TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
---------------------
DƯƠNG THỊ LIÊN
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DU
KÍCH TỈNH THÁI NGUYÊN
GIAI ĐOẠN 1940 - 1945
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TH.S NGUYỄN VĂN NAM
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy Nguyễn Văn Nam và các thầy
cô trong Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình hướng
dẫn em nghiên cứu và thực hiện Khóa luận tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn tới Văn phòng Ban Tuyên giáo Tỉnh Uỷ tỉnh
Thái Nguyên, Thư viện tỉnh Thái Nguyên, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch
tỉnh Thái Nguyên đã giúp đỡ em trong quá trình sưu tầm tư liệu để hoàn thành
được đề tài này. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do thời gian có hạn và
bước đầu làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học nên không thể
tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong được sự đóng góp của các thầy cô và
các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Tác giả
Dương Thị Liên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
đã nêu trong Khóa luận có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của Khóa luận là trung
thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Tác giả
Dương Thị Liên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 3
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu. .............................................. 5
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................... 6
5. Đóng góp đề tài ......................................................................................... 7
6. Kết cấu đề tài ............................................................................................. 7
Chương 1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DU
KÍCH TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 1940 - 1945 ............................... 8
1.1. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về
phong trào đấu tranh du kích ......................................................................... 8
1.2. Khái quát về tỉnh Thái Nguyên ............................................................ 16
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư ........................................................ 16
1.2.2. Điều kiện lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội .................................... 26
1.2.3. Truyền thống văn hóa, đấu tranh cách mạng ................................ 29
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 40
Chương 2. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DU KÍCH TỈNH THÁI NGUYÊN
GIAI ĐOẠN 1940 - 1945 ............................................................................... 41
2.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn và sự hình thành đội du kích Bắc Sơn ................ 41
2.1.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) bùng nổ .................................... 41
2.1.2. Trung đội Cứu quốc quân I ra đời và phong trào đấu tranh của
Trung đội Cứu quốc quân I ..................................................................... 50
2.2. Cứu quốc quân II và những hoạt động đấu tranh du kích trên căn cứ địa
Bắc Sơn - Võ Nhai ...................................................................................... 56
2.2.1. Quá trình ra đời Trung đội Cứu quốc quân II ............................... 56
2.2.2. Hoạt động đấu tranh du kích trên căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai 65
2.3. Sự ra đời của Trung đội Cứu quốc quân III và hoạt động đấu tranh du
kích .............................................................................................................. 73
2.3.1. Sự ra đời của Trung đội Cứu quốc III ........................................... 73
2.3.2. Hoạt động đấu trang du kích của Trung đội Cứu quốc III ............ 79
2.4. Đặc điểm và vai trò của phong trào đấu tranh du kích ở tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 1940 - 1945 .................................................................... 87
2.4.1. Đặc điểm của phong trào đấu tranh du kích ở Thái Nguyên ........ 87
2.4.2. Vai trò của phong trào đấu tranh du kích ở Thái Nguyên ............ 96
Tiểu kết chương 2.......................................................................................... 114
KẾT LUẬN ................................................................................................... 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 118
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta
đã lập nên rất nhiều chiến công hiển hách, đã đánh bại nhiều quân xâm lược
mạnh hơn ta nhiều lần để giữ vững non sông gấm vóc, giành độc lập tự do
cho dân tộc. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lịch sử Việt Nam
bước sang một thời đại mới - thời đại có Đảng lãnh đạo, truyền thống yêu
nước quật cường của dân tộc được phát huy cao độ và được nâng lên một tầm
cao mới.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đưa tới sự ra đời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi này như một thiên anh hùng ca chói
lọi nhất trong lịch sử ngàn năm đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước. Cánh
mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả của quá trình phát triển lâu
dài qua các giai đoạn 1930 - 1931; 1936 - 1939; 1939 - 1945 và sự chuẩn bị
kỹ lưỡng về mọi mặt: lực lượng, căn cứ, hậu phương… Có được thành quả
trên là do cách mạng Việt Nam có sự lãnh đạo hết sức tài tình, với những chủ
chương, đường lối sáng suốt của Trung Ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh; Hơn thế nữa, cách mạnh nước ta còn có sự đồng lòng nhất trí, quyết
tâm, anh dũng của lực lượng vũ trang nhân dân và toàn thể dân tộc ta. Nguyên
nhân thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do nhân dân ta được
chuẩn bị lâu dài về mọi mặt, trong đó có sự ra đời, phát triển của lực lượng vũ
trang nhân dân với cuộc chiến tranh du kích do các lực lượng đó tiến hành.
Trong cuộc đấu tranh đầy khó khăn đó, sự ra đời và phát triển của lực
lượng du kích tỉnh Thái Nguyên có vai trò và ảnh hưởng quan trọng. Mặc dù
trải qua nhiều khó khăn, thử thách; thế nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực
lượng du kích Thái Nguyên đã phát triển không ngừng đưa tới sự ra đời của
các Trung đội Cứu quốc quân I, II, III. Việc tiến hành những hoạt động du
1
kích giành chính quyền từng phần ở các địa phương rồi tiến lên giành chính
quyền trong toàn tỉnh là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở Thái Nguyên. Thời gian đã qua đi nhưng những
hồi ức về cuộc đấu tranh đầy cam go, quyết liệt, hi sinh mất mát của quân và
dân du kích vẫn còn sống mãi trong mỗi chúng ta. Sự phát triển của các lượng
Cứu quốc quân và những hoạt động đấu tranh du kích của lực lượng này trên
địa bàn Thái Nguyên đã đặt nền móng cho sự hình thành lực lượng quân đội
nhân dân Việt Nam sau này.
Nghiên cứu về phong trào đấu tranh du kích ở tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 1940 – 1945 không chỉ tái hiện lại bức tranh sinh động về những năm
tháng đấu tranh đầy hi sinh, gian khổ của quân và dân du kích mà còn thấy
được sự nỗ lực, phát triển không ngừng của các lực lượng du kích Thái
Nguyên trước yêu cầu của cách mạng. Đặc biệt, qua quá trình đó chúng ta còn
thấy được vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chèo lái “con thuyền” cách
mạng Việt Nam đi tới bến bờ vinh quang.
Phong trào đấu tranh du kích ở mỗi khu vực, địa phương có những đặc
điểm khác nhau. Trong những năm từ 1940 đến 1945, các đội du kích Thái
Nguyên đã ra đời, các phong trào đấu tranh của du kích Thái Nguyên là
những phong trào đấu tranh chống Pháp sớm nhất do Đảng trực tiếp lãnh đạo
và có vai trò quan trọng đến thắng lợi trong cuộc vận động giành chính quyền
ở nơi đây. Nghiên cứu Phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 1940 - 1945 không chỉ để tái hiện lại lịch sử hình thành, phát triển,
phong trào hoạt động của các đội du kích mà qua đó góp phần nhận thức đầy
đủ hơn về vai trò, vị trí của đấu tranh du kích với cuộc vận động giành chính
quyền ở Thái Nguyên và đối với thắng lợi chung của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 của dân tộc, khẳng định vai trò của Trung Ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi tới bến bờ độc
2
lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn như trên, tôi quyết định chọn đề
tài “Phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1940 - 1945”
làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về lý luận, Lê Nin trong tác phẩm “Chiến tranh du kích”, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964 đã đưa ra những vấn đề lý luận về chiến
tranh du kích, phân biệt chiến tranh du kích với các hoạt động giết người trả
thù, đồng thời khẳng định vai trò to lớn của đấu tranh du kích là: “các cuộc
tập kích […] vào hậu phương của quân đội địch khi chiến trường chính đã im
tiếng súng”. Đó là cơ sở để Đảng và nhân dân ta nói chung, nhân dân Thái
Nguyên nói riêng vận dụng vào đấu tranh du kích giành chính quyền.
Đấu tranh du kích là một vấn đề đã thu hút không ít những nhà khoa học,
nhà nghiên cứu, các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước quan tâm, tìm hiểu ở
nhiều góc độ khác nhau. Với những phương pháp và cách thức nghiên cứu
khác nhau, các tác giả đó đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu là
một số tác giả và tác phẩm sau:
Võ Nguyên Giáp với tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của
Đảng”, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970 đã phân tích về những kinh
nghiệm của Đảng ta trong việc lãnh đạo công cuộc khởi nghĩa vũ trang tiến
tới giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt có nhấn
mạnh đến vai trò của lực lượng du kích và những hoạt động du kích đánh địch
Cuốn “Lịch sử Cứu quốc quân” của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu
tự trị Việt Bắc, Nhà xuất bản Việt Bắc, Bắc Thái, 1975, có đề cập cụ thể đến
sự ra đời, quá trình hoạt động, kết quả, thắng lợi của những hoạt động du kích
trên căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai.
Đồng chí Trường Chinh trong tác phẩm “Mấy vấn đề quân sự trong cách
3
mạng Việt Nam”, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1983 đã nhấn
mạnh yêu cầu phải phát triển các lực lượng đấu tranh du kích, phải trang bị vũ
khí cho các đội du kích và xây dựng căn cứ để hoạt động.
Cuốn “Lịch sử Cánh mạng Tháng Tám tỉnh Bắc Thái” đã đề cập đến
những hoạt động tích cực của du kích ở Bắc Thái tin theo Đảng, theo cách
mạng đã xây dựng được nhiều cơ sở, căn cứ du kích để đấu tranh. Tuy nhiên,
tác phẩm chưa hệ thống đầy đủ được sự phát triển và những hoạt động đấu
tranh du kích tỉnh Thái Nguyên, chưa chỉ ra những đặc điểm cuộc đấu tranh
du kích trong thời gian này.
Tác giả Hoàng Ngọc La với tác phẩm “Căn cứ địa Việt Bắc (1940 1945)”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 đã đề cập tới quá
trình hình thành và hoạt động của các Trung đội Cứu quốc quân I, II, III.
Ngay sau khi ra đời, Cứu quốc quân và các lực lượng du kích Thái Nguyên đã
tiến hành xây dựng và mở rộng căn cứ địa cách mạng với các vùng lân cận
trong giai đoạn 1940 - 1945.
Ban Chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên đã xuất bản cuốn sách “Thái
Nguyên - Lịch sử đấu tranh cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941 1945)”, Thái Nguyên, 1999, trình bày một cách sinh động những năm tháng
đấu tranh của quân và dân tỉnh Thái Nguyên trong đó có đề cập tới hoạt động
của các lực lượng du kích góp phần vào thành công của Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở tỉnh Thái Nguyên.
Tác giả Đinh Xuân Lâm (chủ biên) trong cuốn “Đại Cương lịch sử Việt
Nam”, tập II, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 2000 đã đề cập tới quá trình
hình thành, phát triển của lực lượng du kích đầu tiên, đặc biệt là của các
Trung đội Cứu quốc quân, kể từ sau Khởi nghĩa Bắc Sơn (thánh 9 năm 1940)
nhưng hết sức khái quát, sơ lược.
Viện lịch sử Quân sự Việt Nam đã xuất bản cuốn sách “Lịch sử các đội
4
quân tiền thân quân đội nhân dân Việt Nam”, Hà Nội, 2004. Cuốn sách này
đã phân tích và trình bày một cách cụ thể về sự hình thành và phát triển của
các lượng du kích Thái Nguyên từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) sau đó phát
triển lên thành các Trung đội Cứu quốc quân I, II, III và sau này là đội Việt
Nam Giải phóng quân – đây là các đội quân tiền thân của quân đội nhân dân
Việt Nam.
Ngoài ra nhiều bài báo khoa học, bài viết trên các tạp chí chuyên ngành,
báo địa phương cũng đề cập khái lược về nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý
nghĩa của những hoạt động đấu tranh du kích trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Mặc dù những bài viết, những công trình nghiên cứu trên đều phân tích,
đề cập tới lực lượng du kích Thái Nguyên ở những khía cạnh khác nhau
nhưng chưa có một công trình khoa học, bài viết nào nghiên cứu một cách hệ
thống, khoa học, chuyên sâu về “Phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 1940 - 1945. Nhưng đó là những nguồn tài liệu tham khảo
quan trọng giúp tôi hoàn thành đề tài này.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 1940 - 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu giới hạn trên phạm vi địa bàn
tỉnh Thái Nguyên. Do vấn đề chiến tranh du kích có rất nhiều khía cạnh nên
đề tài chỉ đề cập đến cơ sở cho việc hình thành phong trào đấu tranh du kích ở
tỉnh Thái Nguyên, sự hình thành lớn mạnh và hoạt động của các đội du kích;
Đặc điểm và vai trò của phong trào đấu tranh du kích ở tỉnh Thái Nguyên.
Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu giới hạn từ năm 1940 đến tháng
3 năm 1945.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
5
Đề tài tập trung làm rõ:
Những cơ sở, điều kiện cho sự ra đời cũng như những hoạt động đấu
tranh du kích ở tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn 1940 - 1945.
Quá trình hình thành các đội du kích và những hoạt động đấu tranh du
kích tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1940 - 1945.
Đặc điểm và vai trò của phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 1940 - 1945.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã tham khảo các Văn kiện, Chỉ
thị, Nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Những bài viết,
bài phát biểu, các tác phẩm lý luận về chiến tranh du kích, đặc biệt là những
tài liệu đề cập đến những hoạt động du kích trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
trước năm 1945.
Đề tài cũng có sử dụng những nguồn tư liệu lịch sử địa phương như:
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai (1930 1954), Thái Nguyên - Lịch sử đấu tranh cách mạng và kháng chiến chống
Pháp (1941 - 1954).
Ngoài ra, tôi còn sử dụng các kết quả nghiên cứu, các công trình nghiên
cứu về vấn đề đấu tranh du kích của các tạp chí khoa học.
Tác giả cũng tham khảo những tài liệu được lưu trữ tại Trung tâm lưu
trữ tỉnh Thái Nguyên, Thư viện tỉnh Thái Nguyên, Ban Tuyên giáo, Văn
Phòng Tỉnh uỷ tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Trong quá trình thực hiện nghiên cứu tác giả luôn
đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin; quan điểm và đường lối của Đảng về đấu tranh du kích cách mạng.
6
Về phương pháp nghiên cứu: Sử dụng 2 phương pháp chủ đạo là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic, trong đó phương pháp lịch sử là chủ yếu.
Ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: So sánh, thống kê
để làm nổi bật được nội dung của đề tài.
5. Đóng góp đề tài
Đề tài cố gắng tái hiện một cách hệ thống, khoa học về quá trình hình
thành, phát triển, quá trình hoạt động của các đội du kích ở Thái Nguyên
trong quá trình vận động giành chính quyền ở nơi đây.
Thông qua đó, đề tài góp thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn để
nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, vị trí của đấu tranh du kích với cuộc vận
động giành chính quyền ở nơi đây và đối với thắng lợi chung của Cách mạng
Tháng Tám 1945 của dân tộc.
Đề tài Phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1940 1945 góp phần bổ sung nguồn tư liệu cho nghiên cứu cuộc vận động giành
chính quyền 1939 - 1945 trên cả nước, và là tư liệu để nghiên cứu lịch sử địa
phương tỉnh Thái Nguyên.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa
luận gồm 2 chương:
Chương 1. Điều kiện hình thành phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 1940 - 1945
Chương 2. Phong trào đấu tranh du kích tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
1940 - 1945
7
Chương 1
ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DU
KÍCH TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 1940 - 1945
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, VÀ
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DU
KÍCH
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những vấn đề lý luận về chiến tranh du
kích, phân biệt chiến tranh du kích với các hoạt động giết người trả thù, đồng
thời khẳng định vai trò to lớn của đấu tranh du kích là: “các cuộc tập kích
[…] vào hậu phương của quân đội địch khi chiến trường chính đã im tiếng
súng”. Bàn về chiến tranh du kích, F. Engels - nhà chiến lược quân sự Marxist
viết “ Một dân tộc muốn giành được độc lập cho mình thì không được giới
hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường. Khởi
nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích khắp nơi, đó là
phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng một dân
tộc lớn, một đội quân nhỏ bé có thể chống lại một đội quân mạnh có tổ chức
tốt hơn”. Đó là cơ sở để Đảng và nhân dân ta nói chung, nhân dân Thái
Nguyên nói riêng vận dụng vào đấu tranh du kích giành chính quyền.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - Người chiến sỹ cộng sản đầu tiên của
Việt Nam, vị lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng Việt Nam cũng đưa ra những
quan điểm về đấu tranh du kích, là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động quân sự
của cuộc chiến tranh giải phóng ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân
quân tự vệ và du kích là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của tổ Quốc,
vô luận kẻ thù hung bạo thế nào, hễ đụng đến lực lượng đó thì địch nào cũng
phải tan rã” [37, tr.50]. Hay “Du kích là cách đánh úp hay đánh lén, đánh
lúc kẻ thù không ngờ, không phòng. Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị
8
áp bức chống đế quốc. Đế quốc có khí giới tốt, có quân đội đàng hoàng; quân
du kích không có khí giới tốt, chưa thành quân đội đàng hoàng; nhưng quân
du kích được dân chúng ủng hộ, thuộc địa hình, địa thế, khéo lợi dụng đêm
tối, mưa nắng, khéo xếp đặt kế hoạch, nên quân du kích vẫn có thể đánh được
đế quốc. Chuyến này chúng ta khởi nghĩa vũ trang đánh Tây - Nhật, chính
dùng lối du kích mà đánh. Biết đánh du kích thế nào cũng thắng lợi” [37,
tr.169]. Tác phẩm đầu tiên bàn về quân sự của Nguyễn Ái Quốc là tác phẩm
“Công tác quân sự trong nông dân”, là bài giảng của Người tại trường quân
sự của những người cộng sản Đức ở Matxcơva vào cuối năm 1927, được xuất
bản ở Đức năm 1928 [34, tr.168]. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng quan
trọng của Nguyễn Ái Quốc về vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng.
Trong tác phẩm, Người đưa ra kết luận: “Lịch sử đấu tranh của nông dân trên
khắp thế giới minh họa một cách phong phú con đường mà phong trào du
kích dần dần tự chuyển thành một lực lượng nghiêm chỉnh, thành một lực
lượng có khả năng cung cấp những người lãnh đạo thực sự, thực hiện những
nhiệm vụ cách mạng có tầm quan trọng lớn lao… chìa khóa dẫn tới những
thắng lợi vững chắc của các toán du kích là sự liên hệ mật thiết với quần
chúng nông dân. Hoạt động du kích là việc phi thường trong tình thế cách
mạng, là sục sôi cách mạng trong quần chúng nông dân. Cuộc đấu tranh du
kích phải phản ánh được lợi ích của quảng đại quần chúng nông dân, và phải
có tình thế cách mạng trực tiếp thì mới có thể dành được thắng lợi” [23,
tr.421- 423]. Tác phẩm còn đề cập đến nhiều vấn đề khác thuộc phạm trù
chiến tranh du kích như: Nguyên tắc đánh du kích; huấn luyện tác chiến cho
đội du kích; các chiến thật đánh du kích… Tác phẩm này “…thực sự mới là
tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đặt viên đá tảng về lý luận quân sự
cho cách mạng chúng ta…” [51, tr.33].
Người nhấn mạnh để đánh du kích thành công trong cuộc chiến tranh
giải phóng, cần dựa vào 4 điều:
9
1. Có đường lối chính trị đúng đắn
2. Phải dựa trên cơ sở quần chúng
3. Phải có tổ chức vững chắc và nghiêm mật
4. Phải có một lối đánh rất tài giỏi.
Trong 4 yếu tố trên, Người nhấn mạnh yếu tố thứ hai, đó là yếu tố nói
đến mối liên hệ giữa lực lượng du kích và quần chúng nhân dân. Dân chúng
vừa là người tham gia vừa là lực lượng giúp sức cho du kích. Vì thế, du kích
phải dựa vào quần chúng nhân dân. Người viết: “Du kích như cá, dân chúng
như nước. Cá không có nước thì cá chết, du kích không có dân thì du kích
chết. Quân du kích và dân chúng phải mật thiết liên lạc với nhau là vì quân
du kích đánh Tây - Nhật để bảo hộ dân chúng, vậy dân chúng phải hết sức
ủng hộ quân du kích” [37, tr.469].
Sau khi nêu rõ mục đích chính trị, hướng dẫn các tổ chức, công trình
dành cho cả 9 chương trong tổng số 13 chương (Từ chương III đến chương
XII) vào việc chỉ đạo nghệ thuật du kích chiến tranh. Riêng về “Lối đánh tài
giỏi” được người triển khai một cách hết sức cụ thể, sinh động cả chương III:
Đánh du kích vẫn cần chú ý đến bốn nguyên tắc chính này:
1. Giữ quyền chủ động
2. Hết sức nhanh chóng
3. Bao giờ cũng giữ thế công
4. Phải có kế hoạch thích hợp và chu đáo.
Theo Người: “Giữ quyền chủ động là khôn khéo sử khiến quân thù,
muốn đánh nó ở chỗ nào thì đưa nó đến đó mà đánh, muốn đưa nó vào bẫy
của mình có thể đưa được…giữ quyền chủ động được thì thế nào cũng
thắng”. Người cũng phân tích trong đánh du kích mà không đánh nhanh thì
không phải là du kích, phải đánh thật nhanh chóng, rút cũng phải nhanh
chóng, mới là đánh du kích: “Phải nhanh chóng như mưa sa gió táp, chớp
10
nhoáng đã đánh xong một trận, quân thù chưa tỉnh thì đã biến mất rồi” [37,
tr.473].
Giữ thế công cũng có nghĩa là không được phòng ngự, đánh du kích là
phải luôn đánh trước, luôn giữ thế công, phòng nhự là chết. Có được 3 yếu tố
trên mà không có kế hoạch chu đáo, thích hợp thì cũng thất bại. Có kế hoạch
chu đáo và thích hợp sẽ khiến kẻ thù không bao giờ chống đỡ được, chỉ có thể
chuốc lấy thất bại. Bốn nguyên tắc trên là những nguyên tắc chính của cách
đánh du kích do Nguyễn Ái Quốc nêu lên.
Trong tác phẩm trên, Người còn đưa ra “4 mưu mẹo”
1. Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía đông đánh phía Tây
2. Tránh trận gay go, không sống chết giữ đất
3. Hóa chỉnh vi tinh, hóa linh vi chỉnh (Phân tán, tập chung)
4. Mình yên đánh quân thù động, mình khỏe đánh quân thù mệt.
Dựa vào 4 nguyên tắc cơ bản đó, du kích có thể có nhiều lối đánh khác
nhau, tùy theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà đánh sao cho có hiệu
quả nhất, có thể đem lại thắng lợi nhanh nhất, lớn nhất. Đây chính là sự linh
hoạt của lối đánh du kích, một lối đánh mà cha ông ta đã dùng nhiều trong
lịch sử. Các chương tiếp theo, từ chương IV đến chương XII, từng cách đánh
du kích được Người trình bày cụ thể trong từng chương: Cách tiến công, tập
kích, phục kích, cách phòng ngự, cách “Đánh đuổi giặc”, cách “Rút lui”, phá
hoại…Người viết: “Du kích bao giờ cũng tiến công, một là tập kích, hai là
phục kích” [37, tr.476]. Muốn tập kích được thắng lợi phải chuẩn bị rất bí mật
và chu đáo, lúc tiến hành phải nhanh chóng và kiên quyết. Để tập kích có kết
quả cần làm tốt mấy điều đó là: Trinh thám, xếp kế hoạch, bắt đầu ra đi, lúc
đến chỗ tập kích, xung phong, sau khi tập kích.
Phục kích là ẩn nấp trong một chỗ trực quân giặc đi qua, thoạt ra đánh
úp. Phục kích dễ thắng lợi hơn tập kích, vì vậy đội du kích cần chú ý nhiều
11
đến cách phục kích nhất là đội du kích mới bắt đầu hoạt động, chưa có nhiều
kinh nhiệm, chưa rèn luyện nhiều. Muốn phục kích cần chú ý mấy điều: Trinh
thám, chọn chỗ phục kích, thi hành phục kích, sau khi phục kích thắng lợi,
phục kích lính lẻ của giặc, phục kích đội vận tải của giặc, phục kích lính kỵ
mã, xa hỏa của giặc.
Về chiến thuật phòng ngự, Người đã khái quát rằng: “Phòng ngự nghĩa
là chống giữ. Mình ở một chỗ, quân thù đến đánh, mình chống giữ gọi là
phòng ngự. Như trên đã nói du kích là tiến công, mình bao giờ cũng nhằm
quân thù mà đánh trước. Du kích mà để cho quân thù đến đánh, mình phải
phòng ngự, là không tốt rồi, là phải vào ở thế khó rồi. Tuy vậy nhiều khi đội
du kích vì tình thế buộc phải phòng ngự như lúc đội du kích hoạt động trong
vùng quân thù, bất ngờ bị quân thù tập kích, hoặc sau khi đánh úp quân thù
một trận, đội du kích phải dùng lối phòng ngự để bảo vệ cho chủ lực an toàn
rút lui, hoặc lúc bảo vệ căn cứ địa của cách mạng, đội du kích cũng phải
dùng lối phòng ngự. Nhưng lối phòng ngự này là lối phòng ngự thế công chứ
không phải rút vào một chỗ để cho quân thù tha hồ đánh phá” [37, tr.491].
Về chiến thật đánh đuổi giặc, quân giặc đã bị đánh thua thì đội du kích
phải đuổi theo thừa lúc chúng bị khó khăn mà kế tiếp xung phong để tiêu diệt
chúng. Tuy vậy không nên đuổi theo quá xa vì sợ gặp quân cứu viện của
chúng. Lúc quân giặc bị đánh tan rồi thì đội du kích phải cắt ra một số đội
viên xếp dọn chiến trường cứu kẻ bị thương và đưa đi nơi dưỡng bệnh, xử trí
những đồ đạc lấy được, xử trí tù binh. Còn đại đội phải đi ngay phòng khi tàu
bay giặc đến ném bom. Chỉ khi nào 10 phần chắc chắn là quân cứu viện giặc
không đến được thì đại đội du kích mới nên ở lại hơi lâu để tiến hành công
việc tuyên truyền cổ động dân chúng. Nếu quân giặc bị đánh bại nơi gần căn
cứ địa của chúng ta thì chúng ta lại càng cần đuổi theo mà tiêu diệt. Lúc này
phải động viên dân chúng giúp vào. Ngoài ra trong tác phẩm còn nêu lên
12
nhiều chiến thuật du kích khác. Trong mỗi chiến thuật đều có sự hướng dẫn
sâu sắc, cụ thể, cho nên cuốn sách là cẩm nang cho các chỉ huy quân du kích
và cho từng du kích quân.
Nhờ vậy, từ đầu năm 1941 trở đi, sau sự ra đời của các đội du kích Bắc
Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa, là sự xuất hiện hàng trăm đội tự vệ chiến đấu và du
kích quân “Đánh Pháp, đuổi Nhật” xuất hiện trên khắp mọi miền đất nước. Đó
cũng là điều kiện để xuất hiện nhiều căn cứ địa trên cả nước. Không phải ngẫu
nhiên mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành chương cuối cùng của công trình
“Cách đánh du kích” cho vấn đề “Căn cứ địa”. Sự nhất quán trong tư tưởng
quân sự của Người là: “Du kích chiến phải gắn liền với căn cứ địa”. Chương
“Căn cứ địa” tuy ngắn gọn nhưng đã thể hiện rõ tư tưởng “Căn cứ địa” của
Người. Sau khi hình thành hạt nhân chiến đấu là các đội tự vệ chiến đấu, các
đội quân du kích…cần xây dựng căn cứ địa theo các nguyên tắc cơ bản.
Với đường lối chính trị cứu nước, với phương châm “lấy nhỏ đánh lớn,
lấy ít địch nhiều”, lại chưa có chủ quyền lãnh thổ, đất đai thì trước hết: “đội
du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù, cần có một vài nơi dừng chân làm
cơ sở. Tại nơi ấy, đội du kích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ
ngơi luyện tập”.
Nguyên tắc xây dựng căn phải gắn liền với nguyên tắc lựa chọn địa hình,
địa lợi, tức coi trọng yếu tố địa lý. Trong đó, cùng với “địa thế, địa hình” cần
quan tâm yếu tố “địa - chính trị”, tức sự ủng hộ, che chở của quần chúng cách
mạng. Tác phẩm “Cách đánh du kích” nêu rõ: “Nơi ấy phải có địa thế hiểm
yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ”.
Nguyên tắc thứ 3 là “phải tiến tới xây dựng chính quyền cách mạng cho
căn cứ địa”. Từ nhiều cơ sở được chọn làm căn cứ, phải lựa chọn được nơi
vững vàng nhất. Ở đó, sau khi đánh đổ được chính quyền địch phải xây dựng
cho được chính quyền cách mạng: “Chưa thành lập được chính quyền địa
13
phương thì căn cứ khó thành lập và không thể củng cố được”.
Nguyên tắc thứ 4 là: Từ căn cứ địa, lực lượng du kích phát triển phải tiến
tới thành lập được các đội quân chính quy: “Có chính quyền cách mạng của
địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà phát triển lực
lượng và hóa ra quân chính quy”. Ngoài tác phẩm “Cách đánh du kích”,
quan điểm quân sự Hồ Chí Minh về căn cứ địa và chiến tranh du kích còn
được phổ biến trong thơ ca truyền miệng như diễn ca “Lịch sử nước ta”, bài
“Ca đội tự vệ”, “bài ca du kích”.
Khi phong trào đấu tranh vũ trang phát triển, “Cách đánh du kích” thật
sự là “Người dẫn đường” cho những du kích quân Việt Nam và căn cứ địa
phát triển ở nhiều nơi trong toàn quốc. Trong quá trình vận động cách mạng
Tháng Tám, nhiều căn cứ địa cách mạng đã ra đời. Hầu như bất cứ ở đâu, lực
lượng quân sự ra đời và chiến tranh du kích phát triển những căn cứ địa lớn
đều trở thành các chiến khu cách mạng. Khi trải rộng ra nhiều căn cứ địa vừa
và nhỏ ở hầu khắp các địa phương trong toàn quốc còn gọi là các chiến khu,
khu du kích. Mỗi căn cứ đều có sáng tạo riêng về quy hoạch địa bàn, xây
dựng lực lượng chính trị, tổ chức lực lượng vũ trang, chỉ huy tác chiến sao
cho phù hợp với quá trình hình thành và phát triển của khu căn cứ. Nhưng
chung nhất, phổ biến nhất vẫn là mấy nguyên tắc cơ bản mà tư tưởng quân sự
Hồ Chí Minh đã nêu ra: Trước hết phải có hạt nhân chiến đấu là các đội tự vệ
chiến đấu, các đội quân du kích. Các chiến khu, khu căn cứ khác nhau cũng
đều có lực lượng vũ trang đầu tiên đứng lên xây dựng. Các lực lượng vũ trang
hạt nhân đó xây dựng căn cứ địa theo 4 nguyên tắc.
Để có nơi tương đối an toàn cho các chiến sỹ tập luyện, nghỉ ngơi, cất
súng đạn, vũ khí, lực lượng vũ trang phải chọn được địa bàn tương đối thích
hợp; vừa hiểm trở, bí mật để địch khó tìm, khó phát hiện lại vừa thuận lợi để
“tiến có thế công, thoái có thế thủ”…tức là có thế “địa quân sự”.
14
Địa bàn đó phải có lực lượng cách mạng quần chúng ủng hộ, bảo vệ. Lực
lượng quần chúng phải được giác ngộ và tổ chức từ thấp tới cao. Trong cách
mạng Tháng Tám ở những căn cứ địa mạnh, đại đa số quần chúng đều được
tổ chức vào Mặt trận Việt Minh như ở Cao Bằng - Bắc Kạn, đã có những “Xã
hoàn toàn”, “châu hoàn toàn”, những nơi tất cả quần chúng ra nhập Việt
Minh - tức có ưu thế về địa - chính trị.
Phải thành lập cho được chính quyền cách mạng ở khu căn cứ. Chính
quyền cách mạng không chỉ bảo đảm an ninh trật tự, phòng gian, trừ
gian…cho khu căn cứ, mà còn có thể vận động quần chúng ủng hộ về kinh tế,
vũ khí và tổ chức đời sống có văn hóa cho khu căn cứ.
Nhờ có chính quyền căn cứ địa ra đời mới phát huy được tính địa - kinh
tế, địa - văn hóa của khu căn cứ… Việc xây dựng chính quyền căn cứ địa là
vô cùng quan trọng, như đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Chưa
thành lập được chính quyền địa phương thì căn cứ địa khó thành lập và
không thể củng cố được”.
Phải liên tục phát triển lực lượng vũ trang từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến
mạnh, từ các đội tự vệ phải tiến lên xây dựng các đội tự vệ chiến đấu, các đội
du kích địa phương, rồi du kích thoát ly.
Các nguyên tắc cơ bản trên đã biểu hiện rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa chiến
tranh cách mạng và căn cứ địa cách mạng: Căn cứ địa sinh ra từ nhu cầu của
đấu tranh vũ trang mà lực lượng vũ trang là người sinh ra căn cứ địa. Lực
lượng vũ trang xây dựng và mở rộng căn cứ địa để căn cứ địa có thể góp phần
vào việc phát triển nhanh chóng lực lượng vũ trang. Tất cả nằm trong mối
quan hệ biện chứng “nhân quả”. Nếu cuối cùng không phát triển được lực
lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang thì căn cứ coi như chưa đạt được mục
đích. Trong cả nước, các căn cứ địa được củng cố và mở rộng cùng với sự
phát triển nhanh chóng của lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích, góp
15
phần giành được thắng lợi trong cách mạng Tháng Tám.
Có thể nói, những quan điểm quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh về chiến tranh du kích và nghệ thuật đấu tranh du kích đã chính
thức hình thành, từng bước đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ngay sau
Hội nghị Trung Ương 8 (tháng 5 năm 1941), Nghị quyết Hội nghị và những
quan điểm quân sự Hồ Chí Minh được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, đi sâu
vào trong quần chúng cách mạng, đặc biệt là tới căn cứ địa Cao Bằng sau đó
là những lực lượng du kích (Trung đội Cứu quốc quân I, II) của Thái Nguyên.
Nhờ đó, lực lực lượng du kích, phong trào du kích phát triển nhanh, mạnh hơn
cả về số lượng lẫn hiệu quả công tác; căn cứ địa cách mạng liên tục được hình
thành; phong trào cách mạng có những bước tiến vượt bậc trong thời kỳ mới thời kỳ vận động, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, tiến tới giành chính quyền ở
Thái Nguyên cũng như trong toàn quốc.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí: Thái Nguyên là một tỉnh trung du và miền núi Bắc bộ.
Địa bàn của tỉnh nằm giữa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng
rừng núi Việt Bắc, giữ vị trí trung tâm của vùng chiến lược phía Bắc sông
Hồng. Thái Nguyên có diện tích 3541,67 km2, Phía Bắc giáp với tỉnh Bắc
Kạn; phía Đông Nam giáp với tỉnh Bắc Giang; phía Đông Bắc giáp với tỉnh
Lạng Sơn; phía Nam giáp với Hà Nội; phía Tây Nam giáp với tỉnh Vĩnh
Phúc và phía Tây giáp với tỉnh Tuyên Quang, dân số 1.131,300 người. Với
vị trí thuận lợi, tiếp giáp với nhiều tỉnh nên Thái Nguyên là điểm nối giữa
đồng bằng châu thổ với khu vực trung du miền núi phía Bắc. Việc thuận lợi
trong giao thông, đi lại đã tạo nên sự gắn bó, đoàn kết với nhân dân các
tỉnh để cùng nhau chống giặc ngoại xâm.
16
Thái Nguyên là miền đất nối giữa núi rừng Việt Bắc với đồng bằng châu
thổ sông Hồng, là cửa ngõ bảo vệ Kinh đô Thăng Long, ở phía Bắc Đông Đô
xưa và thủ đô Hà Nội ngày nay. Từ thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã xác định vị trí
chiến lược của Thái Nguyên trong sách “Dư địa chí”: “Đấy (Thái Nguyên) là
nơi phiên dậu thứ hai về phương Bắc vậy” [46, tr.238].
Lịch sử hành chính: Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, Thái Nguyên
đã có nhiều sự thay đổi về sự phân chia hành chính khu vực. Theo Sử cũ, thủa
dựng nước, các vua Hùng chia đất đai làm 15 bộ thì tỉnh Thái Nguyên thời ấy
là đất thuộc bộ Vũ Định: “Thái Nguyên thuộc đất Vũ Định, Đông và Bắc giáp
Cao Lạng; Tây và Nam giáp Kinh Bắc; có hai lộ phủ, 9 huyện, 2 châu và 336
làng xã. Đây là nơi phên dậu thứ hai về phía Bắc” [46, tr.238].
Đến thời Lý - Trần, năm 1226, nhà Trần đổi Châu thành Lộ, vùng đất
Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt Giang lộ. Năm 1397, nhà Trần đổi châu Thái
Nguyên thành trấn Thái Nguyên. Sang thời Thuộc Minh (1407 - 1427), thì
trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên.
Dưới triều Lê, năm 1428 vua Lê Thái Tổ chia cả nước thành năm Đạo
(Tây Đạo, Bắc Đạo, Đông Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo) thì vùng đất Thái
Nguyên thuộc Bắc Đạo. Đến thời nhà Nguyễn, năm 1831 - 1832, vua Minh
Mạng chia cả nước thành 30 tỉnh và 1 phủ (phủ Thừa Tuyên), trấn Thái
Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Đến thời Pháp thuộc, tỉnh Thái
Nguyên lại bị chia cắt 1 lần nữa.
Ngày 14/1/1890, Pháp chia cắt vùng đất thuộc Phủ Thông Hóa lập ra
một tỉnh mới gọi là tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Thái Nguyên chỉ còn lại phần đất của
2 phủ Phú Bình và Tòng Hóa.
Trong thời Pháp thuộc, để dễ bề cai trị và đàn áp phong trào nổi dậy của
nhân dân, thực dân Pháp đã tách huyện Bình Xuyên khỏi tỉnh Thái Nguyên để
lập ra tỉnh Vĩnh Yên và thực thi chế độ Quân quản. Địa bàn tỉnh Thái Nguyên
17
sát nhập vào các tiểu Quân khu thuộc các đạo quan binh: Phủ Tòng Hóa, phủ
Phú Bình sát nhập với một số địa hạt khác thuộc Lục Nam, Bắc Ninh lập
thành Tiểu Quân khu Thái Nguyên (một trong ba Tiểu Quân khu thuộc Đạo
Quan binh Phả Lại thành lập ngày 9/9/1891).
Như vậy, từ tháng 10/1890 đến tháng 9/1892, tỉnh Thái Nguyên bị xoá
bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau, đặt dưới quyền quản lí của giới cầm
quyền quân sự Pháp. Theo nghị định của toàn quyền Đông Dương kí vào
ngày 10 và 15/10/1892, các địa hạt trên (trừ Bình Xuyên) lại trở về tỉnh Thái
Nguyên đặt dưới quyền một Công sứ.
Ngày 11/4/1900, thực dân Pháp tách toàn bộ phủ Thông Hóa khỏi tỉnh
Thái Nguyên để thành lập tỉnh Bắc Kạn. Ngày 25/6/1901, chúng cắt tiếp tổng
Yên Đĩnh khỏi huyện Phú Lương, phủ Tòng Hoá, tỉnh Thái Nguyên sáp nhập
về châu Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Tiếp đó, năm 1913, chúng cắt tiếp tổng
Nghĩa Tá khỏi châu Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên sáp nhập về huyện Chợ
Đồn, tỉnh Bắc Kạn và cắt hai xã Phúc Lâm, Tự Lập khỏi tổng Định Biên
Thượng, châu Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên sáp nhập về huyện Sơn Dương,
tỉnh Tuyên Quang
Đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, Thái Nguyên là tỉnh nằm trong
căn cứ địa cách mạng Việt Bắc, giữ vai trò quan trọng trong những năm khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân và kháng chiến chống quân xâm
lược sau này.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời. Năm
1956 Khu tự trị Việt Bắc được thành lập, tỉnh Thái Nguyên nằm trong Khu tự
trị Việt Bắc, thị xã Thái Nguyên trở thành Thủ phủ của Khu tự trị Việt Bắc.
Đến nay, tỉnh Thái Nguyên được chia thành 9 đơn vị hành chính gồm:
thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện: Phú Bình, Phổ Yên,
Đại Từ, Đồng Hỷ, Định Hóa, Phú Lương, Võ Nhai với 180 xã, phường, thị
18
trấn (trong đó có 122 xã, thị trấn thuộc khu vực miền núi, vùng cao). Như
vậy, với vị trí trung tâm của vùng chiến lược phía Bắc sông Hồng, Thái
Nguyên có vị trí rất cơ động - một điều kiện tiên quyết để hình thành phong
trào du kích và phát triển các hoạt động du kích.
Địa hình: Là một tỉnh trung du miền núi nên địa hình Thái Nguyên khá đa
dạng. Với hai cánh cung: Ngân Sơn chạy dài 100 km từ phía Nam Cao Bằng
xuống Phú Lương, có thể ví đó như nóc nhà của tỉnh; cánh cung Sông Gâm
chạy từ Chợ Dã đến phía Tây Định Hóa sừng sững như một bức tường phía
Tây của tỉnh. Bên cạnh những dãy núi đá vôi cao là những đồi núi thấp, xen kẽ
những dãy núi cao là những thung lũng nhỏ hẹp và tương đối bằng phẳng.
Nhìn chung, tỉnh Thái Nguyên hình thành nên 3 vùng: Vùng phía Tây và
Tây Bắc tỉnh gồm các huyện Đại Từ, Định Hóa và các xã phía Tây huyện Phú
Lương núi rừng bao la, trùng điệp, ngóc ngách, vừa hiểm trở, vừa tạo thành
các khu ruộng nhỏ, phì nhiêu nằm sâu kín và rải rác khắp vùng. Vùng núi phía
Đông gồm hai huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai, với độ cao trung bình từ 500m
đến 600m, địa hình phức tạp, hiểm trở, với những khối núi đá vôi to lớn ở
Thần Sa, Thượng Nung, Nghinh Tường, đặc biệt là khối núi đá vôi Phương
Giao ở phía Đông Nam huyện Võ Nhai đồ sộ và hiểm trở có nhiều thung lũng
hẹp và sâu. Vùng trung du gồm các xã Nam huyện Phú Lương, Tây huyện
Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện Phú Bình,
Phổ Yên đồi núi thấp xen với đồng bằng sông Cầu, Sông Công. Đặc điểm địa
hình đó tạo nên những thuận lợi về quân sự: Trong chiến tranh đặc điểm đó cho
phép tỉnh phát huy thế mạnh 3 vùng để hỗ trợ lẫn nhau, kết hợp tiến công và
phòng ngự; trong thời bình, đặc điểm đó lại phát huy thế mạnh kinh tế 3 vùng
để xây dựng, phát huy tiềm lực kinh tế, quốc phòng địa phương vững mạnh.
Đặc biệt, Thái Nguyên còn có nhiều hang động mái đá như: hang
Phượng Hoàng (Võ Nhai - Thái Nguyên), mái đá Ngườm ở Võ Nhai, hang
19
Mỏ Gà…Những hang động mái đá này có vai trò quan trọng trong những
năm kháng chiến, là nơi cất giữ lương thực, thực phẩm và là nơi ẩn náu
quan trọng cho quân và dân Thái Nguyên trong cuộc chiến tranh du kích
chống Pháp - Nhật.
Sông ngòi: Nguồn nước của khu vực trong tỉnh cũng rất phong phú do
có nhiều sông, suối, ao, hồ. Các sông chính như: Sông Cầu bắt nguồn từ Bằng
Phúc (chợ Đồn - Bắc Kạn), với độ dài gần 300 km chảy xuống địa bàn Thái
Nguyên suốt từ Bắc xuống Nam qua các huyện Phú Lương, Võ Nhai, Đồng
Hỷ, Thành Phố Thái Nguyên, Phú Bình, Phổ Yên và đây là sông chính lớn
nhất của tỉnh Thái Nguyên. Sông Công bắt nguồn từ vùng rừng núi Điềm Mạc
(Định Hóa) chảy qua các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phổ Yên dài gần 70 km
đây là chi lưu quan trọng nhất của sông Cầu. Ngoài ra, tỉnh Thái Nguyên còn
nhiều sông khác như: Sông Dong, sông chợ Chu, sông Khe Mo…Hơn nữa, hệ
thống sông, suối ở Thái Nguyên phân bổ tương đối đều. Thêm vào đó ở vùng
núi phía Bắc của tỉnh với nhiều rừng cây bao phủ đã tạo ra khả năng lưu giữ
nước ở bề mặt và tạo nguồn nước ngầm; dãy Tam Đảo chắn gió mùa Đông
Bắc làm cho miền Tây của tỉnh có lượng mưa lớn tạo cho tỉnh Thái Nguyên
có nguồn tài nguyên nước dồi dào, rất thuận lợi cho việc canh tác trên các
cánh đồng ruộng phân tán và đảm bảo cho đời sống sinh hoạt để xây dựng các
khu căn cứ địa an toàn, bí mật trong chiến tranh. Đó là tuyến giao thông
đường thuỷ thuận lợi cho quân dân ta trong chiến tranh: Vận chuyển hàng
hoá, vũ khí, đi lại…
Giao thông: Do núi, sông hiểm trở nên trong lịch sử việc phát triển giao
thông, vận tải ở tỉnh Thái Nguyên nhìn chung gặp nhều khó khăn. Cho đến thế
kỷ XI để phục vụ cho nhu cầu quản trị đất nước việc mở mang các đường giao
thông, liên lạc ở tỉnh ta mới được đặt ra. Thời kỳ phong kiến, nhà Lý đã có
nhiều biện pháp tích cực khai thông sông Cầu, làm một số đường nhựa và đặt
20