Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Tải Top 5 mẫu phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.47 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác</b>
<b>I. Mở bài</b>


- Giới thiệu nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại


- Nêu vấn đề nghị luận: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
<b>II. Thân bài</b>


<b>1. Giới thiệu khái quát chung về bài thơ</b>


Viếng Lăng Bác được nhà thơ Viễn Phương sáng tác năm 1976 khi ơng được vinh dự cùng
đồn đại biểu miền Nam ra thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác sau ngày đất nước hoàn toàn thống
nhất và lăng Bác vừa được hồn thành.


<b>2. Phân tích nội dung khổ thơ cuối</b>
- Niềm thương cảm lớn lao:


<i>Mai về miền Nam thương trào nước mắt</i>


+ Một tiếng “thương” của miền Nam là trọn vẹn tình cảm của người miền Nam đối với Bác.
+ Thương là yêu là kính yêu là quý trọng cả cuộc đời cao thượng vĩ đại của Bác đã dành hết
cho dân cho nước cho sự nghiệp giải phóng dân tộc:


<i>Bác để tình thương cho chúng con</i>
<i>Một đời thanh bạch chẳng vàng son</i>


+ Thương là xót xa vì nỗi đau mất mát đi người cha già kính yêu, nỗi đau ấy trào dâng thành
nước mắt, mà cả dân tộc Việt Nam không kiềm lại được. Nỗi đau niềm thương tiếc của nhân
dân Việt Nam đối với Bác làm cảm động cả tấm lòng trời đất khi:


<i>Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa</i>


<i>Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa</i>


=> Câu thơ như bộc lộ rất chân thành nỗi xót thương vô hạn bị kèm nén cho tới phút chia tay
và tn thành dịng lệ.


- Nguyện ước của tác giả:


+ Trong cảm xúc nghẹn ngào, tâm trạng lưu luyến ấy, nhà thơ như muốn được hoá thân để
mãi mãi bên Người:


<i>Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác</i>
<i>Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây</i>
<i>Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này</i>


+ Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc tới ba lần cùng với các hình ảnh liên tiếp con chim, đố
hoa, cây tre như để nói lên ước nguyện tha thiết của nhà thơ muốn là Bác yên lòng, muốn đền
đáp công ơn trời biển của Người.


=> Nguyện ước của nhà thơ vừa chân thành, sâu sắc đó cũng chính là những cảm xúc của
hàng triệu con người miền Nam trước khi rời lăng Bác sau những lần đến thăm Người.


<b>III. Kết bài</b>


- Nêu cảm nhận của bản thân về khổ thơ:


+ Khổ thơ thứ tư diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ. Muốn ở mãi bên lăng Bác, nhưng
tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam, chỉ có cách gửi lịng mình bằng cách hóa
thân, hịa nhập vào những cảnh vật ở bên lăng Bác để ln được ở bên Người.


<b>2. Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác - mẫu 1</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Khổ cuối của bài thơ thể hiện sự thương nhớ và tâm nguyện của nhà thơ sau khi viếng Bác và
trở về miền Nam để tiếp tục dựng xây, bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam kiên cường, máu
lửa của tổ quốc.


<i>“Mai về miền Nam thương trào nước mắt</i>
<i>Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác</i>


<i>Muốn làm đố hoa toả hương đâu đây</i>
<i>Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”</i>


Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác nhà thơ đã khơng thể nào kìm được lịng mình nữa, tuôn
trào nước mắt. Những khổ thơ ở trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt nhưng nhà thơ vẫn cố kìm
giữ trong đến khổ thơ cuối thì cảm xúc của nhà thơ đã tn theo dịng nước mắt tn rơi. Từ
ngữ biểu cảm đã bộc lộ được nỗi xúc động trào dâng lên tới đỉnh điểm.


Từ cái nỗi xúc động đó tác giả thể hiện ước nguyện của mình:
<i>“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác</i>


<i>Muốn làm đố hoa toả hương đâu đây</i>
<i>Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”</i>


Điệp ngữ “muốn làm” khiến cho nhịp thơ nhanh, dồn dập, giúp tác giả thể hiện được khát
vọng mãnh liệt của mình. Khát vọng đó được bộc lộ qua những hình ảnh thơ vừa đẹp vừa gợi
cảm “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu” tất cả để làm đẹp cho nơi Bác
nằm, cũng như tác giả muốn dâng lên Bác những gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên,
thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.


Các từ “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” càng nhấn mạnh thêm cái ước mơ của tác giả
được ở mãi bên Bác, lưu luyến không muốn rời. Sự khát khao này của nhà thơ cũng là khát


khao chung của rất nhiều người, bởi vì:


<i>“Ta bên người, người tỏa sáng bên ta,</i>
<i>Ta bỗng lớn ở bên người một chút”</i>


Viễn Phương cũng cảm nhận được điều đó khi được ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong khổ
cuối là hình ảnh “cây tre trung hiếu”, cây tre này khiến cho chúng ta nhớ lại hình ảnh “hàng
tre” ở đầu bài thơ. Hai hình ảnh “hàng tre” và “cây tre trung hiếu” đã làm nên kết cấu đầu
cuối tương ứng rất chặt chẽ. Nếu như mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc sẽ là
hàng tre trung hiếu với Bác. Tác giả nhắc lại một lần nữa hình ảnh “cây tre” để nhấn mạnh
tình cảm gắn bó, trung thành với Bác, nguyện suốt đời thực hiện lý tưởng của người và đây
cũng chính là ước nguyện của cả dân tộc.


Theo bước chân của nhà thơ Viễn Phương từ khi đến lăng cho tới khi ra về chúng ta nhận ra
được dòng cảm xúc của nhà thơ thể hiện một cách liền mạch và càng lúc càng phát triển. Nỗi
đau cứ được dâng cao và đến khổ cuối thì dâng lên tới đỉnh điểm, nỗi đau ấy cũng chính là
tiếng lịng của tất cả người dân Việt Nam.


Tác giả chưa bao giờ có ước muốn sẽ làm điều gì đó cao cả, kỳ vĩ mà chỉ là “con chim hót”,
“đóa hoa tỏa hương” mà thơi, đó là những hình ảnh vơ cùng nhỏ bé, bình dị nhưng đó là tất cả
những gì tác giả muốn, miễn sao được ở bên Bác.


Với hình ảnh “cây tre” ở khổ 1 là hình ảnh bất khuất, kiên cường thì đến khổ thơ cuối này
hình ảnh “cây tre trung hiếu chốn này” là hình ảnh nghệ thuật nhân hóa, đó là tấm lịng thành
kính, trung thành của tác giả dâng lên Bác, hay nói rộng ra đó là tình cảm của tồn dân tộc
kính dâng lên người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện lịng thành kính và xúc động của nhà thơ khi được vào
viếng lăng Bác. Bài thơ có giọng điệu trang trọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ và gợi cảm, ngơn ngữ
giản dị mà cơ đúc. Bài thơ chính là tâm tình, là lời tri ân, sự biết ơn của con dân gửi tới vị cha


già kính yêu của dân tộc, cả đời gắn bó, sát cánh, hy sinh cho sự nghiệp của cả dân tộc.


<b>3. Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác - mẫu 2</b>


Sau bao nhiêu cảm xúc của một người con lần đầu ra thăm người cha của mình thì giờ đây đã
đến lúc phải rời xa. Cảm xúc ấy của nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện qua khổ thơ cuối bài
thơ “Viếng lăng Bác” với bao ước muốn thành kính.


Bài thơ được sáng tác năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước được
thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành. Tác giả ra thăm miền Bắc vào
lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lịng biết ơn và tự
hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ niềm Nam ra viếng lăng Bác. Cuộc hành trình ấy đã đến
lúc phải ra về với câu thơ đầy xúc động:


<i>“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”</i>


Là một câu thơ mà cũng là một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời giã biệt
ấy thật nghẹn ngào sâu lắng. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ dành cho Bác cũng
như của tất cả mọi người khi phải rời lăng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc,
bịn rịn khơng muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng
chung nỗi đau khơng khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao
giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm áp quá, rộng lớn quá. Nhưng dù muốn hay khơng thì giây
phút ngắn ngủi được gặp Bác cũng vô cùng thiêng liêng. Đã đến lúc dòng người vào lăng
viếng Bác phải ra về.


Trong niềm xúc động nghẹn ngào đó là những ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng
là mong ước chung của những người đã hoặc chưa được một lần gặp Bác:


<i>“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác</i>
<i>Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây</i>


<i>Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này”</i>


Những ước nguyện của nhà thơ thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để
mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn làm
một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu giữa mãi giấc ngủ
bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo
ở cuối bài thơ. Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi
tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ
bình yên của Bác. Cây tre như người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó.
Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Điệp từ “Muốn làm” được nhắc lại ba
lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành
của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ ra từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.
Khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác là tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở mãi ở bên lăng
Bác không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ. Đồng thời là niềm nguyện ước của Viễn Phương
muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ để trở thành những bông hoa dâng lên Bác.


<b>4. Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn nhất - mẫu 3</b>


Khổ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở
mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành
nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà
thơ muốn được hóa thân, hịa nhập vào cảnh vật ở bên lăng Bác:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm cho dòng cảm xúc được trọn vẹn. Cây tre
khách thể đã hịa nhập cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lịng kính u và
trung thành vô hạn đối với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Bác. Các điệp ngữ “muốn
làm” cùng các hình ảnh thơ đứng sau nó tạo một nhạc thơ dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm,
khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng
lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi


người khi vào viếng Bác, nhất là những người con miền Nam vốn xa cách về không gian, của
cả những ai chưa được đến lăng Bác nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Người.


Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân
dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước
nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.


<b>5. Phân tích khổ 4 bài Viếng lăng Bác - mẫu 4</b>


Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương
- một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Cấu
trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp
hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành
trình ấy, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam:


<i>Mai về miền Nam thương trào nước mắt</i>
<i>Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác</i>
<i>Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây</i>
<i>Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.</i>


Dòng thơ đầu tiên cất lên bỗng trào dâng mãnh liệt cảm xúc nghẹn ngào, như rưng rưng hàng
lệ nơi khóe mắt: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ một chữ "thương" quen thuộc
gắn với câu nói của người miền Nam mà như gói trọn biết bao thương u, xót xa và kính
trọng. Câu thơ cất lên mà như nghẹn lại, xót xa đến vơ cùng.


Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn,
bày tỏ ước nguyện cá nhân:


<i>Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác</i>
<i>Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây</i>


<i>Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.</i>


Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao
khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung
hiếu, tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn
làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm
cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt.
Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như
một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con
đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi
lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam
bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.


</div>

<!--links-->

×