thân, nhà trường đã xây dựng kế hoạch chỉ

đạo các lớp chuẩn bị tâm thế cho trẻ, cũng như kế hoạch phối kết hợp với
Trường Tiểu học tạo tâm thế cho trẻ 5 - 6 tuổi khi tiếp nhận trẻ vào lớp 1.


20

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua việc nghiên cứu, lựa chọn các biện pháp để tạo tâm thế cho trẻ vào
lớp 1, tôi thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ
thông, thấy được phải làm như thế nào để công tác chuẩn bị được tốt, vừa phù
hợp với yêu cầu của ngành đã đề ra, vừa phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Đồng thời
cũng thấy được chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 không phải là việc làm của riêng ai,
của ngành học nào, gia đình nào mà là của tồn xã hội.
Việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 cần chuẩn bị một cách tồn diện, khơng
coi trọng mặt nào, buông lỏng mặt nào. Chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 sẽ tạo tiền đề
cho việc học tập sau này của trẻ. Vì vậy giáo viên đứng lớp phải ln học hỏi
trau dồi kiến thức để nuôi dạy trẻ ngày càng tốt hơn.
Để thực hiện tốt việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1 thì khơng riêng gì
nhiệm vụ của giáo viên mà cịn phải có sự phối hợp tốt và sự hỗ trợ của gia đình,
nhà trường và xã hội.
Nghiên cứu, tìm tịi, thiết kế những giáo án hay có ứng dụng cơng nghệ
thơng tin trong cơng tác giảng dạy.Tuyệt đối giáo viên không dạy trẻ trước
chương trình lớp 1.
Cần nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của giáo dục Mầm non nói chung và
của đội ngũ giáo viên trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ nói riêng. Từ đó làm
sao để hồn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Cần có ý kiến báo cáo đề xuất kịp thời cho BGH trong q trình chăm
sóc, giáo dục, nuôi dưỡng trẻ để đảm bảo sao cho trẻ được chăm sóc tốt về thể
chất và phát triển tồn diện cho trẻ. Giúp trẻ tự tin và mong muốn được học ở

Trường Tiểu học. Phải biết lắng nghe tham khảo học hỏi kinh nghiệm góp ý của
BGH cùng đồng nghiệp để chọn lọc ý kiến tiếp thu ý kiến hay.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với phòng giáo dục
- Hằng năm khi mở các chuyên đề nên đưa vào nội dung chuẩn bị tâm thế
cho trẻ vào lớp 1 để giáo viên học hỏi kinh nghiệm.
- Những sáng kiến hay, sáng kiến được HĐKH cấp trên xếp loại nên được
nhân rộng: Mở hội thảo, hoặc gửi về nhà trường để giáo viên tham khảo và học
hỏi thêm kinh nghiệm.
3.2.2. Đối với nhà trường
- Nhà trường tích cực tham mưu với lãnh đạo cấp trên để tăng cường thêm
trang thiết bị dạy học, mua sắm bổ sung thêm đồ dùng đồ chơi để phục vụ cơng
tác chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ được tốt hơn.
- Cung cấp thêm tài liệu có liên quan đến việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ
vào lớp 1 để giáo viên tham khảo.
Trên đây là một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ lớp mẫu giáo 5 - 6
tuổi A2 vào lớp 1 tại Trường Mầm non Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh
Thanh Hóa mà tơi rút ra được trong q trình giảng dạy. Những gì đạt được cịn
rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp theo. Rất mong sự
nhận xét góp ý của Hội đồng khoa học Trường Mầm non Điền Trung, Hội đồng


21

khoa học các cấp để bản thân có thêm kinh nghiệm trong cơng tác nâng cao chất
lượng chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Bá Thước, ngày 15 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Vinh

Nguyễn Thị Lan


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ánh Tuyết. (1999). Chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào trường phổ
thông. NXB Giáo dục.
2. Sách: Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non. Tác giả: Nguyễn Ánh Tuyết
(Chủ biên). NXB: ĐHSPHN
3. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên hè năm 2020



×