Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long: Số 08/2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.87 MB, 136 trang )

MỤC LỤC

Trang

TẠP CHÍ

NGHỀ CÁ
SƠNG CỬU LONG

Số 08 - Tháng 9/2016

___________

VIỆN NGHIÊN CỨU
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Giấy phép xuất bản
số 47/GP-BTTTT
cấp ngày 8/2/2013
Xuất bản hàng quý
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP:
Tổng biên tập:
TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
Phó tổng biên tập:
TS. PHAN THANH LÂM
Thư ký tịa soạn:
ThS. HỒNG THỊ THỦY TIÊN
CÁC ỦY VIÊN:

So sánh tăng trưởng tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) chọn giống với tôm tự nhiên trong điều kiện
ao ni thí nghiệm.


Growth comparison of selected and wild giant freshwater
prawn (Macrobrachium rosenbergii)
NGUYỄN THANH VŨ, TRỊNH QUỐC TRỌNG,
NGUYỄN TRUNG KÝ, HUỲNH THỊ BÍCH LIÊN,
NGUYỄN THỊ KIỀU NGA, NGUYỄN VĂN HIỆP

Tương quan di truyền dương giữa tính trạng kháng bệnh 10 - 18
gan thận mủ và tăng trưởng trên cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus): ý nghĩa cho chọn giống dài hạn
Positive genetic correlation between resistance to
Edwardsiella ictaluri and growth in striped catfish
(Pangasianodon hypophthalmus): implication for longterm selection
TRỊNH QUỐC TRỌNG, NGUYỄN HUỲNH DUY,
NGUYỄN THANH VŨ, LÊ HỒNG PHƯỚC,
NGUYỄN THỊ HIỀN, NGÔ HỒNG NGÂN,
TRẦN HỮU PHÚC, NGUYỄN THỊ ĐANG,
NGUYỄN THẾ VƯƠNG, PHẠM ĐĂNG KHOA,
LÊ TRUNG ĐỈNH
Quy trình phân tích đoạn cytochrome b trên các mẫu cá 19 - 31
tra (Pangasianodon hypophthalmus)

* TS. LÊ HỒNG PHƯỚC
* TS. TRỊNH QUỐC TRỌNG
* ThS. NGUYỄN ĐINH HÙNG
* TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN
* TS. VŨ ANH TUẤN
* TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH
* TS. ĐẶNG TỐ VÂN CẦM
* ThS. NGUYỄN NHỨT
* ThS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG THẢO


Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và thăm dò khả
năng sản xuất giống trên ngao móng tay chúa Cultellus
maximus Gmelin, 1791

Trình bày:
Nguyễn Hữu Khiêm

Study on reproductive biology and artificial breeding in
razor clam (Cultellus maximus Gmelin, 1791)

Tịa Soạn:
Viện Nghiên Cứu Ni Trồng
Thủy Sản II
116 Nguyễn Đình Chiểu,
Q.1, TP.HCM
ĐT: 08 3829 9592
Fax: 08 3822 6807
Email: ria2@ mard.gov.vn
In tại: Công ty In Liên Tường
240/59-61-63 Nguyễn Văn Luông
Quận 6, TP. HCM

3-9

Process of analysis for cytochrome b gen on tra catfish
(Pangasianodon hypophthalmus) samples
TRẦN NGUYỄN ÁI HẰNG, TRẦN THỊ THÚY HÀ
32 - 44


NGUYỄN ĐỨC MINH, ĐỖ THỊ PHƯỢNG
Thực nghiệm so sánh các chất kích thích chín và rụng 45 - 53
trứng trên cá heo xanh (Botia modesta Bleeker, 1865) tại
Đồng Tháp
The experiment on induced breeding of blue botia (Botia
modesta Bleeker, 1865) in Dong Thap province
NGUYỄN THỊ LONG CHÂU , MAI ĐÌNH BẢNG


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Ảnh hưởng của chất kháng khuẩn trong
phòng trị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính ở
tơm thẻ chân trắng

54 - 64

NGUYỄN NHỨT, NGUYỄN HỒNG
QUÂN, ĐINH HÙNG

LÊ HỒNG PHƯỚC, BÙI LINH TÂM,
CAO THÀNH TRUNG, ĐOÀN VĂN CƯỜNG
65 - 74

103 - 113

NGUYỄN HỮU THANH, HUỲNH HỮU
NGÃI, TRỊNH QUỐC TRỌNG

LÊ HỒNG PHƯỚC, BÙI LINH TÂM,

CAO THÀNH TRUNG, ĐOÀN VĂN CƯỜNG
75 - 81

Đánh giá tác động về kinh tế xã hội của việc
nuôi tôm thất bại đối với mơ hình tơm lúa
và bán thâm canh quy mơ nhỏ ở Sóc Trăng
và Bạc Liêu

114 - 136

Assessment of social – economic impacts
from the failure of rice-shrimp farming
system and small-scale semi-intensive
farming system in Soc Trang and Bac Lieu
provinces

Occurrence, antibiotic usage and antibiotic
resistance of Vibrio parahaemolyticus from
farmed shrimps in the Mekong delta, Vietnam
NGUYỄN DIỄM THƯ,
LÊ HỒNG PHƯỚC, NGUYỄN THỊ HIỀN,
NGUYỄN HỒNG LỘC, MÃ TÚ LAN
Khả năng ức chế tăng trưởng của Vibrio spp.
bởi một số dịch chiết có nguồn gốc thảo dược

Tóm tắt kết quả nhiệm vụ lưu giữ, bảo tồn
nguồn gen thủy sản khu vực Nam bộ giai
đoạn 2005-2015
Results of gene pool conservation of fishes in
southern Vietnam during 2005-2015


Effect of cinnamaldehyde on prevention of
acute hepatopancreatic necrosis disease in
Penaeus vannamei shrimp

Sự hiện diện của Vibrio parahaemolyticus gây
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính và hiện trạng
sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh trên
tôm nuôi tại Đồng bằng sông Cửu Long

92- 102

Preliminary results of application of indoor
recirculating aquaculture system for marbled
eel (Anguilla marmorata) culture

Effect of antibacterial products in prevention
and treatment of acute hepatopancreatic
necrosis disease in Penaeus vannamei shrimp

Ảnh hưởng của cinnamaldehyde trong
phịng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính ở tơm
thẻ chân trắng

Kết quả bước đầu ni cá chình bơng
(Anguilla marmorata) thương phẩm trong
nhà bằng hệ thống tuần hồn

ĐỒN VĂN BẢY, PHAN THANH LÂM


82 - 91

Inhibitory activity of some herbal extracts
against Vibrio spp.
NGUYỄN THỊ THU THỦY,
TRẦN HỒNG BÍCH NGỌC, LÊ THỊ
HỒI NHÂN, NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH

2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

SO SÁNH TĂNG TRƯỞNG TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergii) CHỌN GIỐNG VỚI TÔM
TỰ NHIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN AO NI THÍ NGHIỆM
Nguyễn Thanh Vũ1*, Trịnh Quốc Trọng1, Nguyễn Trung Ký1,
Huỳnh Thị Bích Liên1, Nguyễn Thị Kiều Nga1, Nguyễn Văn Hiệp1
TĨM TẮT
Thí nghiệm đánh giá tăng trưởng của nhóm tơm chọn giống và tơm tự nhiên được thực hiện trong
một ao 2.000 m2 ở mật độ ni 5,3 con/m2. Từ hai nhóm tơm ban đầu là chọn giống và tự nhiên, đã
tiến hành ghép phối để tạo ra 4 nhóm (theo thứ tự tơm mẹ × tơm bố) là chọn giống × chọn giống
(CG×CG), chọn giống × tự nhiên (CG×TN), tự nhiên × chọn giống (TN×CG) và tự nhiên × tự
nhiên (TN×TN). Sau thời gian ni 97–111 ngày (từ khi đánh dấu (15/6/2015 – 23/6/2015) đến khi
thu hoạch (29/9/2015 – 6/10/2015), giữa các nhóm tơm có sự khác biệt về khối lượng thu hoạch
(P<0,001) và tỉ lệ sống (36,1 – 48,5%). Nhóm tơm CG×CG có khối lượng thu hoạch trung bình
25,3 g, lớn hơn so với ba nhóm cịn lại (14,7 – 19,4 g). Tương tự, nhóm tơm CG×CG có tỉ lệ sống là
48,5% so với 36,1 – 44,0% của ba nhóm tơm cịn lại. Nhóm tơm TN×TN có khối lượng thu hoạch

trung bình (15,5 g) và tỉ lệ sống (36,1%) thấp nhất. Hai nhóm tơm CG×TN và TN×CG có khối
lượng thu hoạch (19,4 và 14,7 g) và tỉ lệ sống (39,9 và 40,0%) nằm giữa hai nhóm ghép phối nội
nhóm và thấp hơn so với nhóm CG×CG.
Từ khóa: tơm càng xanh, tơm chọn giống, tơm tự nhiên, tăng trưởng.

I. GIỚI THIỆU
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là lồi tơm nước ngọt có kích cỡ lớn và
được nuôi phổ biến trên thế giới. Việt Nam là
một trong các quốc gia nuôi tôm càng xanh phát
triển, với sản lượng tôm nuôi tăng dần từ năm
1996 (3.620 tấn) và đạt cao nhất vào năm 2007
(7.900 tấn). Trong các năm sau đó, sản lượng
tơm ni ln thấp 7.700 tấn (2009), thậm chí
dưới mức 6.000 tấn từ năm 2010 – 2014 (FAO,
2016). Nhiều cơ chế, chính sách đã được đề ra
để cải thiện nuôi tôm càng xanh tại khu vực
Nam Bộ song nuôi tôm càng xanh tiếp tục giảm,
đạt 4.785 tấn năm 2014 và 5.476 tấn năm 2015

(FAO, 2016). Một nguyên nhân quan trọng của
sự giảm sản lượng này là chất lượng con giống
suy giảm.
Hiện nay, để cải thiện nghề nuôi tơm càng
xanh thì chất lượng con giống là quan trọng.
Chương trình chọn giống tơm càng xanh đầu
tiên được bắt đầu năm 2007 tại Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản 2. Hiệu quả chọn lọc được
báo cáo từ 4,4 – 7,3%/thế hệ (Đinh Hùng và ctv.,
2013). Mục đích của nghiên cứu này nhằm so
sánh tăng trưởng của tôm càng xanh chọn giống

với tôm tự nhiên nhằm đánh giá hiệu quả thực
tế của việc chọn lọc.

Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
*Email:
1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

3


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Tôm bố mẹ
Vật liệu ban đầu được thu thập vào năm
2007, với 3 dịng tơm cách xa nhau về mặt địa
lý bao gồm: (1) dòng Mêkong được thu thập
tại nhiều điểm khác nhau trên hệ thống sông
Mêkong (thu tại Châu Đốc - An Giang; Hồng
Ngự - Đồng Tháp; Mỹ Tho - Tiền Giang và Kế
Sách - Sóc Trăng) tại Việt Nam, (2) dòng Đồng
Nai thu ở thượng nguồn (sông La Ngà) và hạ
nguồn (phần tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí
Minh nơi chảy ra biển Cần Giờ) và (3) dịng
Malaysia được nhập nội từ Malaysia thơng
qua Trung tâm nghề cá thế giới (WorldFish
Center). Số lượng mỗi dòng thu khoảng
1.000 con, kích thước 10 – 20 g/cá thể, riêng

tơm dịng Malaysia được nhập về ở kích cỡ
postlarvae 30 ngày tuổi, số lượng 3.000 cá thể
(0,1 g/cá thể). Các dịng tơm sau khi thu thập
được ni thuần hóa trong giai lưới, nuôi vỗ
thành thục và sinh sản thế hệ đầu tiên G0 vào
năm 2008. Thế hệ G0 được gọi là quần đàn
ban đầu cho chương trình chọn giống. Việc
sản xuất gia đình thế hệ G0 hồn thành trong
vịng một tháng với 80 gia đình full-sib được
tạo ra bằng cách lai tổ hợp giữa 3 dịng tơm
nói trên (Bảng 1). Đàn tơm bố mẹ được hình
thành bao gồm 594 cá thể tơm bố mẹ hiện diện
ở 69 gia đình khác nhau (trên tổng số 80 gia
đình) có giá trị chọn giống (breeding value BV) của gia đình cao nhất (G1). Từ thế hệ G1,
áp dụng phương pháp chọn lọc gia đình và các
cá thể có giá trị chọn giống cao trong mỗi gia
đình cho sản xuất các thế hệ tiếp theo theo tính
trạng khối lượng thu hoạch.
Thực hiện nghiên cứu này, nhóm tơm chọn
giống (chọn giống) có kích cỡ 32 – 62 g/con,
được lựa chọn từ thế hệ chọn lọc G6. Nhóm
tơm tự nhiên (tự nhiên) có kích cỡ 30 – 60 g/
con, được thu bằng cách đóng đáy trên sông
4

Cổ Chiên, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre,
vào tháng 2/2015.
2.2. Ghép phối
Từ hai nhóm tơm chọn giống và tự nhiên,
thực hiện ghép phối để tạo ra 4 nhóm ghép phối

(chọn giống × chọn giống, ký hiệu CG×CG;
chọn giống × tự nhiên, ký hiệu CG×TN; tự
nhiên × chọn giống, ký hiệu TN×CG và tự nhiên
× tự nhiên, ký hiệu TN×TN) trong thời gian 30
ngày (8/3/2015 đến 7/4/2015).
2.3. Ương ấu trùng lên hậu ấu trùng
Tôm cái ôm trứng màu nâu nhạt được
chuyển vào bể chứa 1m3 trong nhà. Sau khi
trứng nở, ấu trùng được chuyển sang các xơ
nhựa 70 lít để ương riêng rẽ theo từng gia đình
với mật độ 30 ấu trùng/lít. Thời gian ấu trùng
chuyển hồn tồn thành hậu ấu trùng dao động
từ 20 – 30 ngày.
2.4. Ương hậu ấu trùng đến kích cỡ đánh
dấu
Hậu ấu trùng được chuyển sang ương riêng
rẽ theo từng gia đình trong các bể composite 1
m3, mật độ thả 1.000 tôm/bể, thời gian ương 2
– 3 tuần. Sau đó, tơm giống được chuyển xuống
giai (1,6 × 2,5 × 1,5 m) để ương đến kích cỡ
đánh dấu (≥ 2 g) được bằng phẩm màu huỳnh
quang (Visible Implant Elastomer, VIE) trong
thời gian từ 60 – 75 ngày theo quy trình chuẩn
của nhà sản xuất (Northwest Marine, Mỹ).
2.5. Nuôi tăng trưởng trong ao
Số lượng tôm thả nuôi tăng trưởng của từng
nhóm được trình bày trong Bảng 1. Tôm được
thả nuôi trong một ao đất 2.000 m2, độ sâu nước
1,2 – 1,4 m. Tổng số lượng tôm nuôi là 10.507
con, tương đương mật độ 5,3 con/m2. Cho tôm

ăn thức ăn viên (hàm lượng đạm thơ 35%) với
các kích cỡ phù hợp, khẩu phần cho ăn từ 3 –
5% khối lượng thân. Thay nước 2 lần/tháng,
mỗi lần thay liên tục trong 3 – 4 ngày với tổng
lượng nước thay là 200% thể tích nước ao ni.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Trong q trình nuôi, sử dụng chế phẩm vi sinh
(Zuca, Long Sinh Ltd) mỗi tháng 2 lần sau khi
đã thay nước hoàn toàn. Ao được bố trí một hệ
thống quạt nước 4 cánh, công suất máy 2 mã
lực, thời gian chạy quạt từ 18 giờ đến 6 giờ sáng
hôm sau.
Bảng 1. Số lượng tơm giống thả ni của 4 nhóm.
Nhóm tơm (♀ × ♂)

Số lượng thả (con)

CG×CG

3.678

CG×TN

1.279


TN×CG

3.050

TN×TN

2.499

2.6. Thu thập và xử lý số liệu
Tại thời điểm thu hoạch ghi nhận khối
lượng thân của tơm bằng cân điện tử chính xác
đến 0,1 g. Ngồi ra, ghi nhận các chỉ tiêu khác
như giới tính, tuổi và hình thái tơm. Đối với tơm
cái, có 3 loại hình thái là tơm ơm trứng bụng,
có buồng trứng ở giáp đầu ngực, và khơng có
trứng (ở bụng hoặc ở giáp đầu ngực). Tơm đực
có 5 loại hình thái là càng xanh, càng cam, tơm
già (cịn gọi là ‘càng sào’), tôm gãy càng và tôm
đực nhỏ.
Số liệu được quản lý và kiểm tra bằng
phần mềm Microsoft Excel® 2010, và được
phân tích bằng phần mềm R phiên bản 3.2.4 (R
Core Team, 2015). Trong nghiên cứu này, vì
ảnh hưởng của ‘giới tính’ là khơng thể tách rời
(confounding) với ảnh hưởng của ‘hình thái’,
do mỗi giới tính có những loại hình thái riêng
biệt khơng giống nhau (tơm cái có 3 loại hình
thái và tơm đực có 5 loại), nên cuối cùng ảnh
hưởng ‘hình thái’ được chọn sử dụng trong
mơ hình tốn. Đối với khối lượng tôm khi thu

hoạch, ảnh hưởng của các loại hình thái (3 cho
tơm cái và 5 loại hình cho tơm đực), bốn nhóm

tơm (CG×CG, CG×TN, TN×CG và TN×TN)
và tuổi tơm (tính từ khi nở đến khi thu hoạch)
được đánh giá bằng phương trình tuyến tính
Khối lượngij = µ + hình tháii + nhómj + β
× tuổiij + eij
trong đó khối lượngij là khối lượng của cá thể
tơm ở nhóm j khi thu hoạch, µ là trung bình
khối lượng thu hoạch của quần thể, hình tháii là
ảnh hưởng các loại hình thái (3 cho tơm cái và
5 loại hình cho tơm đực), nhómj là ảnh hưởng
của 4 nhóm tơm (CG×CG, CG×TN, TN×CG
và TN×TN), β là hệ số hồi quy của hiệp biến
(covariate) tuổiij (tính từ ngày ấu trùng nở đến
khi thu hoạch tôm), và eij là số dư.
Ảnh hưởng của các nhóm tơm được xác
định bằng Type III Sum of Square. Nếu ảnh
hưởng này có ý nghĩa thống kê (P<0,05) thì sự
khác biệt giữa từng nhóm được thực hiện bằng
cách so sánh cặp, sử dụng package ‘multcomp’
(Hothorn và ctv., 2008) với phương pháp hiệu
chỉnh Tukey ở mức độ tin cậy 95%. Trung bình
bình phương tối thiểu (Least Square Mean,
LSM), được định nghĩa là trung bình nhóm sau
khi đã hiệu chỉnh cho các ảnh hưởng khác trong
mơ hình (ở đây là hình thái và tuổi tơm), được
dùng để so sánh khối lượng thu hoạch của 4
nhóm tơm, sử dụng package ‘lsmeans’ (Lenth,

2016).
III. KẾT QUẢ
3.1. Thống kê mô tả
Qua thời gian nuôi từ 97 – 111 ngày trong
ao với mật độ nuôi 5,3 tôm/m2 (khối lượng tôm
thả ban đầu 2,87 – 4,33 g) cho thấy có sự khác
biệt về tăng trưởng khi thu hoạch. Khối lượng
trung bình của các nhóm tơm dao động từ 14,7 –
25,3 g (hệ số biến thiên CV70,0 – 77,5%), tăng
trưởng tốt nhất là nhóm CG×CG (25,3 ± 17,7
g) và kém nhất là nhóm TN×CG (14,7 ± 11,4
g). Nhóm TN×TN (15,5 g) có tăng trưởng kém
hơn hẳn nhóm tơm CG×CG (25,3 g) mặc dù có
khối lượng thả lớn hơn (4,33 g so với 3,66 g của
nhóm CG×CG) (Bảng 2).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

5


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 2. Ngày nuôi, số lượng khi thu hoạch, khối lượng (khi thả nuôi và khi thu hoạch)
và tỉ lệ sống khi thu hoạch của các nhóm tơm
Nhóm

Số lượng

Ngày

ni

Khối lượng thả
ni (g)

(♀ × ♂)
CG×CG
1.776
97–111
3,66 ± 0,88
TN×TN
901
97−110
4,33 ± 1,39
TN×CG
1.339
97−110
3,39 ± 0,88
CG×TN
562
97−111
2,87 ± 0,96
CV = hệ số biến thiên của khối lượng thu hoạch.
Nhóm ghép phối nội nhóm (CG×CG) có tỉ
lệ sống cao nhất (48,3%), trong khi nhóm ghép
phối nội nhóm tự nhiên (TN×TN) có tỉ lệ sống
thấp nhất (36,1%). Hai nhóm ghép phối ngoại

Khối lượng thu
hoạch (g)


CV (%)

Tỉ lệ sống
(%)

25,3 ± 17,7
15,5 ± 11,5
14,7 ± 11,4
19,4 ± 14,7

70,0
74,0
77,5
75,8

48,3
36,1
43,9
44,0

nhóm giữa tơm chọn giống và tơm tự nhiên có
tỉ lệ sống tương đương (44,0 và 43,9%) và nằm
ở khoảng giữa của hai phép ghép phối nội nhóm
(Bảng 2).

Bảng 3. Tỉ lệ hình kiểu hình (%) của các nhóm tơm theo giới tính.
Giới tính

Tơm đực


Tơm cái
Tổng
tơm cái

Cam

Khơng

16,9

68,1

2,4

3,3

11,4

7,1

18,8

64,8

1,0

0,4

37,2


12,1

17,1

66,4

0,8

CG×TN

40,0

8,4

17,6

66,0

Trung bình

39,2

10,8

17,1

67,2

Nhóm (♀ × ♂)


Bụng

Khơng

CG×CG

40,3

10,8

TN×TN

39,0

TN×CG

Đầu

Nhỏ

Già

Tổng

Xanh

tơm đực

3,5


11,3

31,9

22,6

4,3

6,8

35,2

1,6

22,2

2,5

6,4

33,6

1,2

1,8

21,5

3,2


6,2

34,0

1,5

2,0

17,6

3,3

8,4

32,8

Bụng = tơm cái ơm trứng, Không = tôm cái không ôm trứng và không quan sát thấy buồng trứng (giai
đoạn III−IV), cam = tôm đực càng cam, xanh = tôm đực càng xanh, già =tôm đực càng xanh già(tôm
càng sào), nhỏ = tôm đực chưa phát triển đơi càng trước.

Phân tích kiểu hình tơm ni theo 4 nhóm
thì tỉ lệ cái chiếm ưu thế (64,8 – 68,1%), khơng
có sự khác biệt lớn giữa các nhóm tơm, trong
đó nhóm tơm cái ơm trứng (bụng) chiếm ưu
thế (37,2 – 40,3%). Tỉ lệ tôm đực chỉ chiếm
31,9 – 35,2%, trong đó tỉ lệ tơm đực thấp nhất
ở nhóm CG×CG (31,9%) và cao nhất ở nhóm
tơm TN×TN (35,2%). Tuy nhiên, nếu xét về các
hình thái tơm đực thì nhóm tơm CG×CG có tỉ lệ

đực nhỏ thấp nhất (11,4%) và chỉ bằng một nửa
của các nhóm tơm khác (21,5 – 22,6%) (Bảng
3), đây là nhóm tơm ít có giá trị thương phẩm
và sinh sản. Thành phần đực có giá trị thương
phẩm (cam và xanh) của nhóm tơm CG×CG
6

(13,7%) cao hơn hẳn so với các nhóm khác (7,2
– 7,8%).
3.2. Tăng trưởng của các nhóm tơm
Bảng 4. Trung bình bình phương tối thiểu của 4
nhóm tơm (đường chéo, in đậm) và sự khác biệt
về khối lượng giữa 4 nhóm tơm (ngồi đường
chéo).
Nhóm CG×CG TN×TN TN×CG CG×TN
(♀ × ♂)
32,1
***
***
***
CG×CG
25,6
0,87
***
TN×TN
TN×CG
CG×TN
*** = P< 0,001

26,4


***
29,2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Kết quả phân tích ảnh hưởng của các biến
nhóm theo mơ hình đã xét cho thấy biến ‘nhóm’,
‘hình thái’ và ‘tuổi’ rất có ảnh hưởng đến khối
lượng thu hoạch (P<0,001, số liệu không trình
bày trong báo cáo). Theo đó, so sánh các cặp
giữa các nhóm tơm ni cho thấy tăng trưởng
tơm CG×CG là khác biệt rất có ý nghĩa thống
kê với các nhóm tơm cịn lại (P<0,001) và giữa
các nhóm tơm với nhau, ngoại trừ giữa nhóm
TN×TN và TN×CG (P=0,87) (Bảng 4).
IV. THẢO LUẬN
Đối với ni thủy sản nói chung thì khối
lượng và tỉ lệ sống là các thông số rất quan trọng
quyết định đến hiệu quả của vụ nuôi. Đối với
tôm càng xanh, xét theo giới tính thì tơm đực
ln có tăng trưởng nhanh hơn tôm cái (Luan
và ctv., 2012; Nguyễn Minh Thành và ctv.,
2009; Trần Ngọc Hải và ctv., 2014). Tôm đực
có giá trị kinh tế cao hơn tơm cái, đặc biệt là
tôm đực càng cam và càng xanh. Do đặc tính
lồi mà trong ao ni ln xuất hiện nhiều kiểu

hình tôm đực (Ra’Anan và Sagi, 1985; Sagi và
Ra’anan, 1988). Trong nghiên cứu này, nhóm
tơm CG×CG có những đặc tính tốt hơn 3 nhóm
tơm cịn lại cả về tăng trưởng và tỉ lệ sống.
Ngồi ra, tỉ lệ tơm đực có càng cam và càng
xanh có giá trị cũng cao hơn hẳn (Bảng 2 và 3).
Điều này cho phép nhận định tôm chọn giống có
thể mang lại hiệu quả kinh tế tốt hơn khi nuôi
thương phẩm.
Đây là nghiên cứu đầu tiên nhằm so sánh

tơm tự nhiên với tơm từ một chương trình chọn
giống khi ni tăng trưởng. Nhóm TN×TN
trong nghiên cứu này thấp hơn hẳn nhóm
CG×CG (khối lượng 25,6 g so với 32,1 g, tỉ lệ
sống 36,1% so với 48,3%). Các nhóm lai giữa
tôm chọn giống và tự nhiên cũng cho kết quả
tăng trưởng cao hơn nhóm TN×TN, điều này
cho thấy nhóm chọn giống được chọn lọc qua 6
thế hệ đã có tăng trưởng được cải thiện hơn. Một
điều đáng lưu ý là nhóm ghép phối giữa tơm cái
chọn giống (CG×TN) có tăng trưởng cao hơn có
ý nghĩa (P<0,0001) so với nhóm tơm đực chọn
giống (TN×CG). Kết quả này tương đồng với
các kết quả cơng bố trước đây của các chương
trình chọn giống tôm càng xanh ở Việt Nam và
Trung Quốc, theo đó hệ số di truyền của tơm cái
(0,14 – 0,47) cao hơn của tôm đực (0,04 – 0,08)
(Luan và ctv., 2012; Nguyễn Trung Ký và ctv.,
2014). Như vậy, có thể nhận định rằng trong quá

trình sản xuất giống thì việc chọn nguồn tơm cái
có tính chất quyết định hơn là tôm đực.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
So sánh tăng trưởng của nhóm tơm chọn
giống và tơm tự nhiên trong điều kiện đồng nhất
việc nuôi vỗ, sinh sản, lưu giữ hậu ấu trùng và
nuôi chung trong ao cho thấy ưu thế của nhóm
tơm chọn giống so với nhóm tơm tự nhiên và
các nhóm lai về tăng trưởng. Ngồi ra, tỉ lệ sống
và cấu trúc quần đàn của nhóm tơm chọn giống
có ưu thế cho giá trị nuôi thương phẩm tốt hơn
các nhóm cịn lại.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

7


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Trần Ngọc Hải, Trần Minh Nhứt, Châu Tài Tảo,
2014. Đánh giá sự tăng trưởng và sinh sản của
một số nguồn tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) ở các tỉnh phía Nam. Tạp chí
Khoa học trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên
đề: Thủy sản (2014): 101-107.
Nguyễn Trung Ký, Nguyễn Thanh Vũ, Trịnh Quốc
Trọng, 2014. Một số kết quả từ chương trình

chọn giống tơm càng xanh thế hệ thứ 5. Tạp
chí Nghề cá sông Cửu Long. 04/2014, 3-14.

Tài liệu tiếng Anh
Dinh Hung, Vu, N.T., Nguyen, N.H., Ponzoni,
R.W., Hurwood, D.A., Mather, P.B., 2013.
Genetic response to combined family
selection for improved mean harvest weight
in giant freshwater prawn (Macrobrachium
rosenbergii) in Vietnam. Aquaculture. 412, 7073.
FAO, 2016. FishStatJ, a tool for fishery statistics
analysis. Release: 2.12.5 by Thomas Berger,
Fabrizio Sibeni and Francesco Calderini.
Lenth, R.V., 2016. Least-Squares Means: The
R Package lsmeans. Journal of Statistical
Software, 69(1), 1-33.v069.i01>.

8

Luan, S., Yang, G., Wang, J., Luo, K., Zhang,
Y., Gao, Q., Hu, H., Kong, J., 2012. Genetic
parameters and response to selection for harvest
body weight of the giant freshwater prawn
Macrobrachium rosenbergii. Aquaculture.
362, 88-96.
Nguyen Minh Thanh, Ponzoni, R.W., Nguyen,
N.H., Vu, N.T., Barnes, A., Mather, P.B., 2009.
Evaluation of growth performance in a diallel
cross of three strains of giant freshwater prawn

(Macrobrachium rosenbergii) in Vietnam.
Aquaculture. 287, 75-83.
R Core Team, 2015. R: A Language and
Environment for Statistical Computing.
Vienna, Austria: R Foundation for Statistical
Computing; 2014. R Foundation for Statistical
Computing. ISBN 3-900051-07-0. http://
www.R-project.org.
Ra’Anan, Z., Sagi, A., 1985. Alternative mating
strategies in male morphotypes of the
freshwater prawn Macrobrachium rosenbergii
(De Man). The Biological Bulletin. 169, 592601.
Sagi, A., Ra’anan, Z., 1988. Morphotypic
differentiation of males of the fresh-water
prawn Macrobrachium rosenbergii: changes in
the midgut glands and the reproductive system.
Journal of Crustacean Biology. 8, 43-47.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

GROWTH COMPARISON OF SELECTED AND WILD GIANT
FRESHWATER PRAWN (Macrobrachium rosenbergii)
Nguyen Thanh Vu1*, Trinh Quoc Trong1, Nguyen Trung Ky1,
Huynh Thi Bich Lien1, Nguyen Thi Kieu Nga1, Nguyen Van Hiep1
ABSTRACT
Growth perfomance of selected and wild giant freshwater prawn (Macrobrachiumrosenbergii) was
conducted in a 2,000 m2-pond at a density of 5,3 prawn/m2. Four different groups were produced

from a full-diallel cross between selected prawn from a selective breeding program (denoted as CG)
and wildprawn (TN) recruited in Tien river in the Mekong Delta of Vietnam. The groups were (in
order of dam×sire) CG×CG, CG×TN, TN×CG, and TN×TN. After 97 – 111 days of grow-out from
tagging until harvest, harvest weight was highly significant different between 4 groups (P<0.0001),
and survival rate (36.1-48.5%). Mean harvest weight of CG×CG group was 25.3 g, compared to
14,7 – 19,4g of the remaining three groups. Similarly, survival rate at harvest of CG×CG group was
48.5%, compared to 36.1 – 44.0% of the other groups. Offspring of wild prawns, that is, TN×TN
group, had smallest harvest weight (15.5 g) and lowest survival rate (36.1%). Two cross-bred
groups, CG×TN and TN×CG, had intermediate harvest weight (19.4 and 14.7 g, respectively) and
survival (39,9 and 40,0%, respectively) compare to two pure-bred groups (CG×CG and TN×TN),
most noticeably significantly lower (P<0.0001) than CG×CG group.
Keywords: giant freshwater prawn, selected prawn, wild prawn, growth.

Người phản biện: TS. Dương Thúy Yên
Ngày nhận bài: 26/7/2016
Ngày thông qua phản biện: 03/8/2016
Ngày duyệt đăng: 05/9/2016

National Breeding Centre for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No.2.
*Email:
1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

9


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TƯƠNG QUAN DI TRUYỀN DƯƠNG GIỮA TÍNH TRẠNG KHÁNG

BỆNH GAN THẬN MỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG TRÊN CÁ TRA
(Pangasianodon hypophthalmus):
Ý NGHĨA CHO CHỌN GIỐNG DÀI HẠN
Trịnh Quốc Trọng1*, Nguyễn Huỳnh Duy1, Nguyễn Thanh Vũ1, Lê Hồng Phước2,
Nguyễn Thị Hiền2, Ngô Hồng Ngân1, Trần Hữu Phúc1, Nguyễn Thị Đang1,
Nguyễn Thế Vương1, Phạm Đăng Khoa1, Lê Trung Đỉnh1

TĨM TẮT
Thí nghiệm cảm nhiễm với vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh gan thận mủ trên cá tra được
thực hiện trên 9.614 cá tra giống có khối lượng từ 15 – 25 g thuộc 177 gia đình được sản xuất bằng
cách phối hỗn hợp giữa 4 nhóm cá (nhóm cá Chọn giống và 3 nhóm cá Tự nhiên). Cá giống được
đánh dấu PIT, nuôi thuần dưỡng tại Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ (tỉnh
Tiền Giang) và chuyển lên Trại Thực nghiệm Thủy sản Gò Vấp (Tp. Hồ Chí Minh) cho thí nghiệm
cảm nhiễm bằng phương pháp cho cá bệnh sống chung với cá khỏe (cohabitant). Tỉ lệ chết tích lũy
do bệnh gan thận mủ sau hơn 40 ngày thí nghiệm đạt 39%. Hệ số di truyền ước tính đối với tính
trạng kháng bệnh gan thận mủ ở mức khá 0,23 ± 0,03 (theo thang quan sát nhị phân, observed binary scale) hoặc 0,37± 0,05 (theo thang tiềm ẩn liên tục, underlying continuous scale). Tương quan
di truyền giữa tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và tăng trưởng là 0,26 ± 0,11 cho thấy khi cải
thiện tính trạng kháng bệnh thì khơng có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.
Từ khóa: cá tra, Edwardsiella ictaluri, hệ số di truyền, tương quan di truyền, kháng bệnh.

I. GIỚI THIỆU
Cá tra là lồi cá ni nước ngọt chủ lực tại
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong
năm 2013, diện tích ni cá tra là 5.556 ha,
sản lượng 1,131 triệu tấn, năng suất ni trung
bình 270 tấn/ha. Gan thận mủ là loại bệnh phổ
biến (chiếm 51,2%) và nguy hiểm nhất trên cá
tra ở ĐBSCL. Bệnh gan thận mủ đã được xác
định là do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây
ra (Crumlish và ctv., 2002; Từ Thanh Dung và

ctv., 2003; Nguyễn Mạnh Thắng, 2007). Trong

một vụ ni, bệnh có thể xuất hiện từ 3 – 4 lần.
Bệnh gan thận mủ gây ra hao hụt lớn lên đến
70-80%, người nuôi sử dụng nhiều loại kháng
sinh khác nhau nhưng hiệu quả điều trị thấp.
Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả nghề
nuôi, làm giảm chất lượng sản phẩm và tiềm
ẩn nguy cơ dư lượng hóa chất và kháng sinh
trong sản phẩm. Do đó, tạo ra con giống có khả
năng kháng bệnh gan thận mủ là rất có ý nghĩa,
nâng cao tỷ lệ sống, giảm chi phí sản xuất. Báo
cáo này nhằm ước tính biến dị kiểu hình và các
thơng số di truyền của tính trạng kháng bệnh

Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
*Email:
1
2

10

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

gan thận mủ trên cá tra là cơ sở định hướng
chọn giống cá tra kháng bệnh gan thận mủ.

II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Cá tra bố mẹ
Bốn (04) đàn cá tra bố mẹ được sử dụng tạo
vật liệu nghiên cứu, đó là: Đàn cá chọn giống
theo tính trạng tăng trưởng của Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản II, được xem như
nguồn cá đối chứng và được gọi là quần thể
chọn giống (ký hiệu là CG), có khối lượng 6,8
± 1,9 kg/con và 3 đàn cá tra bố mẹ nguồn gốc
tự nhiên (TN1, TN2 và TN3) được thu thập từ
các trại sản xuất giống tại Đồng bằng sông Cửu
Long và từ Campuchia, cá có khối lượng 3,5 ±
1,2 kg/con.
2.2. Ni vỗ và sản xuất gia đình
Các đàn cá được ni vỗ trong ao 2.000 m2
với độ sâu nước được duy trì ở mức 1,5 m. Mật
độ nuôi vỗ là 2 con/m2 với tỉ lệ 1 cá đực: 1 cá
cái. Cho ăn thức ăn viên 32% đạm, bổ sung thêm
dầu mực (3%). Lượng cho ăn tương đương 3 –
5% khối lượng thân, ngày 2 lần lúc 07 giờ sáng
và 16 giờ chiều. Đảm bảo ôxy hòa tan trong ao
nuôi vỗ luôn đạt tối thiểu 4 mg/l bằng cách thay
nước hoặc sục khí nếu cần thiết.
Cá bố mẹ được kích thích sinh sản
nhân tạo sử dụng HCG (Human Chorionic
Gonadotropin, kích dục tố nhau thai). Đối với
cá cái tiêm 3 liều, liều dẫn là 500 UI, liều sơ
bộ 1.200 UI/kg và liều quyết định 4.500 UI/kg.
Đối với cá đực, chỉ tiêm 1 liều bằng 1/3 liều
và cùng lúc với liều quyết định của cá cái. Thụ

tinh bằng phương pháp bán khơ. Trứng được
khử dính bằng tanin (6 g/10 lít nước) trong 30
giây, sau đó rửa sạch nhiều lần. Sau khi khử
dính, trứng được ấp trong lồng ấp bằng vải có
dạng hình phễu (dung tích 3 lít), có sục khí ở
đáy lồng để cung cấp ơxy hịa tan trong quá
trình ấp trứng.
Sử dụng phương pháp ghép phối tổ hợp, từ
4 nhóm cá tạo ra 16 tổ hợp ghép phối với tổng

số gia đình cho mỗi phép lai là từ 8 gia đình
trở lên. Cấu trúc ghép phối là 1 cá đực với 2 cá
cái. Các gia đình được sản xuất trong thời gian
55 ngày, từ 28/6 đến 22/8/2014. Tổng cộng đã
sản xuất được 177 gia đình, bao gồm 74 cặp
gia đình half-sibs và 29 gia đình full-sibs. Số
lượng gia đình của mỗi phép ghép phối dao
động từ 2 – 4 gia đình đối với ghép phối giữa
cá cái TN3 với cá đực TN1, TN2 và TN3. Các
phép ghép phối nội dịng của nhóm CG có 57
gia đình. Các phép ghép phối cịn lại có số
lượng từ 7 – 13 gia đình.
Cá bột được ương riêng rẽ từng gia đình
đến kích cỡ cá hương trong các bể composite
thể tích 1,5 m3 (thể tích nước 1,2 m3), mật độ
3.000 con cá bột/m3, cho ăn Artemia nauplii từ
ngày thứ 1 đến ngày thứ 5, ngày 4 lần. Bổ sung
Moina vào các ngày thứ 2 đến ngày thứ 5. Cho
ăn thức ăn công nghiệp (Tomboy, 40% đạm)
từ ngày thứ 3, ngày cho ăn 4 lần. Định kỳ xiphông và thay nước (30% thể tích) hàng ngày,

bắt đầu từ ngày thứ 5 trở đi.
Sau 30 ngày, 500 cá hương được chuyển ra
ương riêng rẽ từng gia đình trong các giai 1,5 ×
2,0 × 1,0 m đặt trong cùng một ao 2.000 m2 đến
khi đạt cỡ bắn dấu từ PIT (Passive Integrated
Transponder). Cho ăn thỏa mãn, sử dụng thức
ăn dạng mảnh 40% đạm. Sau đó chuyển sang
chế độ thức ăn viên cỡ 1 mm (30% đạm), cho
ăn thỏa mãn. Thay nước 4 lần/tháng, và thay
liên tục hàng ngày trong thời gian triều cường,
mỗi lần thay 30% thể tích nước ao. Theo dõi
các chỉ tiêu thủy lý hóa của nước ao ni như
ơxy hịa tan, pH và nhiệt độ.
2.3. Đánh dấu và thí nghiệm cảm nhiễm bệnh
Tổng cộng có 177 gia đình hiện diện đến
thời điểm đánh dấu từ PIT. Đại diện của 177
gia đình này đều hiện diện trong thí nghiệm
cảm nhiễm. Cụ thể, số lượng cá đánh dấu từ
PIT cho thí nghiệm cảm nhiễm là 9.614 con
(trung bình 54 con/gia đình), khối lượng trung
bình của cá giống là 22,4 ± 10,7 g.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

11


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Cá giống được bố trí vào 2 bể composite,

mỗi bể có thể tích 20 m3và chứa 13,5 m3 nước.
Trong từng bể, thả cá cohabitant và bổ sung vi
khuẩn Edwardsiella ictaluri. Chủng vi khuẩn
E.ictaluri được phân lập từ mẫu cá bệnh gan
thận mủ. Cá cohabitant được tiêm dịch khuẩn
liều 106 CFU/0,2 ml/cá thể, và được phân
biệt với cá thí nghiệm bằng cách cắt vây mỡ
(không đánh dấu từ). Thả cá cohabitant và
bổ sung vi khuẩn E. ictaluri có mật độ cá 1
con/4,2 l, số cá cohabitant bằng 35% tổng số
cá thí nghiệm, được thả 2 ngày sau khi tiêm.
Vi khuẩn E. ictaluri được bổ sung một lần vào
ngày thứ 4 sau khi tiêm cá cohabitant với liều
105 CFU/ml.
Sau khi gây nhiễm theo dõi vớt cá chết và
mổ lấy dấu từ PIT (cho cả cá cohabitant và cá
thí nghiệm) 2 - 3 giờ/ lần trong 2 ngày đầu tiên,
từ ngày thứ ba trở đi thì kiểm tra 4 – 6 giờ/lần.
Nhiệt độ nước điều chỉnh ở mức 26°C, cho ăn
2 lần/ngày. Sục khí và thay nước sạch trước
khi thả cá cohabitant. Sau khi thả cá cohabitant
giảm một nửa lượng thức ăn. Cá cohabitant chết
khi nổi lên mặt nướcđược vớt ra (thường là 2
ngày sau khi chết). Thí nghiệm kết thúc khi cá
ngừng chết, hoặc khi khơng cịn dấu hiệu bệnh
gan thận mủ. Thu mẫu 1 – 2% số cá cịn sống
sau thí nghiệm để kiểm tra sự hiện diện của vi
khuẩn E.ictaluri.
2.4. Thí nghiệm đánh giá tính trạng tăng
trưởng

Cá tra giống (khối lượng trung bình 25,0
± 11,9 g) từ 177 gia đình được đánh dấu PIT
vào phần cơ ở vị trí phía dưới vây lưng để đánh
giá sinh trưởng. Cho mỗi gia đình, đánh dấu 75
cá rồi thả vào giai lưới kích thước 15 m2 (chứa
2.000 cá). Lưu giữ cá trong giai khoảng 3 ngày
để cá quen với môi trường nước mới. Thu gom
những cá chết, rớt dấu sau đó mở giai cho cá
ra ao. Số lượng ni tăng trưởng là 10.335 con
(trung bình 58,4 con/gia đình). Thời gian ni
tăng trưởng là 6 tháng (từ tháng 2 đến tháng
12

8/2015) trong ao 2.000 m2, mực nước 1,5 m,
mật độ 5 con/m2.
Cá được cho ăn thức ăn viên V2 Feed (28%
đạm) do Trung tâm Công nghệ Sau Thu hoạch
thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
sản xuất. Hàng ngày cho ăn 2 lần vào lúc 07 giờ
và 14 giờ. Cách cho ăn là gõ cho cá tập trung
rồi rải trước khoảng 50%, khi cá ăn hết rải 50%
còn lại khắp ao cho cá nhỏ ăn. Trong q trình
ni kiểm tra tăng trưởng, tỉ lệ sống định kì để
điều chỉnh thức ăn phù hợp với khối lượng và
số lượng cá. Khẩu phần ăn là 5,0 – 6,0% khối
lượng thân trong 2 tháng đầu, 3,0 – 4,0% khối
lượng thân từ tháng thứ 2 đến thứ 4, và1,5 –
2,0% khối lượng thân khi cá trên 4 tháng tuổi.
Định kỳ bắt cá kiểm tra kí sinh trùng và
hình thái, sức khỏe cá. Cân đo chiều dài, khối

lượng toàn bộ cá thể khi thu hoạch để tính tốc
độ tăng trưởng, tỉ lệ sống của cá. Khối lượng
được xác định bằng cân điện tử có độ chính xác
đến 0,1 g; đo chiều dài tổng bằng thước phân
độ 1 mm.
2.5. Thu thập và phân tích dữ liệu
Tính trạng tỉ lệ sống theo cá thể được mã
hóa dưới dạng nhị phân, theo đó nếu cá thể cịn
sống sau thí nghiệm thì được mã hóa là 1 và
chết là 0. Số liệu được quản lý và kiểm tra bằng
phần mềm Microsoft Excel 2010. Các thành
phần phương sai của trọng lượng và tỉ lệ sống
được tính toán bằng phần mềm ASReml phiên
bản 4 (Gilmour và ctv., 2015).
Đối với tính trạng kháng bệnh gan thận
mủ, mơ hình tuyến tính hỗn hợp cá thể được
dùng để ước tính các thành phần phương sai
= phương sai di truyền cộng
(bao gồm
gộp,
là phương sai số dư, và phương sai kiểu
hình
=
+
) là:
yijk = à + 1ì tui ỏnh dui + 2ìthi gian
chi+ bểj +cá thểk + eijk
(Mơ hình 1)

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016



VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

trong đó yijk là tình trạng (sống hoặc chết) của cá
thể k khi kết thúc thí nghiệm cảm nhiễm, µ là
trung bình của quần thể cá thí nghiệm, β1 là hệ
số hồi quy của hiệp biến ‘tuổi đánh dấu’, β2 là
hệ số hồi quy của hiệp biến ‘thời gian chờ’ (thời
gian từ khi đánh dấu đến khi cá được thả vào bể
thí nghiệm), bểj là ảnh hưởng cố định hai bể thí
nghiệm, cá thểk là ảnh hưởng ngẫu nhiên của cá
thể k và eijk là ảnh hưởng của số dư.
Đối với tính trạng khối lượng thu hoạch,
mơ hình tuyến tính hỗn hợp cá thể (Mơ hình
2) dùng để ước tính các thành phần phương sai
= phương sai di truyền cộng gộp,
(bao gồm
là phương sai ảnh hưởng môi trường,

phương sai của số dư, và phương sai kiểu hình
=
+
+
) là:
Khối lượngijkl = µ + ngày đẻi + ×tuổi thu
hoạchijk + cá thểj + cá mẹk + eijk
(Mơ hình 2)

trong đó Khối lượngijkl là khối lượng của cá thể

j khi thu hoạch, µ là trung bình của quần thể,
ngày đẻi là ngày vuốt trứng và gieo tinh của gia
đình của cá thể i trừ đi ngày 01/01/2014, là hệ
số hồi quy của hiệp biến tuổi thu hoạchijk (từ
ngày sinh sản gia đình đến ngày thu hoạch), cá
thểj là ảnh hưởng ngẫu nhiên của cá thể j, cá mẹk
là ảnh hưởng của môi trường ương riêng rẽ của
các gia đình, và eijk là ảnh hưởng của số dư.
Các thành phần phương sai và tương quan
di truyền của tính trạng kháng bệnh và khối
lượng thu hoạch được ước tính bằng các mơ
hình hai biến (Mơ hình 3) nhằm tận dụng tối đa
số liệu. Đối với tính trạng kháng bệnh, các biến
tương tự như Mơ hình 1. Đối với tính trạng khối
lượng thu hoạch, các biến như mơ tả trong Mơ
hình 2. Hiệp phương sai của số dư của 2 tính
trạng được đặt là 0 (zero).
Hệ số di truyền của tính trạng kháng bệnh
Vì tính trạng kháng
được tính là
bệnh là tính trạng nhị phân (được đánh giá thơng

qua tỉ lệ sống của từng cá thể khi thí nghiệm
cảm nhiễm kết thúc, sống = 1, chết = 0) nhưng
lại được xem như một biến liên tục (continous
variable) trong mơ hình tuyến tính, nên hệ số di
truyền được gọi là theo thang quan sát nhị phân
(observed binary scale). Nhằm có được hệ số
theo thang thực liên tục (underlying continous
scale) cho phù hợp với bản chất nhị phân thì

cần được chuyển đổi theo (Dempster và Lerner,
1950) như sau:

trong đó là hệ số di truyền theo thang thực, là
hệ số di truyền theo thang quan sát, p là tỉ lệ của
số cá còn sống vào cuối thí nghiệm cảm nhiễm,
và z là điểm cắt của phân phối chuẩn tương ứng
với p.
Đối với tính trạng khối lượng thu hoạch,
hệ số di truyền là

và ảnh

hưởng của môi trường ương nuôi riêng rẽ là
Tương quan di truyền (rg)
giữa tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và khối
lượng thu hoạch được ước tính theo cơng thức
, trong đó

là hiệp phương

sai của ảnh hưởng di truyền cộng gộp của hai
tính trạng,

lần lượt là phương sai của
ảnh hưởng di truyền cộng gộp của tính trạng
kháng bệnh gan thận mủ và tính trạng khối
lượng thu hoạch (Falconer và Mackay, 1996).
III. KẾT QUẢ
3.1. Ni tăng trưởng

Tại thời điểm kết thúc thí nghiệm ni tăng
trưởng, cá đạt khối lượng trung bình 987 ± 249
g sau 230 (220 – 240) ngày nuôi. Tỉ lệ sống đạt
78,6%. Cho từng gia đình, tỉ lệ sống dao động
từ 32,5 – 100%, tương ứng tỉ lệ chết dao động
từ 2,6 – 67,5%. Tăng trưởng của 16 phép ghép
phối được thể hiện ở Bảng 1.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

13


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 1. Thống kê mô tả của các chỉ tiêu khối lượng
và tuổi thu hoạch, khối lượng thu hoạch và tỉ lệ sống của 16 phép ghép phối.
Phép lai

Khối lượng
(Cái × Đực) đánh dấu
(g)

Tuổi thu
hoạch từ
PIT (ngày)

Khối lượng
thu hoạch
(g)


Nhỏ nhất
(g)

Lớn nhất
(g)

Tỉ lệ sống
(%)

CG×CG

22,5

229,9

1.097,0

307,2

2353,6

75,7

CG×TN1

30,8

230,5


999,2

484,0

2231,8

84,3

CG ×TN2

24,0

230,7

1.033,0

528,6

1797,2

80,9

CG×TN3

24,1

231,1

969,6


550,0

1717,4

86,1

TN1×CG

21,1

228,3

916,0

528,1

1674,8

80,2

TN1×TN1

28,9

231,4

893,2

121,0


1987,8

78,0

TN1×TN2

26,2

229,9

853,5

298,6

2014,6

71,9

TN1×TN3

26,3

226,9

916,6

464,2

1466,4


81,9

TN2×CG

26,7

228,5

1.008,7

454,8

1912,8

78,0

TN2×TN1

27,3

231,7

884,3

356,8

1501,0

87,0


TN2×TN2

30,8

229,7

1.040,9

392,6

1735,6

84,6

TN2×TN3

30,1

232,6

953,5

582,2

1928,8

84,9

TN3×CG


29,8

220,2

918,8

482,4

1875,8

73,8

TN3×TN1

23,4

230,8

980,8

553,6

1853,8

78,9

TN3×TN2

19,5


228,8

812,5

398,0

1915,6

70,1

TN3×TN3

23,3

234,8

865,2

446,9

1698,2

80,3

Trung bình

25,0

230,1


987,5

121,0

2353,6

78,6

CG = Chọn giống, TN1 = Tự nhiên 1, TN2 = Tự nhiên 2, TN3 = Tự nhiên 3.

3.2. Thí nghiệm cảm nhiễm
Tổng số cá thí nghiệm là 9,614 cá thể. Đối
với bể 1, cá bắt đầu chết sau 120 giờ (ngày thứ
5); từ ngày thứ 9 số lượng cá chết tăng nhanh,
đến ngày 15 thì giảm dần; đến ngày 21 thì cá
ngừng chết. Đối với bể 2, cá bắt đầu chết sớm
hơn bể 1, sau 28 giờ (ngày thứ 2); cá chết cao
điểm từ ngày 8 đến ngày 17; đến ngày thứ 28
thì cá ngừng chết. Cho cả hai bể, cá chết đều có
14

dấu hiệu lâm sàng của bệnh gan thận mủ như
như xuất huyết tại các vây, gốc vây, hậu mơn,
hốc mắt và vịm miệng và có vô số đốm trắng
trên thận, gan và lách đồng thời các cơ quan này
sưng nhũn. Khi thu mẫu phân lập vi khuẩn xác
định E.ictaluri là nguyên nhân gây chết. Tỉ lệ
sống vào cuối thí nghiệm được minh họa ở Hình
1. Đường ước tính Kaplan – Meier của tỉ lệ sống
theo thời gian được minh họa trong Hình 2.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 1. Tỉ lệ sống của các gia đình khi kết thúc thí nghiệm cảm nhiễm.

Hình 2. Đường biểu diễn Kaplan – Meier của tỉ lệ sống của cá thí nghiệm cảm nhiễm.
3.3. Hệ số di truyền và tương quan di truyền
Hệ số di truyền (kháng bệnh và khối lượng
thu hoạch), ảnh hưởng của môi trường ương
nuôi riêng rẽ (khối lượng thu hoạch) và tương
quan di truyền giữa hai tính trạng được trình bày
trong Bảng 2. Đối với tính trạng kháng bệnh gan
thận mủ, hệ số di truyền ước tính (h2) ở mức

trung bình khá (0,23 ± 0,03 cho observed binary
scale và 0,37 ± 0,05 cho underlying continous
scale). Đối với tính trạng khối lượng thu hoạch
thì h2 (0,35 ± 0,12) và c2 (0,18 ± 0,06) đều ở mức
khá. Tương quan di truyền giữa hai tính trạng là
0,26 ± 0,11, cho thấy có tương quan thuận giữa
kháng bệnh gan thận mủ và tăng trưởng.

Bảng 2. Các thành phần phương sai, hệ số di truyền và ảnh hưởng của môi trường ương nuôi
riêng rẽ của tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và khối lượng thu hoạch.
Đối với tính trạng kháng bệnh, số liệu của hai bể thí nghiệm gộp chung.
Tính trạng
Kháng bệnh gan thận mủ


0,082

-

0,276

0,364

h2± se

c2± se

0,37± 0,05

-

Tăng trưởng
20784
10740 28450
59974
0,35 ± 0,12
0,18 ± 0,06
= phương sai di truyền cộng gộp, = phương sai môi trường ương nuôi riêng rẽ, = phương sai của số
dư, = phương sai kiểu hình, h2= hệ số di truyền, c2= ảnh của môi trường ương nuôi riêng rẽ, se = sai số
chuẩn. Đối với tính trạng kháng bệnh gan thận mủ, số liệu trình bày là của underlying continuous scale.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

15



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

IV. THẢO LUẬN
Trong nghiên cứu này, hệ số di truyền ước
tính của tính trạng kháng bệnh gan thận mủ trên
cá giống thuộc các nguồn vật liệu ban đầu là 0,37
± 0,05. Với hệ số di truyền ở mức trung bình khá,
kết hợp với biến dị kiểu hình lớn (độ lệch chuẩn
20,0% và hệ số biến thiên 33,5%) cho phép nhận
định quần thể ban đầu sẽ đáp ứng tích cực khi
được chọn lọc. Nói cách khác, chọn lọc sẽ làm gia
tăng khả năng kháng bệnh gan thận mủ trên cá tra
giống ở những thế hệ tiếp theo. Hệ số di truyền
ước tính của tính trạng kháng bệnh gan thận mủ
(gây ra bởi vi khuẩn E. ictaluri) trong nghiên cứu
này thấp hơn so với tính trạng kháng bệnh do vi
khuẩn Aeromonas salmonicida trên cá hồi Đại Tây
Dương (0,43– 0,59) (Ødegård và ctv., 2007), 0,62
(Kjøglum và ctv., 2008), (0,47) (Gjerde và ctv.,
2009), tương đương Aeromonas hydrophila trên
cá rôhu (Labeo rohita) (0,03 – 0,39) (Mahapatra và
ctv., 2008), nhưng cao hơn trên cá chép (Cyprinus
carpio) (0,04) (Ødegård và ctv., 2010) và cao hơn
Vibrio anguillarum trên cá tuyết (Gadus morhua)
(0,08) (Kettunen và ctv., 2007).
Trong hiểu biết của nhóm tác giả, hầu như
chưa có cơng bố nào trên thế giới về tương quan di
truyền giữa tăng trưởng và kháng bệnh vi khuẩn.
Đối với bệnh do ký sinh trùng, tương quan di

truyền giữa tính trạng kháng bệnh rận cá và tăng
trưởng trên cá hồi là tương quan thuận nhưng thấp
(0,14) (Kolstad và ctv., 2005) hoặc tương quan
nghịch (-0,02 đến -0,32) (Yáñez và ctv., 2014).
Trong nghiên cứu này, tương quan ở mức trung
bình khá cho thấy có thể cải thiện hai tính trạng
kháng bệnh và tăng trưởng đồng thời, hoặc ít ra thì
khi cải thiện tính trạng kháng bệnh cũng sẽ khơng
ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Do đó, dựa
trên kết quả của nghiên cứu này thì quần thể ban
đầu cho chọn giống cá tra kháng bệnh gan thận mủ
cũng có thể được chọn lọc theo hướng kết hợp cải
thiện tăng trưởng.
Trong nghiên cứu này, sự sống sót của cá tra
giống trong một thí nghiệm cảm nhiễm đối với vi
khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh gan thận
mủ được mơ hình hóa và được phân tích bằng mơ
hình tuyến tính. Sự sống sót của cá giống trong thí
nghiệm cảm nhiễm được phân tích như biến nhị
phân trong suốt thời gian thí nghiệm, tức là cá thể
16

cịn sống vào cuối thí nghiệm được mã hóa là 1,
ngược lại được mã hóa là 0. Về ngun tắc thì biến
nhị phân dạng đầu tiên (tính đến thời điểm cuối thí
nghiệm) khơng tận dụng hết tồn bộ số liệu sẵn
có, vì tốc độ chết của các cá thể là khác nhau (có
cá thể chết nhanh, có cá thể chết chậm). Trong khi
đó, tỉ lệ sống theo ngày thì có tính đến thời gian cá
chết (tức là, chặn = censoring) dựa trên hàm phân

tích mối nguy (Ducrocq và Sưlkner, 1998). Tuy
nhiên, mơ hình tuyến tính được ưu tiên lựa chọn
vì tính đơn giản và kết quả của nó dễ biện luận của
nó (Ødegård và ctv., 2011).
Các ước tính trong nghiên cứu đều khác biệt
có ý nghĩa so với zero. Điều này chứng tỏ là số
liệu đạt yêu cầu, tức là, cấu trúc gia đình, số lượng
gia đình và số lượng cá thể/gia đình là đạt yêu cầu
để cho phép ước tính đạt độ chính xác cần thiết.
Ngồi ra, tỉ lệ chết cũng đạt yêu cầu cho phân
tích số liệu thí nghiệm cảm nhiễm bệnh trên đối
tượng thủy sản. Theo Ødegård và ctv., (2011), thí
nghiệm cảm nhiễm sẽ được dừng lại khi tỉ lệ chết
đạt khoảng 40%, hoặc quan trọng hơn, là khi tỉ lệ
chết không tăng lên nữa. Trường hợp thứ hai được
ghi nhận rất rõ trong nghiên cứu này.
V. KẾT LUẬN
Hệ số di truyền ước tính của tính trạng gan
thận mủ trên cá tra là 0,37 ± 0,05. Với biến dị kiểu
hình của tỉ lệ sống khi kết thúc thí nghiệm cảm
nhiễm khá lớn (hệ số biến thiên = 33,5%) cho phép
nhận định chọn giống kháng bệnh gan thận mủ là
có triển vọng. Sau khi thành lập quần thể ban đầu,
cần tiếp tục chọn giống theo phương pháp chọn
lọc gia đình kết hợp. Tương quan di truyền thuận
(0,26 ± 0,11) giữa tính trạng kháng bệnh gan thận
mủ và tính trạng tăng trưởng cho thấy có thể chọn
giống cải thiện cả hai tính trạng đồng thời.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ

đề tài ‘Nghiên cứu chọn giống cá tra kháng bệnh
gan thận mủ’ thuộc Chương trình Trọng điểm cấp
Nhà nước KC.06. của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Chân thành cám ơn Trại Nghiên cứu Thực nghiệm
Thủy sản Gị Vấp, Trung tâm Cơng nghệ thức ăn
và Sau Thu hoạch Thủy sản (Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản II) đã tạo điều kiện thực hiện
thí nghiệm cảm nhiễm.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Từ Thanh Dung, M. Crumlish, H.W. Ferguson,
N.T.N. Ngọc, N.Q. Thịnh, D.T.M.T., 2003.
Xác định vi khuẩn gây bệnh đốm trắng trên
gan cá tra nuôi thâm canh ở Đồng bằng Sông
Cửu Long. Tuyển tập báo cáo khoa học về ni
trồng thủy sản, hội nghị khoa học tồn quốc lần
thứ 2, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I.
Nhà Xuất bản Nông nghiệp, 411-420.
Nguyễn Mạnh Thắng, 2007. Kết quả nghiên cứu
vaccine phịng bệnh đốm trắng cho cá tra, Báo
cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu năm 2006-2007.
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Tài liệu tiếng Anh
Crumlish, M., Dung, T., Turnbull, J., Ngoc, N.,

Ferguson, H., 2002. Identification of Edwardsiella ictaluri from diseased freshwater catfish,
Pangasius hypophthalmus (Sauvage), cultured
in the Mekong Delta, Vietnam. Journal of fish
diseases. 25, 733-736.
Dempster, E.R., Lerner, I.M., 1950. Heritability
of threshold characters. Genetics. 35, 212-236.
Ducrocq, V., Sölkner, J., 1998. The Survival Kita Fortran package for the analysis of survival
data, Proc. 6th World Congr. Genet. Appl. Livest. Prod., Armidale, Australia, pp. 447-448.
Falconer, D.S., Mackay, T.F., 1996. Introduction
to quantitative genetics (4th Ed).
Gilmour, A., Gogel, B., Cullis, B., Welham, S.,
Thompson, R., Butler, D., Cherry, M., Collins,
D., Dutkowski, G., Harding, S., 2015. ASReml
user guide. Release 4.1 structural specification.
VSN International Ltd, Hemel Hempstead,
HP1 1ES, UK www. vsni.co.uk.
Gjerde, B., Evensen, Ø., Bentsen, H.B., Storset,
A., 2009. Genetic (co)variation of vaccine
injuries and innate resistance to furunculosis
(Aeromonas salmonicida) and infectious salmon anaemia (ISA) in Atlantic salmon (Salmo
salar). Aquaculture. 287, 52-58.
Kettunen, A., Serenius, T., Fjalestad, K.T., 2007.
Three statistical approaches for genetic analy-

sis of disease resistance to vibriosis in Atlantic
cod (Gadus morhua L.)1. Journal of Animal
Science. 85, 305-313.
Kjøglum, S., Henryon, M., Aasmundstad, T.,
Korsgaard, I., 2008. Selective breeding can
increase resistance of Atlantic salmon to furunculosis, infectious salmon anaemia and infectious pancreatic necrosis. Aquaculture Research. 39, 498-505.

Kolstad, K., Heuch, P.A., Gjerde, B., Gjedrem, T.,
Salte, R., 2005. Genetic variation in resistance
of Atlantic salmon (Salmo salar) to the salmon
louse Lepeophtheirus salmonis. Aquaculture.
247, 145-151.
Mahapatra, K.D., Gjerde, B., Sahoo, P.K., Saha,
J.N., Barat, A., Sahoo, M., Mohanty, B.R.,
Ødegård, J., Rye, M., Salte, R., 2008. Genetic
variations in survival of rohu carp (Labeo rohita, Hamilton) after Aeromonas hydrophila
infection in challenge tests. Aquaculture. 279,
29-34.
Ødegård, J., Olesen, I., Gjerde, B., Klemetsdal,
G., 2007. Positive genetic correlation between
resistance to bacterial (furunculosis) and
viral (infectious salmon anaemia) diseases in
farmed Atlantic salmon (Salmo salar). Aquaculture. 271, 173-177.
Ødegård, J., Baranski, M., Gjerde, B., Gjedrem,
T., 2011. Methodology for genetic evaluation
of disease resistance in aquaculture species:
challenges and future prospects. Aquaculture
Research. 42, 103-114.
Ødegård, J., Olesen, I., Dixon, P., Jeney, Z.,
Nielsen, H.-M., Way, K., Joiner, C., Jeney, G.,
Ardó, L., Rónyai, A., 2010. Genetic analysis
of common carp (Cyprinus carpio) strains. II:
Resistance to koi herpesvirus and Aeromonas
hydrophila and their relationship with pond
survival. Aquaculture. 304, 7-13.
Yáñez, J.M., Lhorente, J.P., Bassini, L.N., Oyarzún, M., Neira, R., Newman, S., 2014. Genetic
co-variation between resistance against both

Caligus rogercresseyi and Piscirickettsia salmonis, and body weight in Atlantic salmon
(Salmo salar). Aquaculture. 433, 295-298.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

17


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

POSITIVE GENETIC CORRELATION BETWEEN
RESISTANCE TO Edwardsiella ictaluri AND GROWTH IN
STRIPED CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus):
IMPLICATION FOR LONG-TERM SELECTION
Trinh Quoc Trong1*, Nguyen Huynh Duy1, Nguyen Thanh Vu1, Le Hong Phuoc1,
Nguyen Thi Hien2, Ngo Hong Ngan1, Tran Huu Phuc1, Nguyen Thi Dang1,
Nguyen The Vuong1, Pham Dang Khoa1, Le Trung Dinh1
ABSTRACT
A challenge test for resistance to Edwardsiella ictalurii on striped catfish (Pangasianodon hypophthalmus) was conducted on 9,614 fingerlings (15 – 25 g of body weight) originated from 177
families that belongs to 4 groups (1 group that has been selecting for fast growth rate, and 3 groups
of wild fish). Juvenile fish were reared and tagged at the National Breeding Center for Freshwater
Aquaculture (Tien Giang province), and thereafter were transferred to the Aquaculture Experimental Station in Go Vap district, Ho Chi Minh City, for the challenge test using the so-called ‘cohabitant’ method. Accumulated mortality after 40 days was found to be of 39%. Heritability estimate
for resistance to E. ictaluri was medium to high, 0.23 ± 0.05 (observed binary scale) or 0.37± 0.05
(underlying continuous scale). Genetic correlation between growth rate (indicated by harvest body
weight) and resistance to E. ictaluriwas 0.26 ± 0.11, indicating that selection for resistant to E. ictaluri will not impair growth in striped catfish.
Keywords: striped catfish, Edwardsiella ictaluri, heritability, genetic correlation, disease resistance.

Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng
Ngày nhận bài: 26/7/2016
Ngày thông qua phản biện: 10/8/2017

Ngày duyệt đăng: 05/9/2016

National Breeding Centre for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No. 2
Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemics, Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:

1
2

18

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

QUY TRÌNH PHÂN TÍCH ĐOẠN CYTOCHROME B
TRÊN CÁC MẪU CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus)
Trần Nguyễn Ái Hằng1*, Trần Thị Thúy Hà2
TĨM TẮT
Với mục đích kiểm định cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus), việc xây dựng quy trình phân
tích đoạn Cytochrome b là cần thiết. Cặp mồi universal cho Cytb được sử dụng để nhân gen thuộc
vùng gen ty thể thông qua PCR các mẫu cá Tra và một số lồi cá da trơn khác với kích thước 430
bp. Sản phẩm PCR sau đó được tinh sạch và giải trình tự. Các chuỗi trình tự nghiên cứu sau khi giải
cần phải được xử lý sơ bộ trước khi được đưa vào chương trình phân tích chính. Đầu tiên, các chuỗi
trình tự cần được kiểm tra chất lượng giải trình tự và xử lý bằng kết hợp hai phần mềm FinchTV và
Bioedit để đạt được trình tự chuẩn xác nhất cho các bước phân tích tiếp theo. Kế tiếp, dùng phần
mềm BLAST của NCBI để so sánh và xác định mức độ tương đồng của mẫu nghiên cứu với trình
tự chuẩn đã được cơng bố trong dữ liệu của NCBI. Cuối cùng, phần mềm Mega 6 sẽ là phần mềm
thích hợp cho các phân tích về sự phát sinh loài và khoảng cách di truyền của cá Tra và những loài

cá da trơn khác trong họ Pangasiidae muốn quan tâm.
Từ khóa: cá Tra, Cytochrome b, FinchTV và Bioedit, Pangasianodon hypophthalmus, quy trình
phân tích đoạn

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Ủy hội sơng Mekong (MRC: Mekong
River Commission) thì Việt Nam có tổng số 1314 loài trong họ Pangasiidae, bao gồm 1 loài
thuộc giống Helicophagus, 11 loài thuộc giống
Pangasius và 2 loài thuộc giống Pangasianodon
(MRC, 2008). Tuy nhiên, việc phân loại dựa vào
hình thái học biến động lớn và cịn nhiều tranh
cãi. Hiện nay, một số trang web cung cấp thông
tin rộng rãi về hình thái cá (www.fishbase.org);
tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc tính hình
thái bị giới hạn như đặc điểm khác biệt giữa các
lồi là q nhỏ hoặc khó nhận thấy từ bên ngồi
như xương lá mía, bóng hơi... . Thêm vào đó,
nhiều đặc tính hình thái đã bị loại bỏ trong q
trình tiêu hóa (ví dụ, cá tra bần thì thường thấy
trái bần bên trong dạ dày của nó) hoặc xử lý chế
biến (ví dụ như đồ hộp, thịt phi lê) thì việc xác
định trở nên khó khăn hoặc thậm chí khơng thể.
Hơn nữa, việc xác định hình thái qua các giai

đoạn trong vòng đời (trứng và ấu trùng) thậm
chí cịn phức tạp hơn việc nhận dạng khi trưởng
thành.
Ngày nay, sự phát triển vượt bậc của ngành
gienome học (gienomics) và các thiết bị thế hệ
mới đã mở đường cho việc nghiên cứu toàn bộ

gienome của các sinh vật thủy sản. Đặc biệt với
sự xuất hiện của kỹ thuật giải trình tự giene thế
hệ mới đã giảm chi phí và nhân cơng một cách
đáng kể trong khi có thể tạo được nguồn dữ liệu
di truyền khổng lồ trong thời gian ngắn. Đồng
thời, với những chương trình phần mềm đa dạng
đã giúp ích rất nhiều cho việc phân tích dữ liệu
gien, phát hiện ra những vùng đột biến điểm rất
hiệu quả cho việc đánh giá khác biệt di truyền
cũng như phát sinh loài quần thể của sinh vật.
DNA ty thể (mtDNA) được sử dụng rộng
rãi trong nghiên cứu phân loại và phả hệ bởi
tính di truyền theo dịng mẹ, khơng bị trộn lẫn
qua các thế hệ tiến hóa nhanh (gấp 10 lần so

Phòng Sinh học Thực nghiệm, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
* Email:
1
2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

19


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

với DNA ở trong nhân) và phương pháp
phân tích đơn giản (Kuhner và ctv., 2000).

Trong đó, một số gien nằm trên DNA ty
thể (mtDNA) được xem như những DNA
mã vạch trong phân loại động vật như
gien Cytochrme c oxidase subunit 1 (COI)
(Hebert và ctv., 2003; Puckridge và ctv.,
2013), Cytochrome b (Sevilla và ctv.,
2007), 16s rRNA (Vences và ctv., 2005).
Trong đó, vùng nhỏ của gien cytochrome
b cũng được xem là một marker tiềm năng
cho mục tiêu này.
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào
được thực hiện để xây dựng quy trình phân
tích đoạn gien Cytochrome b trên mẫu cá
Tra (P. hypophthalmus) phục vụ cho mục
đích nghiên cứu kiểm định. Do đó, nghiên
cứu này nhằm góp phần xây dựng quy
trình phân tích đoạn gien Cytochrome b
trên các mẫu cá Tra (P. hypophthalmus).

thuật thủy sản An Giang, Trại cá giống Châu Hưng,
Bình Đại Bến Tre,…
- Mẫu cá sau khi thu được rửa sạch bằng nước
ngọt và mã hóa. Tiến hành phân loại bằng hình thái
khi mẫu cịn tươi. Mẫu vây ngực (2 - 4g) được thu
và cố định riêng rẽ trong các ống eppendorf 2ml, giữ
trong cồn 96o. Các mẫu cá sau đó được bảo quản lạnh
ở - 200C cho mục đích phân tích sinh học phân tử sau
này.
2.2. Phương pháp xây dựng quy trình
2.2.1. Tách chiết DNA tổng số từ mẫu vây cá Tra

Quy trình tách DNA từ mẫu vậy là quy trình tủa
muối được mơ tả như trong Hình 1.

500µl Solution 1
+ 5 µl
ProteinaseK

Bỏ trên đá 10 phút

2.1. Vật liệu nghiên cứu và thời gian
thực hiện

Đảo vài lần, bỏ trên đá 5 phút

2.1.1 Thời gian thực hiện

240 µl
Solution 2

Ly tâm 8000 rpm /15 phút

- Thời gian thu mẫu: 8/2014 – 8/2015

500 µl ethanol
100 % lạnh

- Thời gian thực hiện phân tích đoạn
cytochrome b: 9/2015 – 6/2016

Cẩn thận hút 300 µl dịch trong


Ủ ở 40C/2 giờ

Địa điểm thực hiện: Phòng sinh học
phân tử, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản II

Ly tâm 11000 rpm /15 phút
Bỏ dịch nổi

2.1.2 Vật liệu nghiên cứu
- Mẫu được thu thập là cá da trơn
thuộc họ Pangasiidae từ các sông lớn tại
các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang,
Sóc Trăng, Đồng Tháp, Tiền Giang và Bến
Tre. Thời gian thu và phân tích mẫu được
tiến hành nhiều lần trong năm 2014-2015.

20

Votex nhanh
Ủ ở 550C /3 giờ hoặc qua đêm

II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP XÂY DỰNG QUY TRÌNH

- Thu mẫu cá Tra từ các trại giống
và trung tâm nuôi thương phẩm: Trung
tâm giống thủy sản Caseamex, Trại giống
Năm Hổ Cai Lậy, Trung Tâm giống và kỹ


Eppendorf chứa mẫu
đã cắt mịn 5x5 mm

500 µl ethanol
70 % lạnh

Ly tâm 11000 rpm /5 phút
Bỏ dịch nổi, làm khơ ở 370C
100 µl TE
Bảo quản ở -25 0C

Hình 1. Quy trình tách chiết DNA từ mẫu vây cá

DNA tổng số sau khi tách chiết được bảo quản ở
4 C. Trước khi tiến hành khuếch đại bằng phản ứng
PCR, kiểm tra định tính và định lượng DNA tổng số
0

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

bằng cách điện di trên gel agarose 0,8% và sử
dụng máy Nanodrop 1000.

hiện trên máy PCRPeqSTAR 96X Universal
Gradient Thermocycler.


2.2.2. Xác định điều kiện khuếch đại trình
tự Cytochrome b bằng PCR

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng
mồi được thiết kế lần lượt bởi Russell và ctv.,
(2000) và Wolf và ctv., (2000) có trình tự như
sau:

Để nhân đoạn vùng Cytochrome b của gen
ty thể, phản ứng PCR được chuẩn bị và thực

Mồi

Trình tự mồi (5’-3’)

L14735
H15149ad

Nhiệt độ gắn mồi

5’AAAAACCACCGTTGTTATTCAACTA3’

5’GCICCTCARAATGAYATTTGTCCT CA3’

52,6oC

Thiết lập chu trình nhiệt cho phản ứng PCR (theo công bố của tác giả Li Lian
Wong (2011)
Bảng 1. Chu trình nhiệt của phản ứng PCR
Số chu kỳ


Nhiệt độ (0C)

Thời gian

1

94

2 phút

94

30 giây

Ta

40 giây

72

1 phút

72

10 phút

35

1

Ta: Nhiệt độ bắt cặp.

2.2.3. Điện di kiểm tra sản phẩm PCR
Sản phẩm PCR được điện di kiểm tra lần
lượt trên gel agarose 2%. Trong bước điện di
này, chúng tôi sử dụng dung dịch đệm TAE
(Tris-acetate-EDTA) và dung dịch Ethidium
bromide được bổ sung trực tiếp vào gel agarose
trước khi thực hiện đổ gel vào khn điện di.
Sau đó, mẫu được nạp và điện di trong dung
dịch SB 1X với hiệu điện thế 120V, 60mA. Sản
phẩm PCR phân tách được soi, kiểm tra và chụp
ảnh dưới ánh sáng UV.
2.2.4. Tinh sạch sản phẩm PCR
Trước khi tiến hành giải trình tự, tất cả
sản phẩm PCR được tinh sạch bởi kit ExpinTM
PCR SV của hãng GeneAll để đảm bảo chất

lượng cho kết quả giải trình tự trong bước tiếp
theo. Các bước tiến hành được thực hiện theo
kit như sau:
Bước 1: Thêm 5 lần thể tích đệm PB với
1 thể tích mẫu. Sau đó trộn đều và chuyển vào
cột SV
Bước 2: Đặt cột vào máy ly tâm 12000 vịng
trong 30 giây, sau đó đổ bỏ dịch chảy xuống và
thu lại cột SV
Bước 3: Thêm 700 µl đệm NW, sau đó ly
tâm 12000 vịng trong 30 giây và đổ bỏ dịch
chảy xuống rồi thu lại cột SV.

Bước 4: Tiến hành ly tâm thêm 1 phút ở
12000 vịng để loại bỏ hồn tồn đệm rửa NW.
Sau đó chuyển cột SV vào ống 1,5 ml mới.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

21


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bước 5: Nhỏ 50 µl dung dịch đệm EB hoặc
H2O vào giữa màng của cột SV và ủ trong 1 phút
rồi ly tâm 12000 vịng trong 1 phút. Sau đó, thu
lại sản phẩm tinh sạch và đo Nanodrop để kiểm
tra độ tinh sạch DNA trước khi tiến hành giải
trình tự trong bước tiếp theo.
2.2.5. Giải trình tự vùng Cytochrome b
của gen ty thể
Sau khi tiến hành tinh sạch sản phẩm PCR
và đo nồng độ trên máy Nanodrop 1000, chúng
tôi tiến hành gửi mẫu đi giải trình tại First BASE
Laboratories, Malaysia.
2.2.6. Đánh giá chất lượng, phân tích và
sắp xếp trình tự bằng phần mềm FinchTV và
Bioedit
Các trình tự từ nghiên cứu sau khi nhận về
từ cơng ty giải trình tự được xử lý cơ bản để đạt
được một trình tự hồn chỉnh nhằm chuẩn bị cho
bước xử lý sau này. Phần mềm FinchTV dùng

để kiểm tra chất lượng trình tự và chuyển đổi

đi của file giải trình tự cho thích hợp với các
phần mềm xử lý sau này. Kế tiếp, đối với phần
mềm Bioedit được sử dụng để chỉnh sửa, thay
đổi, so sánh mồi xuôi, mồi ngược nhằm chỉnh
sửa những nucleotide không rõ ràng nhằm tăng
độ tin cậy của mẫu.
2.2.7. So sánh trình tự với dữ liệu NCBI
Bước 1: Đăng nhập cơ sở dữ liệu NCBI
tại NCBI sử
dụng BLAST để so sánh trình tự được đưa vào
cơ sở dữ liệu của trình tự đáp ứng công ước
quốc tế dựa vào tiêu chuẩn cho mã vạch DNA
Cytochrome b
Bước 2: Chọn “BLAST” từ menu ở phía
phải của trang chủ để thực hiện bước tìm kiếm
dữ liệu và gióng hàng với trình tự gốc của dữ
liệu NCBI
Bước 3: Chọn “Nucleotide Blast” từ màn
hình chính của BLAST (Hình 2.)

Hình 2: Màn hình chính của phần mềm BLAST, NCBI
22

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II


Bước 4: Dán chuỗi trình tự vào mục “Enter
query sequence in fasta format” và kích “BLAST”.
Bước 5: Nhìn vào kết quả tìm kiếm NCBI cho
biết những lồi gì được tìm thấy gần nhất với
đoạn trình tự được tra tìm. Kết quả cho biết
về Mức độ bao phủ (Query cover), mức tương
đồng (Identification) với lồi gần nhất
Bước 6: Kích vào nút “Taxonomy reports
” và “Distance tree of results”trên trang web
để xem báo cáo về phân loại và cây phát sinh
chủng loại mà cơ sở dữ liệu NCBI xây dựng.
2.2.8. Thiết lập cây phả hệ các mẫu nghiên
cứu và xác định giá trị quan hệ lồi
Dữ liệu trình tự Cytochrome b của cả mẫu
mới giải mã và dữ liệu có sẵn trong ngân hàng
gen sẽ được chuẩn bị để phân tích khoảng các
di truyền giữa các mẫu bằng cách sử dụng
phần mềm MEGA phiên bản 6.0 (Tamura và
ctv., 2007). Sử dụng phương pháp Neighbourjoining (NJ) và mơ hình khoảng cách Kimura
2-Parameter (K2P) (Kimura, 1980) có trong
phần mềm MEGA để xây dựng cây phát sinh
chủng loại của Cytochrome b. Với bộ dữ liệu
gốc, bootstrap 1000 lần được thực hiện nhằm
đánh giá độ tin cậy của sự phân nhánh trên
các cây phát sinh chủng loại NJ. Các chỉ số
về sự khác biệt trong cùng loài và cùng giống
(conspecific and congeneric divergences) sẽ
được tính tốn. Các dữ liệu được phân nhóm
(putative species clusters) dựạ vào cây phát
sinh chủng loại NJ. Các nhóm được cho là

cùng lồi khi có độ chênh lệch hay khác biệt
dưới 2%.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả tách chiết DNA
Để thử nghiệm qui trình tách chiết DNA,
chúng tơi tiến hành tách trên 7 mẫu vây cá Tra
thu được ở Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Hình 3. Kết quả kiểm tra chất lượng
DNA bằng gel agarose

Dựa vào kết quả trên Hình 3, cho thấy DNA
tách chiết được với hàm lượng lớn, không bị đứt
gãy, sạch và ít bị nhiễm RNA. Ngồi ra, chúng
tơi dùng máy đo Nanodrop để kiểm tra một cách
chính xác hàm lượng và mức độ tinh sạch cua
sản phẩm DNA (Bảng 2).
Bảng 2. Kết quả kiểm tra nồng độ DNA bằng
máy đo nồng độ Nanodrop

Từ kết quả trên ở Bảng 2 cho thấy hàm
lượng DNA thu được tương đối cao và chỉ số
OD 260/280 điều nhỏ hơn 1,8. Điều này cho
thấy phương pháp tách chiết DNA bằng tủa
muối hồn tồn thích hợp cho nghiên cứu của
đề tài.
3.2. Phản ứng PCR
3.2.1. Kết quả tối ưu phản ứng PCR
Từ kết quả điện di trên gel agarose (Hình 4)
cho thấy sản phẩm PCR nằm trong khoảng 430

bp. Sản phẩm PCR tốt ở tất cả hầu hết nhiệt độ
lai. Do đó, nhiệt độ Ta thích hợp cho phản ứng
khuếch đại sẽ được lựa chọn theo công bố của
tác giả 52,6oC.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

23


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 4. Kết quả tối ưu mồi cytb
3.2.2. Kết quả phản ứng PCR

Hình 5. Kết quả chạy PCR với cặp mồi cytochrome b.

Kết quả PCR trên một số mẫu cá Tra ngẫu
nhiên (Hình 5) cho thấy quy trình chạy của tác
giả cũng hồn tồn thích hợp cho điều kiện
phịng thí nghiệm của đề tài mặc dù sản phẩm
DNA khuyếch đại có hàm lượng hơi thấp. Tuy
nhiên, điều này sẽ được điều chỉnh khi tăng hàm
lượng DNA đầu vào cho phản ứng PCR.
3.3. Phân tích và sắp xếp trình tự bằng
phần mềm FinchTV

Trình tự nhận được từ cơng ty First BASE
Laboratories, Malaysia có 2 file với hai đuôi
AB1 và SEQ, dùng file đuôi AB1 cho phần

mềm FinchTV.

Từ màn hình chính (Hình 6), nhập “Open” để
nhập đoạn trình tự mong muốn kiểm tra chất
lượng giải trình tự với đi file .AB1.

Hình 6. Màn hình chính của phần mềm FinchTV
24

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 7. Kết quả kiểm tra chất lượng giải trình tự của sản phẩm

Theo quy ước, mỗi một màu chỉ thị cho một
loại nucleotide, trong đó Adenine (A) = Xanh
lá cây, Thymine (T) = đỏ, Cytosine (C) = Xanh
dương, Guanine (G) = Đen (Hình 7). Từ kết
quả cho thấy, tín hiệu đọc của mỗi nucleotide
rõ ràng và tách biệt chứng tỏ kết quả đọc chính
xác, rõ ràng, khơng bị tạp nhiễm. Ngồi ra, giá
trị của chất lượng giải trình tự (Quality values)
cịn được thể hiện khi nhấp vào biểu tượng có
hình “Q” trên menu. Sau đó, khi nhấp chuột vào
một nucleotide nào đó, ở góc dưới cùng bên trái
sẽ hiện ra giá trị Q và vị trí của nucleotide. Ví
dụ, khi nhấp chuột vào nucleotide ở vị trí thứ
428, giái trị Q được hiển thị là Q(10), điều này

có nghĩa là có nghĩa là nucleotide thứ 428 sẽ
có xác suất đọc sai là 1/10. Khi giá trị Q này
nằm ở 30 hoặc cao hơn thì việc đọc nucleotide
ở vị trí đó được xem là chính xác. Ngồi ra, khi
gióng hàng mồi xi và mồi ngược, nếu có sự

sai khác giữa hai trình tự thì nucleotide sẽ được
chọn dựa vào giá trị Q. Dựa vào giá trị Q của
FinchTV, chúng ta sẽ biết được bắt đầu vị trí
nào sẽ bị cắt bỏ trong đoạn trình tự bằng phần
mềm Bioedit nhầm loại bỏ đi đoạn mồi được
gắn vào trong qua trình giải trình tự. Đối với
dữ liệu nhiều chuỗi trình tự, các trình tự này sẽ
được gióng hàng, cắt bỏ hai đầu cho bằng nhau
và save lại ở một file dạng fasta chuẩn bị cho
việc phân tích sau này.
3.4. Kết quả so sánh trình tự với dữ liệu
trên NCBI
Những đoạn trình tự sau khi xử lý hồn
chỉnh, được sử dụng để so sánh với trình tự dữ
liệu trên NCBI. Các thao tác được thực hiện
như sau: dán chuỗi trình tự muốn so sánh vào
ơ “Enter query sequence”, Chọn “Pangasiidae”
trong ô Organism và nhấn nút BLAST (Hình 8).

Hình 8. Màn hình chính của phần mềm BLAST
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

25



×