Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Phong trào đấu tranh chính trị ở đà nẵng giai đoạn 1954 1960

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.19 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TRIẾT LÝ NHẬP THẾ CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
VỚI SỰ NGHIỆP GIỮ VÀ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
THỜI TRẦN

Giáo viên hướng dẫn : TS. TRẦN NGỌC ÁNH
Sinh viên thực hiện

: BÙI THỊ HOÀNG

Lớp

: 10SGC

Đà Nẵng, tháng 5/2014


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin trân trọng bày tỏ lịng cảm ơn chân thành
đến thầy giáo TS. Trần Ngọc Ánh – người đã nhiệt tình,
chu đáo hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận này. Tơi xin
cảm ơn các thầy cơ giáo trong khoa Giáo dục Chính trị
Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng đã chỉ bảo giúp đỡ tơi
trong q trình thực hiện đề tài. Nhân dịp này, tôi xin chân
thành cảm ơn bạn bè và người thân đã ủng hộ, giúp đỡ tơi


hồn thành khóa luận này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do trình độ cịn hạn
chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được
sự đóng góp chân thành của thầy cô, bạn bè để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Bùi Thị Hoàng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
5. Bố cục đề tài .................................................................................................. 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu....................................................................... 3
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chương 1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA
PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN ..................................................... 7
1.1. Hoàn cảnh ra đời củaPhật giáo Trúc Lâm thời Trần.................................. 7
1.1.1. Lịch sử du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam ....................... 7
1.1.1.1. Sơ lược về đạo Phật.............................................................................. 7
1.1.1.2. Sự du nhập Phật Giáo vào Việt Nam ................................................. 11
1.1.1.3 Phật Giáo trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam........................... 13
1.1.2. Bối cảnh ra đời của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần .............................. 16
1.2. Lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam thời Trần ..................................... 18
1.2.1. Phật giáo đầu thời Trần ......................................................................... 18
1.2.2. Phật giáo thời Trần nửa sau thế kỉ XIV ................................................ 18

1.3. Khái quát tư tưởng cơ bản Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ....................... 21
1.3.1. Khái quát tư tưởng thế giới quan Phật giáo Trúc lâm thời Trần........... 21
1.3.2. Khái quát tư tưởng Nhân sinh quan Phật giáo Trúc lâm thời Trần ...... 23
1.3.3. Vai trò lịch sử của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ................................ 25
Chương 2. TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO
TRÚC LÂM VÀ NHỮNG ĐĨNG GĨP VÀO CƠNG CUỘC GIỮ NƯỚC
VÀ DỰNG NƯỚC CỦA DÂN TỘC THỜI TRẦN .................................... 29
2.1. Triết lý nhập thế trong tư tưởng phương Đông ........................................ 29


2.1.1. Triết lý nhập thế trong Nho giáo ........................................................... 29
2.1.2. Triết lý nhập thế trong Phật giáo........................................................... 32
2.1.2.1. Triết lý nhập thế trong Phật giáo nguyên thủy................................... 32
2.1.2.2. Triết lý nhập thế trong lịch sử Phật giáo Việt Nam ........................... 35
2.2. Nhân sinh quan nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần .................. 37
2.2.1. Tinh thần “Vô ngã” ............................................................................... 37
2.2.2. Tinh thần “Tùy duyên”.......................................................................... 40
2.2.3 . Tinh thần “Hòa quang đồng trần” ........................................................ 44
2.3. Triết lý nhập thế của Phật giáo thời Trần với sự nghiệp giữ nước và xây
dựng đất nước. ................................................................................................. 47
2.3.1. Triết lý nhập thế với sự nghiệp chống xâm lược .................................. 47
2.3.2. Triết lý nhập thế với sự nghiệp xây dựng lại đất nước ......................... 57
2.3.2.1. Tạo lập cơ sở hệ tư tưởng xã hội và đồn kết dân tộc ....................... 57
2.3.2.2. Góp phần xây dựng gia giáo của người Việt ..................................... 59
2.3.2.3. Ảnh hưởng trong văn học................................................................... 60
2.3.2.4. Trong nghệ thuật, kiến trúc mỹ thuật ................................................. 61
2.4. Vấn đề kế thừa và phát huy tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo Trúc
lâm thời Trần trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay ........................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
ngày nay, bên cạnh những thành tựu vĩ đại mà nhân loại đạt được trong nền
văn minh vật chất thì những giá trị văn hố tinh thần, tơn giáo không hề bị
xem nhẹ, mà ngày càng được xem trọng hơn. Trong điều kiện lịch sử thời đại
mới, các tơn giáo khơng ngừng thay đổi bản thân mình để phù hợp với sự thay
đổi của xã hội. Chính sự phát triển và giao lưu giữa các tôn giáo đã góp thêm
phần thúc đẩy nhanh q trình tồn cầu hố trong các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, giữa các quốc gia.Vì vậy việc nghiên cứu tinh thần nhập thế của tôn giáo
là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nhân loại hiện nay đang bước vào giai đoạn hậu công nghiệp, nền văn
minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức. Bên cạnh đời sống kinh tế phát triển với một
khối lượng của cải vật chất đồ sộ do tiến bộ khoa học kỹ thuật mang lại, thì
đời sống tinh thần của con người trong xã hội hiện đại đang phải đối mặt với
những vấn nạn mới như: sự phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh và xung đột, ô
nhiễm môi trường, và sự tha hóa về mặt đạo đức lối sống… Đối mặt với
những vấn nạn ấy, Phật giáo với giá trị nhân bản trong việc giải thoát cho con
người dường như đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh, khoảng trống và nỗi thất
vọng trong lòng con người. Bằng khả năng điều chỉnh sự cân bằng trong nội
tâm, Phật giáo có thể giúp con người sống hài hịa trong thế giới này. Phật
giáo là một tôn giáo lớn,và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Hơn nữa, Phật giáo
đã thực sự nhập thế trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, ngay cả các hoạt động
kinh tế kinh doanh. Phật giáo không dạy con người ta xa rời cuộc sống để làm
thần, làm thánh hoặc xuất gia làm hòa thượng trong chùa chiền, nơi rừng sâu,
mà Phật giáo hướng tới cải tạo xã hội, cải tạo thế giới bằng đạo đức, làm cho
loài người tiến bộ và nhân văn hơn.


1


Nhìn lại dịng lịch sử Phật giáo Việt Nam, Đạo Phật đã du nhập vào
Việt Nam từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ thứ II, III trước công nguyên, đã có các
sư Ấn – Hoa theo các thương gia du nhập vào và đã hình thành trung tâm
truyền giáo tại Luy Lâu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Trong
tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân
tộc. Các thiền sư Việt Nam, đặc biệt dưới các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần đã nhập thế tích cực khi đem tài năng và trí tuệ của mình phục vụ đất
nước, dân tộc nhưng không hề cầu màng danh lợi, quyền uy mà luôn giữ thái
độ xuất thế.
Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trải suốt hơn 2000 năm qua,
tuy có lúc được thể hiện rõ, có lúc chưa được làm sáng tỏ nhưng điều quan
trọng là vẫn liên tục phát triển và trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
hoạt động của Phật giáo Việt Nam.
Bất cứ người Việt nào, khi đọc lại những trang sử nước nhà, không ai
khơng tự hào về đất nước mình – đất nước đã sản sinh ra những người anh
hùng, những vị thiền sư hi sinh lợi ích cá nhân, hịa nhập vào lợi ích chung
của đất nước, sẵn sàng xả thân khi đất nước lâm nguy. Và khi xong việc, các
Ngài lại thong dong tự tại quay gót trở về với núi rừng sơn thủy, chọn am
tranh làm chốn tu hành. Song ở nơi đây, những con người ấy không chỉ
chuyên lo tu thiền, mà còn quan sát động tĩnh trong thiên hạ, suy ngẫm về
cuộc đời.
Tất cả những thiền sư đi vào cuộc đời mà không bị danh lợi, quyền thế
làm hoen ố vẩn đục, tâm hồn ln thanh thốt. Tinh thần nhập thế của các vị
thiền sư thể hiện trọn vẹn qua “ Vơ ngã – Tùy dun – Hịa quang đồng trần”.
Lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy Phật giáo Việt Nam thời Trần
đã thể hiện trọn vẹn tinh thần vì dân vì nước.Đặc biệt là triết lí nhập thế của
các vị thiền sư Thiền phái Trúc Lâm góp phần gìn giữ và xây dựng dân tộc

Việt trong triều đại Nhà Trần.

2


Chính vì những lý do trên, tơi chọn đề tài “Triết lý nhập thế của Thiền
phái Trúc Lâm với sự nghiệp giữ và xây dựng đất nước thời Trần” làm đề tài
nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là tìm hiểu triết lý nhập thế trong nhân sinh
quan của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp
giữ nước và xây dựng đất nước trong thời đại nhà Trần.
Để hoàn thành mục đích trên, bài viết sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu hồn cảnh ra đời và lịch sử phát triển của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần
- Tìm hiểu triết lý nhân sinh nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm và những
đóng góp vào cơng cuộc giữ nước và dựng nước của dân tộc thời Trần
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Triết lý nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm với sự nghiệp
giữ và dựng nước trong Triều đại nhà Trần
- Phạm vi: Bài viết tập trung nghiên cứu triết lý nhập thế trong tư tưởng
phương Đông, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thì tập trung nghiên cứu tinh
thần nhập thế của các vị thiền sư thiền phái Trúc Lâm thời Trần
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, đề tài sử dụng các
phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp kết hợp với các phương
pháp lơgíc - lịch sử, trừu tượng hóa, khái qt hóa để nghiên cứu.
5. Bố cục đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài gồm 2 chương với 7 tiết.

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Phật giáo là một tôn giáo - triết học lớn, thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều học giả. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu tổng quan về Phật
giáo hay ở những khía cạnh khác nhau của Phật giáo. Riêng nghiên cứu về
3


vấn đề nhập thế của Phật giáo nói chung và triết lý nhập thế của Thiền phái
Trúc Lâm nói riêng đến nay có thể nói chưa có một cơng trình nghiên cứu
chuyên biệt, mà chủ yếu là rất nhiều các bài viết đề cập tới vấn đề này từ các
góc độ khác nhau song chưa thành một mạch hệ thống.
- Về khái niệm nhập thế và tinh thần nhập thế của Phật giáo đã có nhiều
bài viết nghiên cứu, tiêu biểu là Đỗ Quang Hưng với “Phật giáo Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hóa” (tạp chí Khoa học số 9/2006, tr. 5866). Trong bài viết này, tác giả đã đề cao vai trò của Phật giáo trong xã hội
hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung cho phù hợp với thời đại
mới, từ đó chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay. Tác giả
cũng nhấn mạnh Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc với “Phật giáo dân gian: con đường
nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Nghiên cứu tơn giáo số 8/2008,
tr.25-32) đã phân tích rất cụ thể khái niệm nhập thế dưới góc độ chức năng,
nhiệm vụ của tăng ni, phật tử và đi đến kết luận, Phật giáo nhập thế là Phật
giáo từ bi và đắc dụng. Sau đó tác giả phân tích, làm rõ tinh thần nhập thế của
Phật giáo dân gian Việt Nam.
Tác giả Đặng Thị Lan với “Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật
giáo Việt Nam” (tạp chí Khoa học xã hội nhân văn số 1/2003) đã chỉ ra tinh
thần nhập thế của Phật giáo thể hiện rất rõ ràng ở hai khía cạnh: “dùng đạo để
hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành đạo”.
Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với bài viết “Vài nét về vấn đề “nhập thế”
của Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê” trong Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê
trong công cuộc dựng nước và giữ nước (Nxb Khoa học xã hội, 2010, tr. 3139) đã định nghĩa nhập thế với hai ý: đem đạo vào đời và đem đời vào đạo,

cách hiểu này đã phản ánh được phần nào khái niệm nhập thế.
Vấn đề nhập thế của Phật giáo khơng cịn là một vấn đề mới mẻ, mà đã
được các học giả bàn và nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau của nhập

4


thế. Song, nhìn chung, các bài nghiên cứu này cịn nói chung chung và chưa
thấy được tinh thần nhập thế của Phật giáo.
- Vấn đề triết lý nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm
Triết lý nhập thế của thiền phái Trúc Lâm được thể hiện thông qua các
vị thiền sư, đặc biệt là Phật Hồng Trần Nhân Tơng - ơng là điển hình nhập
thế của Phật giáo Việt Nam nói chung và thời Trần nói riêng. Nghiên cứu về
tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo thời Trần, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu đề cập đến:
Tác giả Lê Mạnh Thát với “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”, tập 3, Từ Lý
Thánh Tông (1054) đến Trần Nhân Tông (1278), Nxb. Tp Hồ Chí Minh;
“Tồn tập Trần Nhân Tơng” Nxb Tp Hồ Chí Minh. Đã khái quát tư tưởng và
hành động của Trần Nhân Tông trong công cuộc giữ nước và dựng nước, đặc
biệt nhấn mạnh tài ứng dụng đạo Phật vào trị quốc, an dân. Qua đó, làm nổi
bật được tinh thần nhập thế thiết thực ở Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Tác giả Nguyễn Hùng Hậu với “Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt
Nam thời Lý - Trần”.Ở đây, tác giả cho chúng ta thấy rõ nhập thế là sự lựa
chọn tích cực của Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Lý - Trần nói
riêng.
Ngồi ra, cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu khác về Phật giáo Việt
Nam nói chung và tư tưởng Thiền Phật giáo như: Thích Mật Thể với “Việt
Nam Phật giáo sử lược” (Nxb Vạn Hạnh Sài Gòn 1967); Nguyễn Duy Hinh
với “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999) và
“Triết học Phật giáo Việt Nam” (Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2006);

Nguyễn Hùng Hậu với “Tìm hiểu tư tưởng triết học thiền của Trần Nhân
Tơng” (Tạp chí Triết học số 3/1995), “Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm
Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997), và “Đại cương triết học
Phật giáo Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002); Đặng Ánh Tuyết
với “Góp phần tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo đời Trần” (Luận văn Thạc

5


sĩ Triết học, Khoa Triết, ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội) và cịn rất nhiều
các cơng trình nghiên cứu, bài viết khác.
Như vậy, mặc dù vấn đề tinh thần nhập thế của Phật giáo đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến, song vẫn chưa thực sự sâu
sắc. Bài viết kế thừa và tiếp thu kết quả của các học giả trước đó, đi nghiên
cứu, phân tích làm rõ triết lý nhập thế trong thiền phái Trúc Lâm. Cụ thể là
“Triết lý nhập thế của thiền phái Trúc Lâm với sự nghiệp giữ và xây dựng đất
nước thời Trần”.

6


NỘI DUNG
Chương 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN

1.1. Hoàn cảnh ra đời củaPhật giáo Trúc Lâm thời Trần
1.1.1. Lịch sử du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
1.1.1.1. Sơ lược về đạo Phật
Cách đây hơn 25 thế kỷ, giữa lúc xã hội Ấn Độ đang rối ren, nhân dân

cơ cực lầm than, bởi chế độ phân chia đẳng cấp hết sức khắc nghiệt, một Thái
tử có lịng rộng lớn, chiêm nghiệm về nỗi khổ ở đời, đã quyết định hy sinh đời
sống vương giả, để tìm giải thốt đau khổ cho nhân loại. Vị Thái tử đó là Tất
Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia, nước Ca-tỳ-la-vệ, xứ Ấn
Độ bấy giờ. Sau nhiều năm tu tập Ngài đã thành Phật hiệu là Thích Ca. Đạo
Phật có mặt trên thế gian này từ đó. Nói về lý thuyết của Đạo Phật, có thể tóm
tắt như sau :
- Quan niệm về thế giới và con người : Với quan niệm về thế giới, đạo
Phật cho rằng vũ trụ là vô thủy vô chung, vạn vật trong thế giới chỉ là dịng
biến hóa vơ thường vơ định, không do một vị thần nào sáng tạo ra cả vì thế
giới ln là dịng biến ảo vơ thường, nên khơng có gì là bản ngã, khơng có
thực thể, tất cả đều theo định luật nhân quả, cứ biến đổi khơng ngừng, khơng
nghỉ, theo q trình “sinh – trụ - di – diệt” hay “thành – trụ - hoại – khơng”
và chỉ có sự biến hóa ấy là thường hữu. Tất cả các sự vật hiện tượng tồn tại
trong vũ trụ, theo triết học Phật giáo, từ cái vô cùng nhỏ đến cái vơ cùng lớn,
đều khơng thốt ra khỏi luật chi phối của nhân duyên. Cái nhân (hetu) nhờ có
duyên (paccaya) mới sinh ra cái quả (phala). Quả lại có duyên mà thành ra
nhân, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới v.v… cứ thế nối tiếp
nhau vô cùng vô tận mà thế giới vạn vật, mn lồi cứ sinh sinh hóa hóa mãi.

7


Đạo Phật cho rằng con người cũng do nhân duyên kết hợp và tạo thành
bởi hai thành phần: Thể xác và Tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp
tan của ngũ uẩn. Cái tôi sinh lý tức thể xác, gọi là sắc (rupa), gồm: địa, thủy,
hỏa, phong tức là cái đó có thể cảm giác được. Cái tơi tâm lý, tinh thần tức là
tâm, gọi là danh (nama) với bốn yếu tố chỉ có tên gọi mà khơng có hình chất
là: thụ (vedana), cảm thụ về khổ hay lạc đưa đến sự lãnh hội với thân hay tâm;
tưởng (sanna) tức suy nghĩ, tư tưởng; hành (sankhara) tức ý muốn thúc đẩy

hành động, tạo tác và thức (vinnana) tức nhận thức, phân biệt đối tượng tâm
lý, phân biệt ta là ta…nhưng sắc khơng chỉ gồm cái nhìn mà cả cái khơng
nhìn thấy nếu nó nằm trong q trình biến đổi của sắc gọi là “ vô biểu sắc”
- Về lý thuyết cứu khổ :
Trong kinh Tạp A-hàm (Samyatt-Nikaya), Đức Phật có dạy các đệ tử
của Ngài: “Hỡi các Tỳ kheo, các thầy đừng để tâm trí vào những tư tưởng sau
đây: Thế giới là hữu hạn; thế giới là vơ cùng. Điều đó khơng quan trọng.
Điều quan trọng là, ta dạy các thầy về sự khổ, nguyên nhân sự khổ, và con
đường đi đến diệt khổ. Những điều đó có ích, vì chắc chắn sẽ đưa các thầy
đến cứu cánh của giác ngộ và giải thoát vậy”.
Trong tư tưởng Phật giáo, Tứ đế hay Tứ Diệu đế là giáo lý cơ bản, lấy
con người làm trung tâm và vì con người mà thực hiện. Đức Phật đã nhận
thấy ở chúng sinh cái nhân thiện lành, đó là Phật tính, nếu biết tu tập đúng
chính pháp đều có thể thành Phật (Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính).
Phật vì lòng đại từ bi muốn lợi lạc cho chúng sinh mà thuyết giảng giáo pháp
của mình. Đây là giáo lý Đức Phật thuyết giảng trong thời kỳ đầu nên cũng
gọi là giáo lý Nguyên thủy.
Tứ đế hay Tứ Diệu đế là cách dịch của người Hán từ nguyên gốc Phạn
ngữ là “Catuariyasacca”, cũng có cách gọi khác là Tứ Chân đế, Tứ Thánh
đế. Tứ là số từ bốn; Diệu là tuyệt vời, khéo, hay, diệu dụng, mầu nhiệm; Đế là
lời nói vững chãi, chắc thật, là chân ngơn, lời nói luôn đúng với chân lý. Tứ

8


Diệu đế là bố điều chắc thật, diệu dụng không ai chối cãi được. Bốn đế lý ấy
là:
Khổ đế: (Dukkha Ariyasacca) nói về sự khổ ở đời. Khổ khơng chỉ có
nghĩa là cảm giác đau đớn, khổ nhọc thân, tâm mà cịn chỉ trạng thái cảm thấy
khơng n ổn, khơng thỏa mãn những mong muốn trong lòng. Tư tưởng Phật

giáo cho rằng, con người sinh ra ở đời là khổ: “Đời là bể khổ”. Từ khi sinh ra
đến lúc nhắm mắt xi tay khơng có lúc nào hết khổ. Vũ trụ tự nhiên thì ln
trong q trình biến đổi “thành - trụ - hoại – không”. Về thân xác con người
thì trải qua “sinh - lão – bệnh - tử”. Mà cả bốn q trình ấy khơng khi nào xa
lìa nỗi khổ: Sinh khổ (sinh ra là khổ); Lão khổ (quá trình già nua của thân thể
là khổ); Bệnh khổ (có bệnh tật đau ốm là khổ); Tử khổ (chấm dứt sự sống là
khổ). Rồi sống trong cuộc sống xã hội cũng ln có nỗi khổ: Sở cầu bất đắc
khổ (mong muốn mà không đạt được là khổ); Ái biệt ly khổ (yêu thương nhau
mà phải xa lìa là khổ); Oán tăng hội khổ (ghét thù nhau mà phải sống gần
nhau là khổ); Ngũ thụ uẩn khổ (năm giác quan tương tác với thế giới bên
ngoài, thọ nhận tướng sắc của vật chất; bị hình tướng của vật chất che mất bản
chất và mãi bị mê muội theo nó là khổ). Đó là tám nỗi khổ của con người mà
Phật giáo gọi là Bát khổ.
Theo quan niệm của Phật giáo thì những thứ khổ con người phải chịu là
cái khổ trong tam giới và đều là nhân để đời sau phải chịu quả trầm luân vào
địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì sinh tử thật là khổ, khơng ai khơng gặp, khơng
ai chối bỏ được, nó như là cái hiển nhiên đối với con người, nên gọi là Khổ
đế.
Tập đế :(Samudayat Ariyasacca) nói về nguyên nhân sự khổ. Tập có
nghĩa là nhóm họp, gộp lại. Nếu quá khứ hay hiện tại con người không biết
được đời là khổ, không biết vạn vật hữu hình hay vơ hình chỉ là giả tạm, ln
biến đổi; khơng biết những ý nghĩ, lời nói và hành động của mình sẽ gây ra
nghiệp nên lần hồi cứ làm theo mãi, vì suy nghĩ và hành động xấu mà ngày

9


càng hn tập, nhóm góp điều xấu, bị xơ đẩy trôi lăn mãi trong sinh tử luân
hồi, nên gọi là Tập.
Đức Phật dạy rằng, vì vơ minh che lấp nên con người không nhận ra

thực tướng của vạn vật, rồi cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo không vĩnh viễn
đó nên tạo ra nghiệp. Đó là nguyên nhân của nỗi khổ. Trong đó, có ba thứ độc
(tam độc): Tham (tham lam); Sân (giận, bực, nóng nảy); Si (ngu mờ, mê
muội) là nguyên nhân chính nhất của nỗi khổ. Xét cho kỹ thì mọi việc làm
thiện, ác (sẽ tạo ra các nghiệp) gắn liền với sinh tử trong tam giới mà con
người không ai không vướng mắc, nên gọi là Tập đế.
Diệt đế: (Nirodha Ariyasacca) nói về sự khổ bị tiêu diệt, được giải
thoát. Diệt tức là tịch diệt hay Niết bàn. Nghĩa là nghiệp đã hết khơng cịn khổ
lụy sinh tử luân hồi nữa. Khổ là mầm gốc của phiền não. Mà phiền não được
diệt nên những nghiệp quả trong tam giới cũng diệt. Nếu các nghiệp phiền
não trong tam giới đã diệt thì liền chứng đắc được cảnh giới Niết bàn (Hữu dư
Niết bàn). Khi xả báo huyễn thân (nghĩa là chết), thân tứ đại khơng cịn (nhà
Phật dùng từ tịch hoặc tịch diệt hay nhập Niết bàn) cái khổ của đời sau khơng
cịn tương tục nữa, khi ấy gọi là Vô dư Niết bàn. Cảnh giới Niết bàn thật vắng
lặng, tĩnh tịch và an lạc, đoạn diệt hết thảy hoặc nghiệp luân hồi nên gọi là
Diệt đế.
Đạo đế: (Magga Ariyasacca) nói về phương pháp diệt trừ nguyên nhân
sự khổ. Đạo là luân lý, là con đường đúng đắn, đạo cịn có nghĩa là năng
thơng năng đạt, nó chính là những phương pháp, là con đường để cho chúng
sinh theo đó mà tu tập để mong cầu vượt thốt khỏi trầm ln, khổ ải trong
tam giới. Trong đó, Đức Phật chỉ ra tám con đường chính, bao gồm: thấy biết
chân chính (chính kiến); suy nghĩ chân chính (chính tư duy); lời nói chân
chính (chính ngữ); nghề nghiệp chân chính (chính nghiệp); đời sống chân
chính (chính mệnh); siêng năng chân chính (chính tinh tiến); tưởng nhớ chân
chính (chính niệm); định tâm chân chính (chính định). Tám con đường chân
chính ấy, Phật giáo gọi là Bát Chính đạo.
10


Đạo đế có Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo và Bát Chính đạo nương trợ,

tương hỗ với nhau chắc chắn có thể đưa chúng sinh vượt qua khổ ải, chứng
nhập cảnh giới Niết bàn không hư dối, nên gọi là Đạo đế.
Phật giáo chủ trương vừa lấy trí tuệ diệt trừ vơ minh, phá vịng ln hồi
sinh tử, vừa thực hành tu tập diệt trừ tham dục để chuyển nghiệp đạt đến sự
giải thoát. Tu hành để mong cầu giải thốt trong nhà Phật cũng có nhiều
phương cách. Phật nói có tám vạn bốn ngàn pháp mơn, bất kỳ ai thấy khế hợp
và phát nguyện tu tập theo một pháp mơn nào thì đều có thể trở thành bậc giác
ngộ giải thốt, vì Phật tính trong mọi chúng sinh là không khác nhau và mọi
pháp môn đều đưa đến giác ngộ. Tuy nhiên, cho dù là pháp môn nào đi nữa
thì cũng lấy Tam vơ lậu học (Giới - Định - Tuệ) làm căn bản và cương yếu.
Kinh sách Phật giáo thường ghi, vì lịng bi mẫn với chúng sinh, vì lịng
thương tưởng với đời mà Đức Phật thị hiện ra ở cõi đời này. Ngài có mặt ở
đời vì một đại nhân duyên là cứu khổ độ sinh. Như vậy, với Tứ Diệu đế, Phật
giáo đã giải quyết vấn đề con người, và Tứ Diệu đế cũng là giáo lý căn bản
mà bất kỳ một người xuất gia học Phật dù thuộc hệ phái nào đều phải biết tới
và tu tập theo để mong cầu giải thoát, chứng ngộ Niết bàn.
1.1.1.2. Sự du nhập Phật Giáo vào Việt Nam
Phật giáo truyền đến Việt Nam vào khoảng những năm đầu công
nguyên, lúc bấy giờ nước ta đang nội thuộc Trung Quốc, Phật giáo đã dung
hòa được với hệ tư tưởng và tín ngưỡng dân tộc. Dựa vào các sử liệu, hiện
nay hầu hết các Sử gia đều đồng ý với một điểm mấu chốt như sau:
- Đạo Phật đã đến Việt Nam trước hết là đường biển, theo bước chân
của các doanh nhân và Tăng sĩ Ấn Độ.
- Thứ hai là đạo Phật được truyền đến Việt Nam trước khi đến Trung
Hoa, cũng như trong giai đoạn khai sinh, Phật giáo Việt Nam cũng đã hưng
thịnh hơn Phật giáo Trung Hoa cùng thời.
- Điểm thứ ba là đến thế kỷ thứ II đã có một nền Phật giáo và Phật học
hưng thịnh tại Việt Nam, nghĩa là đạo Phật đã truyền bá trước đó khá lâu, ít
11



nhất cũng phải hàng trăm năm trước, nghĩa là ít nhất cũng vào khoảng thế kỷ
thứ nhất hay sớm hơn nữa.
Một sử liệu khác chứng minh khá rõ ràng minh bạch việc đạo Phật đã
đến và đã hưng thịnh ở Việt Nam trước khi du nhập và phát triển tại Trung
Quốc được đăng trong “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục” ghi lại chuyện trong
một lễ Trai Tăng vào ngày rằm tháng hai năm 1096, tại Kinh thành Thăng
Long, bà Hoàng Thái Hậu Phù Cẩm Linh, tức Vương Phi Ỷ Lan hỏi Thiền sư
Trí Khơng sau được tơn làm Thơng Biện quốc sư “Đạo Phật đến nước ta hồi
nào?” Các vị sư ngồi im lặng, riêng Thiền sư Trí Khơng đã trả lời như sau :
“Xét chuyện Đàm Thiên pháp sư, ta thấy từ đời Tùy Cao Tổ, Phật pháp được
nâng đỡ rất nhiều”. Vua Văn Đế nói : “Ta muốn làm chùa Tháp ở Giao Châu
để cho phước được thấm nhuần đại thiên thế giới . . .” Pháp Sư Đàm Thiên
liền tâu : “Giao Châu có đường thơng với Thiên Trúc (Ấn Độ). Khi Phật giáo
mới tới Giang Đông chưa đầy đủ thì ở Thủ Phủ Luy Lâu của Giao Châu đã
có tới hai mươi ngơi chùa, độ được hơn 500 vị Tăng già và dịch được 15 cuốn
Kinh rồi”. Như vậy, Phật giáo được truyền đến trước khi đến Giang Đông
vậy.
Sau này, sang thế kỷ IV –V lại có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc
tơng từ Trung Hoa tràn vào. Từ “Buddha” và tiếng Hán được phiên âm thành
Phật Đà vào tiếng Việt rút gọn lại còn Phật. Từ đây, Phật dần dần thay thế cho
từ Bụt.
Từ Trung Hoa đã có ba Tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt
Nam: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông.
Thiền tông là tông phái Phật Giáo, do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma
sáng lập ở Trung Quốc vào đầu thế kỉ thứ VI. Thiền tông Việt Nam luôn đề
cao cái tâm, Phật tại tâm, tâm là Niết Bàn, là Phật. Tu theo Thiền tơng địi hỏi
nhiều cơng phu và khả năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở giới tri thức thượng
lưu.


12


Tịnh độ tông chủ trương dựa chủ yếu vào sự giúp đỡ từ bên ngồi, để
chúng sanh thốt khỏi Ta bà.Tịnh độ tông hướng họ đến cõi Niết bàn cụ thể là
cõi Tịnh độ yên tĩnh. Chỉ cần chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, đây là cách tu
đơn giản và trở thành phổ biến khắp nhân gian.
Mật tông là phái tu chủ trương sử dụng những pháp tu huyền bí, như
dùng linh phù, mật chú, ấn quyết … Vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại
độc lập như Tông phái riêng mà hồ vào dịng tín ngưỡng dân gian với những
truyền thống cầu đồng cúng pháp thuật, yểm bùa trị tà ma.
Cả ba Tơng phái trên, mặc dù có những điểm khác biệt nhau, nhưng
nhìn chung chúng đều dựa trên những giáo lý cơ bản của nhà Phật, giữa
chúng có sự ảnh hưởng đến nhau và đều mang tinh thần hồ mình vào đời
sống thường nhật.
Việc du nhập diễn ra với nhiều chiều hướng khác nhau, nhiều Tông
phái khác nhau trong hoàn cảnh Việt Nam tạo nên một nét bản sắc Phật giáo
Việt Nam. Rõ ràng, đó là một trong những cơ sở tạo nên đặc thù của lịch sử
Phật giáo Việt Nam.
Với những lý do trên có thể nói rằng, đạo Phật là một Tơn giáo ngoại
lai, nhưng đã nhanh chóng truyền vào Việt Nam một cách tự nhiên, mà không
bị một cản trở nào.
1.1.1.3 Phật Giáo trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng: Hầu hết các Tôn giáo được truyền
bá đi bằng con đường chính trị, được áp đặt bằng vũ lực, bằng chiến tranh
hoặc làm công cụ cho các thế lực xâm lược. Ngược lại, trên bước đường
truyền bá khắp thế giới, Phật giáo chưa bao giờ để lại một vết máu. Điều đó
xuất phát từ bản chất từ bi vô ngã, vị tha của đạo Phật, bởi vì đạo Phật ra đời
vì cuộc đời chứ khơng phải vì bản ngã của đạo Phật.
Đạo Phật được truyền vào nước ta khoảng từ trước Công nguyên. Và

trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có một hệ thống tín ngưỡng,
phong tục vơ cùng phong phú. Họ quan niệm rằng : “Ơng Trời ở trên cao có
13


thể nhìn thấy mọi việc dưới đất, biết trừng phạt kẻ làm ác, giúp đỡ kẻ làm
lành … Ông Trời có những thuộc hạ gần xa. Gần thì có ơng Sấm, bà Sét. Xa
có Sơn Tinh, Thủy Tinh, thần núi Tản Viên, thần cây đa, ông Táo, ông Địa
…vv. Rồi linh hồn con người không hẳn là bất diệt, nhưng có thể tồn tại một
thời gian khá lâu quanh quẩn bên xác người chết và có thể ở chung với người
thân thích cịn sống trong một thời gian để che chở, bảo hộ.”(Nguyễn Lang –
Việt Nam Phật giáo sử luận; tập I, trang 50)
Khi Phật giáo vào Việt Nam, tuy giáo lý nhà Phật khơng chấp nhận có
một đấng ở trên cao, có thể nhìn thấy mọi vật dưới đất, nhưng thuyết nhân
quả nghiệp báo của đạo Phật phù hợp với quan niệm ông Trời trừng phạt kẻ
ác, thuyết luân hồi phù hợp với quan niệm tồn tại sau khi xác thân tiêu hoại.
Cho nên, Phật giáo ứng hợp ngay với quan điểm nhân gian.
Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm trong giáo trình “Cơ sở Văn hóa Việt Nam”
đã hệ thống tín ngưỡng dân gian thành ba yếu tố: tín ngưỡng phồn thực, tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Những tín
ngưỡng trên là sản phẩm của nhân dân, hình thành trong chiều dài lịch sử trên
cơ sở kinh nghiệm, sự sùng bái và trí tưởng tượng của con người. Vì thế, nó
thành hệ thống chặt chẽ, tất nhiên thiếu cơ sở vững chắc.
Cùng thời gian đó, Nho giáo cũng đã bước vào nước ta, người Việt vốn
trọng tình nghĩa, hịa hiếu, cởi mở “song vì đây là thứ văn hóa do kẻ xâm lược
áp đặt, cho nên ngoài một số người Việt được bổ làm quan trong bộ máy cai
trị, có thể nói rằng suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc Nho Giáo chưa có chỗ
đứng trong xã hội Việt Nam.” (Trần Ngọc Thêm - Cơ sở văn hóa Việt Nam;
trang 317)
Khác với Nho giáo, “Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng

phương tiện hòa bình chứ tuyệt nhiên khơng phải là cơng cụ cho những thế
lực xâm lược Cộng với phương châm từ, bi,hỷ, xả, trí tuệ, vị tha và nền giáo
lý phù hợp với tín ngưỡng truyền thống, nên đạo Phật thấm vào nền văn minh
Giao Châu tự nhiên và dễ dàng như nước thấm vào lòng đất.” (Nguyễn Lang)
14


Cho nên, trong đời sống thường ngày, chúng ta không lạ gì với những
biểu tượng của Phật giáo… Những hình ảnh đó được thể hiện trong đời sống
một cách tự nhiên, đó là hình ảnh ơng Bụt, mái Chùa, nhà Sư, tiếng chuông
vv. . . như :
“Tiếng chuông Thiên Mụ dặn dò
Em đi cảnh vắng hẹn hò cùng ai”
Hay:
“Đi chợ thì bỏ qn tiền,
Về nhà qn ngõ, đâm xun vơ chùa
Mưa từ trong núi mưa ra,
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua Chùa Thầy”
Như thế để chứng tỏ rằng, đó là một sự hội nhập sâu sắc giữa Phật giáo
và văn hóa Việt Nam.
Như vậy, ngay từ buổi du nhập vào đất Việt, Phật giáo đã hòa quyện,
hội nhập trong lòng dân tộc. Khi đất nước trải qua ngàn năm Bắc thuộc, Phật
giáo cùng chung số phận khổ nhục, đau thương, chịu đựng. Đến nửa thế kỷ
thứ X, khi dân tộc vùng lên giành độc lập thì tức khắc Phật giáo đã cùng dân
tộc đồng lòng xây dựng, phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.
Rồi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần là thiên sử “Anh hùng ca” đã
chứng minh tinh thần độc lập hào hùng bất khuất của dân tộc, đồng thời
khẳng định tinh thần gắn liền Đạo pháp với dân tộc của Phật giáo Việt Nam,
là điểm son, là dấu ấn truyền thống đặc thù của Phật giáo Việt Nam trong
lòng dân tộc.

Thế kỷ XX, cả dân tộc đứng lên chống Thực dân và Đế quốc giành lại
chủ quyền cho dân tộc thì Phật giáo Việt Nam lại một lần nữa kề vai sát cánh
cùng nhân dân để đấu tranh thực thi khát vọng hạnh phúc.
Ngày nay, phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là: “Đạo
pháp - dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, càng khẳng định tính chất gắn bó giữa
Phật giáo với dân tộc Việt Nam.
15


1.1.2. Bối cảnh ra đời của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
Khi nhà Lý khơng cịn có thể đứng trên vũ đài chính trị nữa, thì việc
vua Trần Thái Tơng lên ngôi báu, khai sáng ra triều đại nhà Trần là đáp ứng
nhu cầu cấp thiết của đất nước bấy giờ. Một là thu giang sơn về một mối,
thống nhất từ trong ý chí và hành động. Hai là trên dưới đồng lòng, cùng nhau
xây dựng phát triển đất nước thịnh vượng và bảo vệ vững chắc các thành quả
đạt được trước bất cứ thế lực nào.
Ngoài việc thực hiện trọn hai mục tiêu đề ra, Trần Thái Tơng cịn đặt
cho mình một nhiệm vụ hết sức trọng đại cần phải được đề cập là ngài chủ
trương đặt nền móng thống nhất các thiền phái hiện có đó là Tỳ Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, tiến đến sáp nhập và hình thành dịng
thiền Trúc Lâm duy nhất đời Trần.
Hay nói một cách chính xác và cụ thể, người khai sáng ra Thiền phái
Trúc Lâm là Trần Nhân Tơng làm Đệ Nhất tổ, nhưng người có cơng đặt nền
móng thiết lập cho Thiền phái phát triển và truyền thừa từ mơ hình tổ chức
cho đến nội dung tu tập hành trì, thể hiện bản sắc dân tộc là Trần Thái Tơng.
Sự kiện ra đời dịng Thiền này có ý nghĩa rất lớn, nó đáp ứng nhu cầu lịch sử
của dân tộc là xây dựng một đất nước Đại Việt độc lập tự chủ không chỉ được
xác định trên cương thổ biên giới về địa lý mà còn độc lập tự chủ trên mọi
phương diện lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hóa và ngay cả tơn giáo.
Thế nên, dù trong cương vị là vị hoàng đế, hay Thái thượng hồng,

Thiền sư, Trần Thái Tơng ln khát khao thiết lập dịng thiền mới mang tính
cách Đại Việt. Đây là sự kiện có ý nghĩa lớn khơng chỉ trong tổ chức chính trị
nước nhà mà cịn là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã thiết lập
được mơ hình tổ chức Phật giáo Nhất tơng vào đời Trần, tức là “thời đại của
một tông phái Phật giáo duy nhất”, với tôn chỉ hoạt động là thống nhất tư
tưởng, ý chí và hành động phục vụ cho Đạo pháp - dân tộc.
Mơ hình tổ chức Phật giáo Nhất tông này ra đời dựa trên hai tiền đề xã
hội và tơn giáo hình thành trong hồn cảnh lịch sử của nước nhà. Về mặt xã
16


hội, nhà Trần trong buổi đầu mới thành lập, công việc cấp bách thiết thực nhất
đặt ra trước mắt các nhà lãnh đạo tối cao là xây dựng một ý thức hệ độc lập
thống nhất gồm 4 mục đích chính:
+ Thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ về ý thức hệ với nước ngồi để thanh
tốn hồn tồn mọi cơ sở của nước xâm lược.
+ Làm cơ sở tư tưởng để thống nhất ý thức dân tộc về mặt chính trị
nhằm củng cố sự thống nhất dân tộc thêm một bước nữa.
+ Làm công cụ thống nhất quyền lực vào chính quyền Trung ương, tức
quy tụ vào họ Lý, họ Trần.
+ Làm phương tiện giải quyết các mâu thuẫn nội bộ dân tộc chủ yếu là
giai cấp lãnh đạo và đơng đảo quần chúng nhân dân nhằm duy trì một trật tự
xã hội và cũng tức là duy trì ngai vàng của dịng họ.
Về mặt tơn giáo, nhà Trần lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu,
và cần phải thay đổi nội dung của các Thiền phái để đáp ứng các yêu cầu căn
bản như đã nói trên. Vì thế, nhà Trần chủ trương lập ra một Thiền phái có nội
dung tư tưởng độc lập, thể hiện đúng tinh thần bản sắc dân tộc hơn, hướng
đến các mục tiêu sau:
+ Tự mình phân biệt với Thiền tơng ở Trung Quốc biểu lộ tính độc lập.
+ Thay đổi một phần nội dung tiêu cực và thân ngoại quốc của các phái

Thiền tông trong nước.
+ Vượt lên trên sự khác biệt của tất cả các tông phái Phật giáo cũng như
các tín ngưỡng phi Phật giáo để nhằm thống nhất ý thức hệ. Không chịu trách
nhiệm về sự khác biệt và đụng độ đã xảy ra trong lịch sử giữa các phái Thiền
tông với nhau cũng như Thiền tông với các tín ngưỡng khác, do đó thu hút
các tín ngưỡng khác.
+ Tự khốc cho mình chiếc áo một tơn giáo mới - tuy rằng thực tế chỉ
là một phái, với đầy đủ các yếu tố để thu phục quần chúng.
Thực tế, tư tưởng lập Thiền phái Trúc Lâm được manh nha từ khi Phật
giáo chủ trương mới, nhập thế, tùy tục, tùy duyên nhưng bất biến để đáp ứng
17


các yêu cầu lịch sử dân tộc đặt ra của một đất nước vừa độc lập và đang thực
hiện thống nhất trên mọi phương diện.
Dưới ảnh hưởng và uy tín của nhà vua, vào thế kỷ thứ XIII, ba Thiền
phái trên dần dần sáp nhập thành Thiền phái Trúc Lâm duy nhất đời Trần. Và
như thế mơ hình Phật giáo Nhất Tông được thiết kế từ khi Trần Thái Tông lên
ngơi, và phải đến thời Trần Nhân Tơng thì mới đi vào hoạt động thực tiễn một
cách mạnh mẽ.
1.2. Lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam thời Trần
1.2.1. Phật giáo đầu thời Trần
Sau khi đại thắng quân Nguyên, nhà Trần vẫn giữ được sự thịnh trị
trong mấy chục năm. Nhưng ở dưới vẻ mặt thịnh trị đó đã phục ngầm những
mầm móng suy bại của nhà Trần. Nội bộ họ Trần mất đồn kết vào khoảng trị
vì của vua Trần Minh Tông cho đến vua Trần Thiếu Đế. Nhà Trần chấm dứt
sau 175 năm trị vì, trải qua 13 đời vua. Nói về Phật giáo đầu đời Trần, đạo
Phật là quốc đạo, chẳng những dân tu, mà vua cũng tu. Nói như một nhà nho
đời Trần rằng “phân nửa thiên hạ đi tu”, người xuất gia quá đông, người tu tại
gia là đa số dân chúng, chùa chiền đâu cũng có. Lúc bấy giờ Phật giáo bước

vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam và có ảnh hưởng đến
mọi lĩnh vực của đời sống, văn hóa, tư tưởng, đồng hóa với hầu hết mọi hình
thức tín ngưỡng tập tục sơ khai. Cũng khơng biết từ bao giờ, những ngôi chùa
đã mọc lên như một bộ phận hữu cơ, gắn bó thân thiết với cộng đồng xã hội
“đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Đất thì đất của vua, nhưng coi sóc phần
hồn phần đời sống tình cảm, lại là các vị sư trong chùa. Đó cũng chính là
những nhà tri thức đầu tiên của làng, những người có uy tín và được trọng
vọng, đã góp phần động viên quần chúng trong nhiều cuộc chống xâm lăng
dưới thời Bắc thuộc.
1.2.2. Phật giáo thời Trần nửa sau thế kỉ XIV
Nửa sau thế kỷ thứ XIV, những chiếc rễ đạo Phật vẫn càng ngày càng
ăn sâu thêm trong nếp sống tình cảm và tín ngưỡng của giới đại chúng bình
18


dân, nhưng khơng cịn giữ vai trị lãnh đạo trí thức, văn hóa và chính trị. Giới
trí thức hướng về đạo Nho như phương châm cứu nước và dựng nước.Nho
giáo trở thành quốc giáo. Phật giáo tồn tại trên đất nước ta đã in dấu ấn khá
sâu sắc vào văn hóa dân tộc, phong tục nhân dân, đức tính con người. Tơng
phái Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong nhân dân ta là Tịnh độ, kế đó
là Thiền. Tịnh độ tông đem lại tư tưởng vị tha trong sạch, tư tưởng từ bi cứu
khổ cứu nạn, tinh thần bình đẳng chất phác, lịng thương u người như
thương thân mình, một tình thương bao la, tình thương đồng loại và tình
thương mọi sinh vật. Thiền tơng thì hẹp về thực lực nhưng lại sâu về tư tưởng,
được nhiều vua Trần ủng hộ và chủ trương.
Thật vậy, Phật giáo trong đời Pháp Loa đã đi tới mức thịnh đạt nhất.
Một phong trào khi đã lên chỗ cao nhất thì bắt đầu đi xuống. Trong sự thịnh
đạt đã ẩn chứa sự tàn lụi, khi đạo Phật được vua chúa quý trọng thì các nhà
quyền quý và trăm họ đều hướng vào, chùa chiền càng nhiều thì nếp sống
thanh qui khó có thể bảo đảm được. Tăng chúng càng đơng thì càng có nhiều

phần tử bất hảo làm hại thanh danh tăng đồn, sự kính trọng càng nhiều thì
niềm kiêu hãnh càng thêm cao. Sự cúng dường càng hậu thì sự ỷ lại càng
tăng.
Trong thời thịnh đạt của Phật giáo Trúc Lâm, được xuất gia làm một
phần tử trong tăng đoàn là một vinh hạnh khơng nhỏ. Tăng sĩ có độ điệp của
giáo hội, đi đâu cũng được, nơi cư trú cho đến việc học Phật và tu Phật của
người tăng sĩ đều được nhiều tổ chức lo lắng chu toàn. Cũng vì số tăng sĩ
đơng q nên đệ nhị Tổ Pháp Loa phải thực hành việc kiểm tra tự viện và sổ
tăng tịch. Tam Tổ thực lục cho biết là số người xin xuất gia đông quá, khiến
cho Pháp Loa giới hạn việc tổ chức giới đàn, ba năm mới tổ chức một lần và
phải loại ra hàng ngàn thí sinh. Tuy vậy, hàng ngàn người mỗi năm vẫn được
xuất gia ở các chùa quê, tại những giới đàn nhỏ do Phật giáo địa phương tổ
chức. Họ khơng có độ điệp, nhưng họ vẫn có thể cư trú và tu hành ở các chùa
quê.
19


Đến cuối thế kỷ thứ XIV, giáo hội bắt đầu khơng cịn kiểm sốt được
tăng sĩ nữa. Năm 1396, vua Thuận Tông xuống chiếu thải bớt tăng sĩ dưới
năm mươi tuổi, cũng không biết rõ đây là một hành động của Thuận Tông
nhằm ngăn chặn sự lạm dụng đạo Phật hay là một quyết định của Hồ Quý Ly
muốn làm giảm tiềm lực của đạo Phật. “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng
năm 1429, tất cả các tăng sĩ Phật giáo và đạo sĩ Lão giáo đều phải đến trình
diện và kiểm xét khảo thí. Ai thi đậu thì cho làm tăng sĩ và đạo sĩ, còn ai thi
hỏng thì bắt hồn tục. Đây là hành động đầu tiên của chính quyền Nho giáo
để kiểm sốt Phật giáo và Lão giáo. Hành động này đã có thể loại ra một số
người lợi dụng hai đạo Phật Lão. Nhưng sự thi cử này đã được tổ chức theo
lối khảo hạch từ chương của Nho giáo, nếu đậu thì được cơng nhận là tu hành
chân chính, cịn những người khác, dù mộ đạo và tâm thành đến mấy mà
không diễn tả được đức tin và kiến thức của mình bằng văn chương thì cho là

khơng phải tu hành chân chính. Điều này khi áp dụng với đạo Phật, nhất là
Thiền tông, là một sự ép uổng.
Về việc xây cất tự viện.Trong đời Trần, các vua làm chùa, các quan làm
chùa, dân chúng cũng thi nhau làm chùa. Còn việc đúc tượng, riêng thiền sư
Pháp Loa đã cho đúc tới 1.300 tượng Phật bằng đồng lớn nhỏ. Vua Anh Tông,
nhân ngày lên làm Thái thượng hoàng, cho đúc tượng A Di Đà, Thích Ca và
Di Lặc, mỗi tượng cao 17 thước. Chùa Báo Ân có rất nhiều ruộng. Năm 1308,
vua Anh Tơng lấy 100 mẫu ruộng của gia đình Trần cúng vào chùa Báo Ân.
Năm 1312, vua lại lấy thêm 500 mẫu ruộng của Niệm Như Trang để cúng cho
chùa. Chùa Siêu Loại cũng có nhiều ruộng. Năm 1313, Bảo Từ hồng thái
hậu cúng vào chùa 300 mẫu ruộng nhà… Nhiều ruộng nhất là chùa Quỳnh
Lâm, chùa này có tới trên 1.000 mẫu ruộng và nuôi đến một ngàn người để
canh tác. Các chùa Báo Ân, Siêu Loại và Quỳnh Lâm là những cơ sở lớn của
Phật giáo Trúc Lâm, tất nhiên bất động sản của những chùa ấy là để nuôi tăng
sĩ và để làm Phật sự. Tuy vậy sự ủng hộ quá mức đó đã rất có hại cho giáo
hội.Các nho thần trong triều đình thấy sự ủng hộ quá mức đó khơng khỏi
20


không bực tức. Ý của các nho thần Lê Bá Quát là thay vì làm thêm chùa, đúc
thêm tượng thì nên để tiền xây văn miếu và nhà học.
Phật giáo đời Trần để lại cho chúng ta vô số những bài học q giá.
Trong đó bài học về sự thịnh suy của Phật giáo là đáng quan tâm nhất. Chúng
ta thấy những lúc Phật giáo cực thịnh không phải là lúc lắm chùa, nhiều sư, có
được sự hưng thịnh của Phật giáo là nhờ vào trí tuệ Phật chất tỏa ra từ mỗi
người con Phật. Phật chất ấy là hoa trái của những ngày tháng cơng phu tu
tập. Chính cái đó mới có thể ln lưu trong dịng đời bất tận mà tỏa sáng
muôn ngàn thế hệ hôm nay và mai sau. Tuy rằng trong mỗi đời vua Trần, số
người tu chứng không phải là nhiều, chỉ một hai người, nhưng cũng đủ làm
rạng sáng tông phong nhà Phật, cũng như cũng đủ làm chỗ qui ngưỡng,

nương tựa vào tăng ni, tín đồ Phật giáo. Ở đây, Phật pháp vẫn được truyền bá
rộng khắp mọi nơi, mọi lúc trong nước Đại Việt.
1.3. Khái quát tư tưởng cơ bản Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
1.3.1. Khái quát tư tưởng thế giới quan Phật giáo Trúc lâm thời Trần
Tư tưởng về thế giới quan của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần đi sâu vào
vấn đề bản thể của thế giới, với phạm trù “khơng” – cịn gọi là “hư”. Theo
đó, “khơng” là bản thể của vũ trụ, còn “hư” là bản thể vũ trụ được thể hiện
trong mỗi con người. “Không” là cội nguồn, là ngun khởi của mọi cái và có
tính tuyệt đối.
Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Trúc Lâm là “cư trần lạc đạo”,
“tức tâm tức Phật”. Quan niệm này đã có mặt từ thời vua Trần Thái Tơng, khi
nhà vua bỏ ngai vàng vào núi để tìm Đạo và được Quốc sư Viên Chứng thức
tỉnh: “Trong núi vốn khơng có Phật. Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà
biết thì đó đích thị là Phật”, và ít nhiều Trần Nhân Tông cũng đã kế thừa
được từ Tuệ Trung Thượng Sĩ, một con người vĩ đại mà Trần Nhân Tơng đã
ca ngợi:
“Càng nhìn càng cao
Càng khoan càng bền
21


×