MỤC LỤC
TẠP CHÍ
NGHỀ CÁ
SÔNG CỬU LONG
___________
Số 01/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU
NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Giấy phép xuất bản
số 47/GP-BTTTT
cấp ngày 8/2/2013
Xuất bản hàng quý
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP:
Tổng biên tập:
TS. NGUYỄN VĂN HẢO
Phó tổng biên tập:
TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
TS. PHẠM CỬ THIỆN
Thư ký tịa soạn:
ThS. HỒNG THỊ THỦY TIÊN
CÁC ỦY VIÊN:
* TS. LÊ HỒNG PHƯỚC
* TS. TRỊNH QUỐC TRỌNG
* ThS. NGUYỄN VĂN TRỌNG
* TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN
* TS. VŨ ANH TUẤN
* TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH
* TS. ĐẶNG TỐ VÂN CẦM
* ThS. NGUYỄN NHỨT
* ThS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG THẢO
Trình bày:
Nguyễn Hữu Khiêm
Tịa Soạn:
Viện Nghiên Cứu Ni Trồng Thủy
Sản 2
116 Nguyễn Đình Chiểu,
Q.1, TP.HCM
ĐT: 08 3829 9592
Fax: 08 3822 6807
Email: ria2@ mard.gov.vn
In tại: Công ty In Liên Tường
240/59-61-63 Nguyễn Văn Luông
Quận 6, TP. HCM
Trang
Ước tính thơng số di truyền ở hai lứa tuổi khác nhau
trên tơm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) chọn
giống theo tính trạng tăng trưởng.
Quantitative genetic parameters for body traits at
different ages in a cultured stock of giant freshwater
prawn a (Macrobrachium rosenbergii) selected for
fast growth
ĐINH HÙNG
3 - 11
Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá mó
(Cheilinus undulatus) ni tại Vũng Tàu
Reproductive biology of humphead wrasse (Cheilinus
undulatus) in captivity in Vung Tau, Vietnam
NGUYỄN HỮU THANH, NGUYỄN THỊ KIM VÂN
12 - 19
Ước tính phát thải của ao ni cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus) thâm canh ở Đồng bằng sông
Cửu Long.
Estimation of waste balance in traditional stripe catfish
(Pangasianodon hypophthalmus) pond in Mekong delta
NGUYỄN NHỨT, LÊ NGỌC HẠNH,
NGUYỄN VĂN HẢO
20 - 29
Đo lường hiệu quả đầu ra cho các ao nuôi cá tra Đồng
bằng sông Cửu Long
Evaluation of output efficiency for catfish farms in
Mekong delta
30 - 37
ĐẶNG HOÀNG XUÂN HUY
Hiện trạng kỹ thuật và kinh tế-xã hội của mô hình luân
canh tôm – lúa ở các huyện giáp biển vùng bán đảo
Cà Mau
Current technical and socio-economic status of the
rice-shrimp rotation model in coastal districts of Camau
peninsula
NGUYỄN CÔNG THÀNH,
NGÔ MINH LÝ, NGUYỄN VĂN HẢO
38 - 48
Đặc trưng di truyền của chủng IHHNV phân lập tôm
nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long
Sequence and characteristic of infectious hypodermal
and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) isolated from
the cultured black tiger shrimp (Peneaus monondon) in
Mekong delta
CAO THÀNH TRUNG, NGUYỄN THỊ KIM MỸ,
PHẠM HÙNG VÂN
49 - 61
Một trường hợp nhiễm nặng ký sinh
trùng Trypanosoma sp. trên cá rô đồng
(Anabas testudineus) nuôi thâm canh
One case of severe infection of
Trypanosoma sp. parasite in intensive
culture climbing perch (Anabas
testudineus)
NGUYỄN HỮU THỊNH,
BÙI THỊ KIM CƯƠNG,
ĐỖ VIẾT PHƯƠNG
62 - 72
Thiết kế và vận hành hệ thống kín quang
phản ứng sinh học để nuôi thâm canh vi
tảo biển
Designing
and
operating
photobioreactor for intensive culture of
marine microalgae
ĐẶNG TỐ VÂN CẦM,
TRÌNH TRUNG PHI,
DIÊU PHẠM HỒNG VY,
LÊ THANH HN,
ĐẶNG THỊ NGUYÊN NHÀN,
TRẦN THỊ TUYẾT LAN
73 - 84
Ảnh hưởng của tảo Haematococcus
pluvialis lên hệ miễn dịch tự nhiên và
sức đề kháng của cá tra (Pangasianodon
Hypophthalmus) kháng bệnh gan thận
mủ
The effects of Haematococcus pluvialis
on innate immune and resistance
of stripped catfish (Pangasianodon
Hypophthalmus) against to bacillary
necrosis
VÕ MINH SƠN, VĂN THỊ THÚY
85 - 96
Tập tính ăn của tơm càng đỏ nước ngọt
(Cherax quadricarinatus, Von martens,
1958) đối với hạt đậu nành, hạt đậu bò,
và thức ăn viên công nghiệp
Feeding responses of the redclaw
crayfish, Cherax quadricarinatus (Von
martens, 1858), to raw soybean, cow pea
and a commercial formulated feed
97 - 106
NGUYỄN THỊ THU THỦY
Ảnh hưởng của sự oxy hóa và liều lượng
vitamin E trong thức ăn lên sự tăng
trưởng và chất lượng phi lê ở cá hồi Đại
Tây Dương
Effects of dietary oxidation status and
vitamin E level on growth performance
and fillet quality in Atlantic salmon
(Salmo salar L.)
TRẦN NGUYỄN ÁI HẰNG
107 - 116
Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ sấy
đến hoạt tính enzyme của sinh khối
protease từ chủng Bacillus subtilis
Study on the effect of drying conditions
on the activity of protease biomass from
Bacillus subtilis
PHẠM DUY HẢI,
NGUYỄN VĂN NGUYỆN,
HOÀNG THỊ HỒNG THƠM,
TRẦN VĂN KHANH
117 - 123
Nghiên cứu tách chiết và thủy phân
collagen từ da cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus).
Study on extraction and hydrolysis
of collagen from tra catfish skin
(Pangasianodon hypophthalmus)
NGUYỄN THỊ HƯƠNG THẢO,
ĐINH THỊ MẾN,
NGUYỄN THỊ MỸ THUẬN
124 - 132
Đánh giá sản lượng thủy sản khai thác
qua khảo sát ngư cụ và thành phần loài
cá khai thác ở hồ Trị An
Fish catch assessment with fishing gears
and fish species composition at Tri An
reservoir
VŨ CẨM LƯƠNG, NGUYỄN PHÚ HÒA,
LÊ THANH HÙNG
133 - 142
Giải pháp khai thác hợp lý nguồn lợi
tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang, tỉnh
Khánh Hòa
Solutions for sustainable lobster fishing
in Nha Trang bay, Khanh Hoa province
TRẦN ĐỨC PHÚ, NGUYỄN TRỌNG
LƯƠNG, NGUYỄN Y VANG, NGUYỄN
QUỐC KHÁNH, NGUYỄN VĂN NHUẬN
143 - 151
Tình hình khai thác tơm hùm giống ở
tỉnh Phú Yên
The status of lobster juveniles capturing in
Phu Yen province
THÁI NGỌC CHIẾN, TRẦN VĂN HÀO
152 - 158
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
ƯỚC TÍNH THƠNG SỐ DI TRUYỀN Ở HAI LỨA TUỔI
KHÁC NHAU TRÊN TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium
rosenbergii) CHỌN GIỐNG THEO TÍNH TRẠNG TĂNG TRƯỞNG
Đinh Hùng1
TĨM TẮT
Nghiên cứu này trình bày các thơng số di truyền trên tôm càng xanh bao gồm hệ số di truyền và
tương quan di truyền giữa các tính trạng kích thước cơ thể (trọng lượng thân, chiều dài chuẩn, chiều
dài giáp đầu ngực, chiều dài thân, chiều rộng giáp đầu ngực, chiều rộng thân) ước tính ở hai lứa tuổi
khác nhau là tuần nuôi thứ 10 và tuần nuôi thứ 18. Số liệu sử dụng trong báo cáo báo này được thu
từ 4.650 cá thể (bao gồm 2.432 và 2.218 cá thể thu hoạch lần lượt ở tuần thứ 10 và thứ 18) thuộc thế
hệ F3 với thông tin di truyền của 18.387 cá thể thuộc 4 thế hệ trong chương trình chọn giống tơm
càng xanh. Ước tính hệ số di truyền các tính trạng kích thước cơ thể ở mức trung bình (0,06 – 0,11
và 0,11 – 0,22 lần lượt ở tuần thứ 10 và thứ 18), khác biệt hệ số di truyền ước tính ở hai lứa tuổi
khơng có ý nghĩa thống kê. Tương quan di truyền giữa các tính trạng trong cùng một lứa tuổi và của
từng tính trạng giữa hai lứa tuổi khác nhau là tương quan chặt. Kết quả nghiên cứu cho phép kết
luận công tác chọn giống tơm càng xanh theo tính trạng trọng lượng thân có thể tiến hành hiệu quả
ở giai đoạn sớm hơn so với tuổi thu-hoạch đang áp dụng.
Từ khóa: Macrobrachium rosenbergii, hệ số di truyền, tương quan di truyền, tuổi khác nhau
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chọn giống tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) theo tính trạng tăng trưởng tiến
hành tại Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản
II dựa trên số liệu trọng lượng thân ở tuổi thu
hoạch (market age, tuần nuôi thứ 10 đến 18).
Những nghiên cứu trước đây trên cá rô phi
(Oreochromis niloticus) (Rutten và ctv, 2004)
và cá chép (Cyprinus carpio) (Ninh và ctv,
2011) cho thấy tương quan di truyền các tính
trạng kích thước cơ thể giữa các lứa tuổi khác
nhau là tương đối cao. Chọn giống có thể được
tiến hành ở tuổi sau-thu-hoạch (post-market
age) nhằm kết hợp các tính trạng như tính trạng
kháng bệnh hoặc các tính trạng liên quan đến
chất lượng sinh sản trong cùng một chương
trình chọn giống vì các tính trạng này thường
biểu hiện ở giai đoạn sau-thu-hoạch. Tương
1
quan di truyền tính trạng trọng lượng thân giữa
tuổi thu-hoạch và tuổi sau-thu-hoạch cũng thấp
trong các nghiên cứu trên tôm sú P. monodon
(Coman và ctv, 2010) và trên tôm thẻ chân
trắng Penaeus vannamei (Argue và ctv, 2000).
Những nghiên cứu kể trên bước đầu cho phép
kết luận chọn giống ở giai đoạn sau-thu-hoạch
khơng đem lại nhiều lợi ích như theo lý thuyết.
Ngược lại, chọn giống cũng có thể được tiến
hành ở tuổi trước-thu-hoạch (pre-market age)
nếu tương quan di truyền giữa trọng lượng
ở tuổi thu-hoạch và trước-thu-hoạch là cao.
Chọn lọc ở giai đoạn sớm sẽ đem lại lợi ích dễ
nhận biết là giảm chi phí liên quan đến thức ăn,
vật liệu, nhân cơng...vv... Tuy nhiên, lợi ích to
lớn hơn là có thể nâng cao hiệu quả chọn giống
bằng cách rút ngắn khoảng cách chọn giống
(generation interval) vì vậy có thể chọn lọc
Phịng Sinh Học Thực Nghiệm, Viện nghiên cứu Ni trồng Thủy sản 2
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
3
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
được nhiều thế hệ hơn trong cùng khoảng thời
gian. Ở giai đoạn trước-thu-hoạch, tỷ lệ sống
đạt được cũng ln cao hơn vì vậy có thể nâng
cường độ chọn lọc (selection intensity) và qua
đó sẽ nâng cao hiệu quả chọn giống. Trong
nghiên cứu trên cá hồi vân (Oncorhynchus
mykiss), Su và ctv (2002) công bố tương quan
di truyền giữa trọng lượng thân ở các lứa tuổi
trước-thu-hoạch cao hơn ở các lứa tuổi sauthu-hoạch. Hiện tượng này cũng xảy ra trên
tôm sú (Coman và ctv, 2010; Kenway và ctv,
2006) và tôm thẻ chân trắng (Pérez-Rostro và
Ibarra, 2003) với tương quan di truyền giữa
tuổi thu-hoạch và tuổi trước-thu-hoạch ở mức
trung bình - khá (0,56 - 0,77). Những kết quả
trên cho thấy ở một số loài chọn giống có thể
tiến hành ở giai đoạn trước-thu-hoạch tuy
nhiên cần khảo sát ở các lứa tuổi khác nhau để
đạt được kết quả mong muốn.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm kiểm
chứng giả thuyết: chọn giống trên tơm càng
xanh có thể tiến hành hiệu quả ở tuổi trước-thuhoạch (10 tuần) mà không cần phải nuôi tôm
đến tuổi thu-hoạch (18 tuần) và thông qua đó
nâng cao hiệu quả của chương trình chọn giống
hiện tại.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu và sản xuất gia đình
Vật liệu ban đầu dùng trong chương trình
chọn giống bao gồm hai nhóm tơm được thu
thập từ hai hệ thống sơng tách biệt ở Việt Nam
bao gồm nhóm Mekong và nhóm Đồng Nai (thu
thập từ sơng Mekong và sơng Đồng Nai) và
nhóm tơm thứ ba là nhóm tơm nhập từ Malaysia
(nhóm Malaysia). Để tạo vật liệu ban đầu (F0)
có tính đa dạng di truyền cao cho chọn giống
chúng tơi tiến hành lai tổ hợp hồn tồn bao
gồm 9 (3 x 3) phép lai. Trong những thế hệ tiếp
theo (F1 đến F3) các phép lai được tiến hành
giữa những cá thể không liên quan về mặt di
truyền nhằm tạo ra các gia đình cùng cha cùng
mẹ (full-sib) và các gia đình cùng cha khác mẹ
(paternal half-sib).
4
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Kỹ thuật ương riêng rẽ các gia đình
Ấu trùng từ các gia đình được ương ni
riêng rẽ trong các xô nhựa 70 l (F0 đến F2)
hoặc trong bể composite 1 m3 (F3). Ấu trùng
tôm càng xanh được ương theo qui trình quy
trình nước trong hở có sử dụng vi sinh. Trong 10
ngày đầu, ấu trùng được cho ăn 3 lần/ngày bằng
ấu trùng Artemia mới nở sau đó là sự kết hợp
giữa ấu trùng artemia và thức ăn chế biến (làm
từ hỗn hợp trứng gà, bột sữa, thịt tôm, mực, dầu
cá, vitamin, …vvv…) (Thành và ctv, 2009).
Hậu ấu trùng (postlarvae, PL) thường bắt đầu
xuất hiện sau từ 20 đến 30 ngày trong các bể ương
ấu trùng và tất cả ấu trùng chuyển hoàn toàn thành
PL sau từ 25 đến 40 ngày ương ni. Hậu ấu trùng
từ các gia đình được ương riêng rẽ trong các bể
composite 1m3 trong 2 tuần tiếp theo với mật độ là
1.000 PL/m3 sử dụng thức ăn viên dùng cho tôm
sú ở giai đoạn ương giống. Sau 2 tuần, các gia đình
được chuyển ra ương tiếp trong các giai lưới mịn
kích thước 4 m2 trong ao đất ở mật độ ương 150
con/m2 sử dụng thức ăn viên 40% protein dành
cho tôm càng xanh của công ty Uni-President.
2.2.2. Kỹ thuật đánh dấu
Sau từ 6 đến 8 tuần ni trong giai, tơm
giống từ các gia đình đạt kích thước/trọng
lượng phù hợp cho đánh dấu (khoảng 2 g) sẽ
được đánh dấu theo gia đình (2 dấu, 5 màu khác
nhau) bằng phẩm màu huỳnh quang (VIE) theo
mô tả chi tiết trong nghiên cứu của Hùng và ctv,
(2012). 2.2.3. Kỹ thuật nuôi chung trong ao
Sau khi đánh dấu, khoảng 120 cá thể bắt ngẫu
nhiên từ mỗi gia đình sẽ được thả ni chung
trong 2 ao (Ao 1 và Ao 2) có diện tích 3.500 m2/
ao. Giai đoạn ni chung này khơng cần sục khí,
chất lượng nước ao ni được kiểm tra thường
xuyên và thay nước được tiến hành định kỳ 2 lần/
tháng theo thủy triều hoặc thay nước khi cần thiết
bằng máy bơm. Thức ăn sử dụng là thức ăn viên
dành cho tơm càng xanh có hàm lượng protein
35% ở giai đoạn đầu và giảm xuống cịn khoảng
30% ở tháng ni cuối cùng trước khi thu hoạch.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
2.2.4. Thu thập số liệu
Thời gian nuôi được thiết kế khoảng 10 đến
18 tuần (trọng lượng trung bình khi thu hoạch
khoảng 50 g) mơ phỏng theo quy trình ni tơm
trong thực tế tại nông hộ. Khi thu hoạch tất cả
tôm được thu hoạch bằng lưới, sau đó sẽ được
cân (trọng lượng thân – BW, g), đo (chiều dài
chuẩn – BL, cm; chiều dài giáp đầu ngực – CL,
cm; chiều dài thân – AL, cm; chiều rộng giáp
đầu ngực – CW, cm; chiều rộng thân – AW, cm),
tổ hợp dấu, kiểu hình trên tơm đực (mtype) và
tình trạng sinh sản trên tơm cái (ftype), giới tính
(sex; đực, cái), ao ni (pond; Ao 1, Ao 2), thời
gian ni (age, ngày). Kiểu hình tơm đực bao
gồm: càng xanh (BC), càng cam (OC), đực nhỏ
(SM). Tình trạng sinh sản trên tôm cái bao gồm:
trứng bụng (BF), trứng đầu (MOF) và không
trứng (SF). Trong thế hệ F3, Ao 1 (2.432 cá thể)
và Ao 2 (2.218 cá thể) lần lượt được thu hoạch
ở tuần nuôi thứ 10 tuần nuôi thứ 18. Các cá thể
trong hai ao đại diện cho tất cả các gia đình có
trong thế hệ chọn giống F3 được sinh ra từ 91
con tôm đực và 170 con tơm cái.
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Mơ hình tốn
Tất cả các tính trạng kích thước cơ thể
trước khi phân tích đều được khảo sát phân bố
bằng mơ hình đường thẳng tuyến tính (General
Linear Model, GLM) với phần mềm SAS (SAS
9.1 Institute, Inc, 1997). Do sự sai khác lớn về
trọng lượng trung bình giữa các kiểu hình trên
tơm đực nên tính trạng trọng lượng thân tạo ra
phân bố khơng chuẩn (khơng theo phân bố hình
chng) vì vậy tính trạng này được chuyển đổi
theo các dạng như logarit tự nhiên, căn bậc hai,
căn bặc 3 và thuật toán box-cox trước khi phép
chuyển đổi căn bậc hai (square root - sqrt) được
lựa chọn. Các yếu tố ảnh hưởng cố định (fixed
effects) được trình bày trong Bảng 1, mức độ
ý nghĩa của từng yếu tố được kiểm định bằng
kiểm định Wald (Wald tests) với phần mềm ASReml (Gilmour và ctv 2009). Mô hình tốn ước
tính phương sai, hiệp phương sai như sau:
yijklmn = µ + Si + Lj + Mtypek(M) + Ftypel(F)
+ Ageijklmn(S,P) + am + dn + eijklmn [1]
Trong đó yijklmn là kích thước cơ thể, µ là
trung bình chung, Si là ảnh hưởng cố định của
giới tính (đực hoặc cái), Lj là ảnh hưởng cố định
của dòng (chọn lọc hoặc đối chứng), Mtypek là
ảnh hưởng cố định của kiểu hình (k = 1, 2, 3)
đối với tôm đực (M), Ftypel là tình trạng sinh
sản (l = 1, 2, 3) đối với tôm cái (F), Pm là ảnh
hưởng cố định của ao (m = 1,2), Ageijklmn là ảnh
hưởng cố định của ngày nuôi, am là ảnh hưởng
di truyền cộng gộp ngẫu nhiên, dn là ảnh hưởng
ngẫu nhiên của con mẹ, eijklmn là sai số ngẫu
nhiên.
2.2.2. Ước tính hệ số di truyền và tương
quan giữa các tính trạng
Hệ số di truyền được ước tính từ cơng thức
[1]. Tương quan kiểu hình và tương quan di
truyền được ước tính từ phân tích phương sai
hai hoặc ba tính trạng trong đó có tính trạng
trọng lượng thân nhằm hạn chế sai số (Kennedy,
1990). Hệ số di truyền được tính tốn theo cơng
thức sau: h = σˆ + σσˆˆ + σˆ , ảnh hưởng chung của
2
2
a
2
2
2
a
c
e
con mẹ và các yếu mơi trường ni chung được
σˆ
tính như sau: c = σˆ + σˆ + σˆ với σ a2 phương sai
2
2
c
2
2
2
a
c
e
di truyền cộng gộp, phương sai ảnh hưởng
chung của con mẹ và môi trường ( σ c2 ) và sai số
của mơ hình ( σ e2 ). Tương quan di truyền, kiểu
r=
σ 12
hình được tính tốn theo cơng thức:
σ
σ
trong đó σ12 là hiệp phương sai di truyền và kiểu
hình giữa 2 tính trạng, σ 12 và σ 22 lần lượt là
phương sai di truyền và kiểu hình của tính trạng
1 và tính trạng 2.
III. KẾT QUẢ
2
1
2
2
Các yếu tố ảnh hưởng cố định đến mơ
hình tốn được trình bày trong Bảng 1 trong đó
giới tính (sex), dịng (line), kiểu hình tơm đực
(mtype) và tình trạng sinh sản tơm cái (ftype)
cố định trong giới tính có ảnh hưởng có ý nghĩa
đến hầu hết các tính trạng.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
5
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 1: Ảnh hưởng cố định của các yếu tố ở 2 lứa tuổi khác nhau
Tính trạng
Sex
Sqrt(BW)
BL
CL
AL
CW
AW
Tuần 10 Tuần 18 Tuần 10 Tuần 18 Tuần 10 Tuần 18 Tuần 10 Tuần 18 Tuần 10 Tuần 18 Tuần 10 Tuần 18
1,9
8,5**
12,7*** 5,6**
4,8*
6,2**
14,7*** 4,0*
5,3*
10,0*** 7,0**
0,5
Line
37,8*** 49,3*** 30,1*** 46,1*** 26,6*** 48,7*** 25,5*** 37,2*** 26,7*** 38,2*** 33,0*** 46,3***
Mtype(M)
476,5*** 201,8*** 571,9*** 272,6*** 386,2*** 277,3*** 452,9*** 215,9*** 501,2*** 246,7*** 395,0*** 221,5***
Ftype(F)
13,7*** 11,8***
Age(Sex,Pond) 3,0
7,2**
14,0*** 4,0*
7,1***
6,7**
13,8*** 1,2
0,7
7,0***
71,1*** 136,8***
4,3*
4,4*
5,1*
3,6*
2,9
7,2***
4,1*
5,3**
4,4*
2,5
*: P<0,05; **: P<0,01; ***: P<0,001; Kết quả trình bày trong bảng là hệ số ước tính của
kiểm định Wald
Thống kê các tính trạng ở 2 lứa tuổi khác
nhau trược trình bày trong Bảng 2. Trọng lượng
trung bình tăng 64,6% từ tuần ni thứ 10 đến
tuần thứ 18. Các tính trạng khác cũng tăng trong
cùng khoảng thời gian nhưng ở mức thấp hơn từ
Bảng 2: Cỡ mẫu (N), giá trị trung bình (Mean),
các tính trạng kích thước cơ thể theo lứa tuổi
Tính trạng
Tuổi
BW
BL
CL
AL
CW
AW
7,5 đến 22,7%. Hệ số phân tán khá cao (48%)
đối với tính trạng trọng lượng cơ thể nhưng
thấp hơn đối với các tính trạng khác (10,2 đến
18,7%). Hệ số phân tán giảm nhẹ từ tuần thứ 10
đến tuần thứ 18 đối với tất cả các tính trạng.
độ lệch chuẩn (SD) và hệ số phân tán (CV, %)
N
Mean
SD
CV (%)
Tuần 10
2.432
30,8
14,8
48,0
Tuần 18
2.218
50,7
24,4
48,1
Tuần 10
2.432
9,0
1,3
13,9
Tuần 18
2.218
10,1
1,3
12,8
Tuần 10
2.432
3,7
0,7
18,0
Tuần 18
2.218
4,4
0,7
16,9
Tuần 10
2.432
5,3
0,7
12,4
Tuần 18
2.218
5,7
0,6
10,2
Tuần 10
2.432
2,2
0,4
18,7
Tuần 18
2.218
2,7
0,5
17,2
Tuần 10
2.432
1,7
0,2
11,6
Tuần 18
2.218
2,0
0,2
11,3
Sự khác nhau giữa tỷ lệ phần trăm các
nhóm kiểu hình tơm đực và tình trạng sinh sản
tơm cái ở 2 lứa tuổi khác nhau được trình bày
trong Bảng 3. Sự khác nhau về tỷ lệ phần trăm
giữa 3 nhóm liên quan đến tình trạng sinh sản
khác nhau (MOF, BF và SF) ở tôm cái là không
lớn giữa tuần nuôi thứ 10 và tuần thứ 18. Ngược
lại, sự khác nhau giữa 3 nhóm kiểu hình (SM,
OC và BC) ở tơm đực ở cả tuần nuôi thứ 10 và
tuần thứ 18 là khá lớn.
Bảng 3: Tỷ lệ (%) kiểu hình tơm đực và tình trạng sinh sản tôm cái ở 2 lứa tuổi khác nhau
Giới tính Cái
6
Đực
Nhóm
MOF BF
SF
Tổng SM
OC
BC
Tổng
Tuần 10
29,5
30,0
40,5
100,0 4,7
75,7
19,6
100,0
Tuần 18
33,3
32,3
34,4
100,0 3,0
39,0
58,0
100,0
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Tơm đực nhỏ (SM) xuất hiện với tỷ lệ nhỏ
(3 – 5%) ở cả 2 lứa tuổi cho thấy hầu hết tôm đực
đã vượt qua giai đoạn tôm nhỏ ở tuần nuôi thứ
10 nhưng tỷ lệ này không giảm đáng kể ở 8 tuần
ni sau đó và ln cịn một tỷ lệ nhất định tơm
nhỏ ở tuổi thu hoạch. Có sự chuyển dịch từ tôm
đực càng cam (OC) thành tôm đực càng xanh
(BC) trong thời gian trên. Ở tuần 10, khi quần
đàn tôm đực đang ở giai đoạn tăng trưởng nhanh
thì hầu hết tôm đực (76%) là càng cam trong khi
ở tuần nuôi thứ 18 là lứa tuổi thu-hoạch, phần
lớn tôm đực (58%) là càng xanh (BC). Điều này
cho thấy cùng với thời gian nuôi, tỷ lệ tôm đực
càng cam tăng lên, đạt đến ngưỡng sau đó giảm
dần. Trong khi đó, tỷ lệ tôm càng xanh tăng dần
và đạt ngưỡng ở giai đoạn thu hoạch.
Hệ số di truyền các tính trạng kích thước cơ
thể ở cả 2 lứa tuổi đều ở mức trung bình (Bảng
4) và nằm trong khoảng 0,06 đến 0,11; 0,11 đến
0,22 lần lượt ở tuần thứ 10 và tuần thứ 18. Hệ số
di truyền trọng lượng thân ở tuần thứ 18 ở mức
trung bình cho phép dự đốn tính trạng này có
thể được cải thiện thơng qua chọn giống. Ảnh
hưởng của con mẹ và yếu tố mơi trường ni
chung đóng vai trò rất nhỏ khoảng 0,00 đến 0,03
đối với tất cả các tính trạng. Hệ số di truyền của
các tính trạng ở tuần thứ 18 đều cao hơn ở tuần
nuôi thứ 10 nhưng sai khác khơng có ý nghĩa
(P > 0,05) ngoại trừ tính trạng chiều rộng thân
(AW).
Bảng 4: Phương sai (Va, Vc, Ve), hệ số di truyền (h2) và ảnh hưởng con mẹ và các yếu tố nuôi chung
(c2) của các tính trạng kích thước cơ thể ở tuần ni thứ 10 và 18.
Tính trạng
Sqrt(BW)
BL
CL
AL
CW
AW
Tuổi
Tuần 10
Tuần 18
Tuần 10
Tuần 18
Tuần 10
Tuần 18
Tuần 10
Tuần 18
Tuần 10
Tuần 18
Tuần 10
Tuần 18
Va
0,0533
0,1201
0,0492
0,0878
0,0091
0,0310
0,0138
0,0164
0,0057
0,0122
0,0023
0,0063
Vc
0,0000
0,0176
0,0006
0,0105
0,0000
0,0007
0,0064
0,0041
0,0007
0,0000
0,0007
0,0000
Ve
0,4519
0,6514
0,4436
0,4505
0,1366
0,1230
0,1660
0,1314
0,0476
0,0535
0,0203
0,0219
h2±se
0,11±0,02
0,15±0,07
0,10±0,04
0,16±0,07
0,06±0,01
0,20±0,08
0,07±0,04
0,11±0,07
0,10±0,04
0,19±0,03
0,10±0,04
0,22±0,04*
c2±se
0,00±0,00
0,02±0,03
0,00±0,07
0,02±0,03
0,00±0,00
0,00±0,03
0,03±0,07
0,03±0,03
0,01±0,07
0,00±0,00
0,03±0,07
0,00±0,00
*: P < 0,05; Va: phương sai di truyền cộng gộp, Vc: phương sai ảnh hưởng con mẹ và các yếu
tố nuôi chung, Ve: phương sai ảnh hưởng gây ra do các yếu tố mơi trường.
Tương quan di truyền và kiểu hình giữa các
tính trạng ở 2 lứa tuổi khác nhau được trình bày
trong Bảng 5. Nhìn chung, tương quan di truyền ở
tuần nuôi thứ 10 và 18 đều ở mức cao gần như bằng
1 và khơng có sự sai khác có ý nghĩa giữa tuần thứ
10 (0,65 đến 0,99) so với tuần 18 (0,89 đến 0,98).
Bảng 5: Tương quan kiểu hình (phía trên) và di truyền (dưới) giữa các tính trạng theo lứa tuổi
Tuổi
Tính trạng
Sqrt(BW)
BL
CL
AL
CW
AW
Tuần 10
Sqrt(BW)
0,99±0,32
0,92±0,08
0,99±0,27
0,92±0,08
0,99±0,27
Tuần 18
BL
0,67±0,04
0,97±0,04
0,99±0,09
0,72±0,03
0,86±0,13
CL
0,77±0,01
0,87±0,02
0,99±0,04
0,99±0,02
0,87±0,11
AL
0,68±0,01
0,88±0,01
0,54±0,03
0,65±0,15
0,86±0,02
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
CW
0,77±0,01
0,77±0,01
0,70±0,01
0,64±0,01
0,83±0,12
AW
0,68±0,01
0,73±0,01
0,67±0,01
0,61±0,01
0,76±0,01
7
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Sqrt(BW)
BL
CL
AL
CW
AW
Sqrt(BW)
0,98±0,02
0,98±0,02
0,88±0,10
0,98±0,02
0,95±0,04
BL
0,93±0,01
0,98±0,02
0,97±0,02
0,97±0,04
0,98±0,04
Tương tự tương quan di truyền, tương quan
kiểu hình giữa các tính trạng ở tuần thứ 10 (0,54
đến 0,88) và tuần thứ 18 (0,79 to 0,94) cũng
đều cao mặc dù thấp hơn so với tương quan di
truyền ở 2 lứa tuổi.
Bảng 6: Tương quan di truyền (rg) và ảnh hưởng
chung của con mẹ và mơi trường ni (rc) của
các tính trạng ở tuần thứ 10 và tuần thứ 18
Tính trạng
rg
rc
Sqrt(BW)
0,97±0,19
0,99±0,03
BL
0,98±0,26
0,94±0,03
CL
0,93±0,22
0,97±0,03
AL
0,98±0,25
0,81±0,03
CW
0,98±0,30
0,85±0,03
AW
0,99±0,26
0,96±0,03
Tương quan di truyền của các tính trạng ở 2
lứa tuổi cũng cao, gần như bằng 1 (Bảng 6) mặc
dù sai số chuẩn trong các giá trị ước tính này
khá cao. Tương quan di truyền về trọng lượng
thân giữa tuần thứ 10 và thứ 18 cũng ở mức cao
(0,97±0,19).
IV. THẢO LUẬN
Tương quan di truyền cao giữa các tính
trạng kích thước cơ thể ở từng lứa tuổi và tính
trạng trọng lượng thân giữa hai lứa tuổi trên tôm
càng xanh trong nghiên cứu này tương tự với
kết quả được công bố trên tôm thẻ chân trắng
(Pérez-Rostro và Ibarra, 2003) và tôm càng
xanh (Kitcharoen và ctv, 2011). Kết quả nghiên
cứu của Hùng và ctv (in review) trên tôm càng
xanh cũng cho thấy tương quan di truyền cao
về trọng lượng thân giữa 2 giới tính ở tuổi thuhoạch. Những kết quả này có thể do các tính
trạng kích thước cơ thể liên quan di truyền chặt
chẽ với nhau và được điều khiển bởi cùng một
nhóm gien. Tương quan di truyền gần bằng 1
8
CL
0,90±0,01
0,94±0,01
0,92±0,06
0,97±0,04
0,92±0,05
AL
0,86±0,01
0,94±0,01
0,79±0,01
0,90±0,08
0,97±0,04
CW
0,89±0,01
0,89±0,01
0,86±0,01
0,81±0,01
0,89±0,07
AW
0,80±0,01
0,83±0,01
0,79±0,01
0,86±0,01
0,82±0,01
giữa hai lứa tuổi trên tôm càng xanh cao hơn so
với tôm sú P. monodon (Coman và ctv, 2010;
Kenway và ctv, 2006). Trong nghiên cứu trên cá
hồi vân (Oncorhynchus mykiss) Su và ctv (2002)
khi theo dõi trọng lượng trước-thu-hoạch một
cách liên tục hơn (mỗi 28 ngày) cho thấy tương
quan di truyền giữa các lứa tuổi trước-thu-hoạch
với trọng lượng thân ở 1 năm tuổi tăng dần từ
0,24 đến 0,93 từ ngày nuôi 168 đến ngày nuôi
336, tương quan này chỉ vượt 0,7 sau ngày nuôi
280. Kết quả này cho thấy tương quan di truyền
không chỉ phụ thuộc vào giai đoạn ni mà cịn
phụ thuộc vào khoảng cách giữa các lần cân đo.
Tương quan di truyền thường ở mức thấp đến
trung bình trong giai đoạn sớm và tăng dần khi
sinh vật càng gần đến tuổi thu-hoạch. Vì vậy,
chọn lọc nếu áp dụng ở giai đoạn quá sớm, kích
thước sinh vật cịn q nhỏ so với kích thước
thu-hoạch, khi mà ảnh hưởng của con mẹ và các
yếu tố nuôi chung cịn chi phối mạnh có thể sẽ
mang lại hiệu quả không cao. Trong nghiên cứu
này, tương quan di truyền giữa các tính trạng tuy
khá cao nhưng cũng chỉ khảo sát ở duy nhất một
lứa tuổi trước-thu-hoạch. Để tìm được lứa tuổi
phù hợp nhất áp dụng chọn lọc cần có những
khảo sát ở nhiều lứa tuổi trước-thu-hoạch khác
nhau khác.
Hệ số di truyền tính trạng trọng lượng thân
ở thế hệ F3 trong nghiên cứu này tương đương
với hệ số di truyền tính tốn ở 4 thế hệ trên cùng
nguồn vật liệu (Hùng và ctv, in review). Trong
cả 2 nghiên cứu, hệ số di truyền ước tính là
cao hơn so với những nghiên cứu trước đó trên
cùng lồi (M. rosenbergii) (Kitcharoen và ctv,
2011; Luan và ctv, 2012; Malecha và ctv, 1984).
Kitcharoen và ctv, (2011) công bố hệ số di truyền
trọng lượng thân h2 = 0,11±0,08 ở 5 tháng tuổi;
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
h2 = 0,07±0,04; h2 = 0,20±0,71 (không khác biệt
so với 0) ở 6 tháng tuổi khi nuôi chung và nuôi
riêng rẽ theo cá thể. Tuy nhiên các nghiên cứu
trên tôm càng xanh trước đây thường chỉ dựa
trên số lượng mẫu khá khiêm tốn của một thế hệ
và các nghiên cứu tiến hành trong điều kiện thí
nghiệm trong bể ni chứ khơng phải điều kiện
ni thực tế ngồi ao, vì vậy tăng trưởng của tôm
là thấp hơn rất nhiều lần so với điều kiện thực
tế. Hệ số di truyền trọng lượng thân tăng nhẹ từ
tuổi trước-thu-hoạch đến tuổi thu-hoạch trong
nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên cứu
trên tôm thẻ chân trắng (Pérez-Rostro và Ibarra,
2003; Pérez-Rostro và ctv, 1999) nhưng ngược
lại với kết quả trên tôm sú (Coman và ctv, 2010;
Kenway và ctv, 2006). Hệ số di truyền trọng
lượng thân ở tuổi thu-hoạch (0,15±0,07) trong
nghiên cứu này cũng thấp hơn so với một số lồi
thủy sản khác như tơm thẻ chân trắng (Argue và
ctv, 2002; Castillo-Juárez và ctv, 2007; Gitterle
và ctv, 2005), tôm sú (Coman và ctv, 2010;
Kenway và ctv, 2006; Macbeth và ctv, 2007),
tôm he Nhật Bản (P. japonicus) (Hetzel và ctv,
2000), crayfish (Jones và ctv, 2000; McPhee
và ctv, 2004), cá rô phi GIFT (Nguyên và ctv,
2007) và cá tra (Sáng, 2010). Tuy nhiên, cần lưu
ý rằng các kết quả công bố trên tơm thường là
những ước tính có sai lệch tăng (overestimated)
bởi những nghiên cứu này không thể phân tách
ảnh hưởng của con mẹ và các yếu tố nuôi chung
ra khỏi biến dị di truyền cộng gộp và vì vậy làm
cho ước tính hệ số di truyền thiếu chính xác.
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên đưa hai
yếu tố ảnh hưởng cố định là kiểu hình trên tơm
đực và tình trạng sinh sản trên tơm cái vào mơ
hình tốn. Kiểu hình của tôm đực là kết quả do
ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến cấu trúc
quần đàn tôm đực, một đặc điểm rất riêng biệt
chỉ có ở tơm càng xanh (Karplus và ctv, 1991).
Tình trạng sinh sản của tơm cái cũng đã được
đề cập trong các nghiên cứu của một số tác giả
(Aflalo và ctv, 2012; Hùng và ctv, in review;
Thành và ctv, 2009) nhưng cả 2 yếu tố này chưa
bao giờ được đưa vào mơ hình tốn mặc dù
chúng có ảnh hưởng có ý nghĩa và vì vậy khơng
thể bỏ qua trong mơ hình tốn trên tơm càng
xanh nhằm hạn chế sai lệch.
Tương quan di truyền cao giữa các tính
trạng kích thước đo đạt, cho phép chúng
ta kết luận rằng chọn lọc tính trạng trọng
lượng cơ thể sẽ mang lại hiệu quả chọn lọc
cao cho các kích thước cơ thể cịn lại, hay
nói cách khác tơm tăng trưởng đồng đều
(cân đối) theo các chi tiêu chiều dài, chiều ngang
và khối lượng.
V. KẾT LUẬN
Ước tính hệ số di truyền ở cả hai lứa tuổi
trước-thu-hoạch và thu-hoạch đều ở mức trung
bình. Tương quan di truyền cao giữa trọng
lượng thân ở hai lứa tuổi này cho phép dự đoán
hiệu quả chọn lọc tương đương nếu chọn lọc áp
dụng ở giai đoạn trước-thu-hoạch. Tương quan
di truyền cao giữa các tính trạng kích thước cơ
thể ở cả hai lứa tuổi trên tôm càng xanh cũng
cho phép dự đốn các tính trạng này có thể được
di truyền cùng nhau trong quá trình chọn giống.
VI. ĐỀ XUẤT
Tiếp tục khảo sát hệ số di truyền tính trạng
trọng lượng thân ở các lứa tuổi khác nhau để có
thể xác định lứa tuổi thu hoạch tơm càng xanh
hợp lý nhất cho việc chọn giống.
LỜI CẢM ƠN
Xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ban lãnh
đạo Viện NCNT Thủy sản II, Trung tâm Quốc
Gia giống thủy sản nước ngọt Nam Bộ và các
đồng nghiệp Nguyễn Thanh Vũ, Nguyễn Trung
Ký, Kiều Thị Nguyệt Nga trong thực hiện thí
nghiệm và thu thập số liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aflalo, E. D., Raju, D. V. S. N., Bommi, N. A.,
Verghese, J. T., Samraj, T. Y. C., Hulata,
G., Ovadia, O. and Sagi, A, 2012. Toward a
sustainable production of genetically improved
all-male prawn (Macrobrachium rosenbergii):
Evaluation of production traits and obtaining
neo-females in three Indian strains. Aquaculture,
338-341, 197-207.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
9
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Argue, B. J., Arce, S. M., Lotz, J. M. and Moss, S. M.,
2002. Selective breeding of Pacific white shrimp
(Litopenaeus vannamei) for growth and resistance
to Taura Syndrome Virus. Aquaculture, 204(3-4),
447-460.
Argue, B. J., Arce, S. M. and Moss, S. M., 2000.
Correlation between two size classes of Pacific
white shrimp Litopenaeus vannamei and its
potential implications for selective breeding
programs. Journal of the World Aquaculture
Society, 31(1), 119-122.
Castillo-Juárez, H., Casares, J. C. Q., Campos-Montes,
G., Villela, C. C., Ortega, A. M. and Montaldo, H.
H., 2007. Heritability for body weight at harvest size
in the Pacific white shrimp, Penaeus (Litopenaeus)
vannamei, from a multi-environment experiment
using univariate and multivariate animal models.
Aquaculture, 273(1), 42-49.
Coman, G. J., Arnold, S. J., Wood, A. T. and Kube, P.
D., 2010. Age: Age genetic correlations for weight
of Penaeus monodon reared in broodstock tank
systems. Aquaculture, 307(1-2), 1-5.
Gilmour, A. R., Gogel, B. J., Cullis, B. R., Welham,
S. J. and Thompson, R., 2009. ASReml User
Guide Release 2.1. VSN International Ltd, Hemel
Hemptead, HP1 1ES, UK.
Gitterle, T., Rye, M., Salte, R., Cock, J., Johansen,
H., Lozano, C., Arturo Suárez, J. and Gjerde,
B., 2005. Genetic (co)variation in harvest body
weight and survival in Penaeus (Litopenaeus)
vannamei under standard commercial conditions.
Aquaculture, 243(1-4), 83-92.
Hetzel, D. J. S., Crocos, P. J., Davis, G. P., and Preston,
N. C., 2000. Response to selection and heritability
for growth in the Kuruma prawn, Penaeus
japonicus. Aquaculture, 181(3-4), 215-223.
Hùng, D., Coman, G., Hurwood, D. and Mather, P.,
2012. Experimental assessment of the utility
of VIE tags in a stock improvement program
for giant freshwater prawn (Macrobrachium
rosenbergii) in Vietnam. Aquaculture Research,
43, 1471–1479.
Hùng, D., Vu, N. T., Nguyên, N. H., Ponzoni, R.
W., Hurwood, D. and Mather, P., in review.
Quantitative genetic parameter estimates for body
and carcass weight traits in a cultured stock of giant
freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii)
selected for fast growth. Aquaculture.
Jones, C. M., McPhee, C. P. and Ruscoe, I. M., 2000.
A review of genetic improvement in growth rate
in redclaw crayfish Cherax quadricarinatus (von
10
Martens) (Decapoda: Parastacidae). Aquaculture
Research, 31(1), 61-67.
Karplus, I., Barki, A., Israel, Y. and Cohen, S. , 1991.
Social control of growth in Macrobrachium
rosenbergii. II. The “leapfrog” growth pattern.
Aquaculture, 96(3-4), 353-365.
Kennedy, B. W., 1990. Use of mixed model
methodology in analysis of designed experiments.
In Advances in Statistical Methods for Genetic
Improvement of Livestock. (D. Gianola and K.
Hammond, eds): Springer-Verlag, Berlin, 77-97.
Kenway, M., Macbeth, M., Salmon, M., McPhee,
C., Benzie, J., Wilson, K. and Knibb, W., 2006.
Heritability and genetic correlations of growth and
survival in black tiger prawn Penaeus monodon
reared in tanks. Aquaculture, 259(1-4), 138-145.
Kitcharoen, N., Rungsin, W., Koonawootrittriron, S.
and Na-Nakorn, U., 2011. Heritability for growth
traits in giant freshwater prawn, Macrobrachium
rosenbergii (de Mann 1879) based on best linear
unbiased prediction methodology. Aquaculture
Research, 1-7.
Luan, S., Yang, G., Wang, J., Luo, K., Zhang, Y., Gao,
Q., Hu, H. and Kong, J., 2012. Genetic parameters
and response to selection for harvest body weight
of the giant freshwater prawn Macrobrachium
rosenbergii. Aquaculture, 262-263, 88-96.
Macbeth, M., Kenway, M., Salmon, M., Benzie, J.,
Knibb, W. and Wilson, K., 2007. Heritability of
reproductive traits and genetic correlations with
growth in the black tiger prawn Penaeus monodon
reared in tanks. Aquaculture, 270(1-4), 51-56.
Malecha, S. R., Masuno, S. and Onizuka, D., 1984.
The feasibility of measuring the heritability of
growth pattern variation in juvenile freshwater
prawns, Macrobrachium rosenbergii (de Man).
Aquaculture, 38(4), 347-363.
McPhee, C. P., Jones, C. M. and Shanks, S. A., 2004.
Selection for increased weight at 9 months in
redclaw crayfish (Cherax quadricarinatus).
Aquaculture, 237(1-4), 131-140.
Nguyên, N. H., Khaw, H. L., Ponzoni, R. W., Hamzah,
A. and Kamaruzzaman, N., 2007. Can sexual
dimorphism and body shape be altered in Nile
tilapia (Oreochromis niloticus) by genetic means?
Aquaculture, 272(Supplement 1), S38-S46.
Ninh, N. H., Ponzoni, R. W., Nguyen, N. H.,
Woolliams, J. A., Taggart, J. B., McAndrew, B.
J. and Penman, D. J., 2011. A comparison of
communal and separate rearing of families in
selective breeding of common carp (Cyprinus
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
carpio): Estimation of genetic parameters.
Aquaculture, 322-323(0), 39-46.
Pérez-Rostro, C. I. and Ibarra, A. M., 2003. Quantitative
genetic parameter estimates for size and growth
rate traits in Pacific white shrimp, Penaeus
vannamei (Boone 1931) when reared indoors.
Aquaculture Research, 34(7), 543-553.
Pérez-Rostro, C. I., Ramirez, J. L. and Ibarra, A.
M., 1999. Maternal and cage effects on genetic
parameter estimation for Pacific white shrimp
Penaeus vannamei Boone. Aquaculture Research,
30(9), 681-693.
Rutten, M. J. M., Bovenhuis, H. and Komen, H., 2004.
Modeling fillet traits based on body measurements
in three Nile tilapia strains (Oreochromis niloticus
L.). Aquaculture, 231(1-4), 113-122.
Sang, N. V., 2010. Genetic studies on improvement of
striped catfish (Pangasianodon hypophthalmus)
for economically important traits. Unpublished
Docterial thesis, Norwegian University of Life
Sciences, Aas, Norway.
Su, G.-S., Liljedahl, L.-E. and Gall, G. A. E., 2002.
Genetic correlations between body weight at
different ages and with reproductive traits in
rainbow trout. Aquaculture, 213(1-4), 85-94.
Thành, N. M., Ponzoni, R. W., Nguyen, N. H., Vu, N.
T., Barnes, A. and Mather, P. B., 2009. Evaluation
of growth performance in a diallel cross of three
strains of giant freshwater prawn (Macrobrachium
rosenbergii) in Vietnam. Aquaculture, 287(1-2),
75-83.
QUANTITATIVE GENETIC PARAMETERS FOR BODY TRAITS AT
DIFFERENT AGES IN A CULTURED STOCK OF GIANT FRESHWATER
PRAWN A (Macrobrachium rosenbergii) SELECTED FOR FAST GROWTH
Dinh Hung1
ABSTRACT
The data set consisted of 4,650 body records collected at weeks 10 and 18 in the full pedigree comprising a
total of 18,387 records. Variance and covariance components were estimated using restricted maximum likelihood fitting a multi-trait animal model. Estimates of heritability for body traits were moderate and ranged
from 0.06 to 0.11 and 0.11 to 0.22 at weeks 10 and 18, respectively. Genetic correlations between body traits
within age and genetic correlations for body traits between ages were generally high. Results suggest that
selection for high growth rate in GFP can be undertaken successfully before full market size has been reached.
Key words: Macrobrachium rosenbergii, heritability, genetic correlation, different age.
Người phản biện: ThS. Phan Minh Quý
Ngày nhận bài: 6/6/2013
Ngày thông qua phản biện: 29/6/2013
Ngày duyệt đăng: 8/7/2013
1
Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No.2
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
11
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN CỦA
CÁ MÓ (Cheilinus undulatus) NUÔI TẠI VŨNG TÀU
Nguyễn Hữu Thanh1, Nguyễn Thị Kim Vân1
TÓM TẮT
Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học sinh sản của cá mó (Cheilinus undulatus) trong điều kiện ni
nhằm mục tiêu xác định mùa vụ sinh sản, độ béo, hệ số thành thục, sức sinh sản, tập tính sinh sản,
đường kính trứng, tổ chức mơ học tuyến sinh dục để làm cơ sở cho việc xây dựng qui trình sản xuất
giống nhân tạo. Kết quả bước đầu cho thấy cá mó là lồi lưỡng tính, cái trước đực sau, khơng phân
biệt được đực cái đối nhóm cá có chiều dài dưới 40 cm. Các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục cá
mó gồm 6 giai đoạn và các cấu trúc mơ tế bào tương tự như một số lồi cá biển khác. Tinh sào cá mó
có màu xanh nước biển, màu sắc tinh bào và độ đặc khác nhau theo từng giai đoạn thành thục, vào
thời kỳ chín muồi sinh dục, tinh bào từ màu xanh chuyển sang màu trắng sữa, lúc này mật độ tinh
trùng đạt cực đại và sẵn sàng tham gia sinh sản. Hệ số thành thục của cá mó khoảng 0,66 – 0,86%.
Độ béo của cá mó theo Clack và Fulton khoảng 2,9 -3,0%. Mùa vụ sinh sản từ tháng 4-7, cá bắt cặp
sinh sản từ 10 giờ đến 14 giờ hàng ngày, cá đẻ nhiều ngày trong tháng theo chu kỳ trăng. Trứng cá
mó thuộc loại trứng nổi, trong suốt và có giọt dầu lớn. Nỗn bào của cá mó ở phase III – IV có kích
thước từ 170 – 350 µm và kích thước trứng cá thụ tinh từ 560 – 660µm. Sức sinh sản tương đối của
cá mó từ 256.947 – 366.320 trứng/kg.
Từ khố: cá mó, Cheilinus undulatus, sinh học sinh sản, mùa vụ sinh sản.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá mó Cheilius undulatus (Ruppell, 1835)
tên Việt Nam cịn gọi là cá mó xù, cá Bàng chài
vân sóng, là một trong những lồi cá rạn có kích
thước lớn nhất trong họ Labridae. Kích thước
lớn nhất của cá mó có thể đạt chiều dài trên 2m
và nặng hơn 190kg (Sadovy và ctv., 2003). Cá
mó cũng là một trong những lồi có giá trị kinh
tế cao nhất ở thị trường cá sống tại Hồng Kông,
Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam
và một số nước khác. Giá cá mó sống bán tại
Hồng Kơng vào năm 1997 là 90 – 175 USD/kg
(Lau và Perry Jones, 1999) trong những năm
gần đây cá mó có giá trung bình khoảng 130
USD/kg và biến động tùy kích cỡ cá (Sadovy
và ctv., 2003). Ngồi ra, cá mó là lồi được
thị trường cá cảnh biển ưa chuộng. Chính vì
1
12
điều này đã thu hút sự đánh bắt cá mó quá mức
làm suy giảm quần đàn nghiêm trọng trong tự
nhiên và có nguy cơ tuyệt chủng. Năm 1996
loài này đã nằm trong danh mục sách đỏ của
IUCN (International Union for Conservation
of Nature) và được đánh giá ở mức nguy cấp
EN (A2bd + 3bd) (IUCN, 2010).
Ở Việt Nam cá mó được đánh bắt ở vùng
biển Cơn Đảo, Phú Quí, Trường Sa nhưng tần
suất bắt gặp rất thấp. Cho đến nay, chỉ có một
số tài liệu nước ngồi cơng bố về đặc điểm sinh
học của lồi cá này như vùng phân bố, sinh thái,
tập tính sống và vịng đời.…còn về đặc điểm
sinh học sinh sản được nghiên cứu rất ít và số
lượng mẫu khơng nhiều nên dữ liệu và thơng
tin cịn khiêm tốn. Ở Việt Nam, hầu như chưa
có cơng trình nào nghiên cứu về đặc điểm sinh
Trung Tâm Quốc gia Giống Hải sản Nam bộ, Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản 2
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
học sinh sản và kỹ thuật sinh sản nhân tạo mó.
Chính vì thế việc tìm hiểu và nghiên cứu đặc
điểm sinh học sinh sản của cá mó là cần thiết,
nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu sinh sản
nhân tạo loài cá quý hiếm này, để tái tạo quần
đàn trong tương lai là điều thiết thực.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Cá mó (Cheilinus undulatus), khối lượng từ
3,0 – 10,5 kg/con, gắn dấu từ để theo dõi.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: thực hiện
từ tháng 06/2011 đến tháng 09/2012 tại Trung
Tâm Quốc Gia Giống Hải Sản Nam Bộ - Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
2.2. Nội dung
Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh
sản của cá mó trong điều kiện nuôi nhân tạo:
mùa vụ sinh sản, hệ số thành thục, sức sinh sản,
tập tính sinh sản, đường kính trứng, tổ chức mô
học tuyến sinh dục.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nuôi
Chế độ nuôi vỗ thành thục trong điều kiện
nuôi nhốt: bể nuôi là bể xi măng 100 m3, lọc
sinh học tuần hồn có thay nước, sục khí liên
tục, xi phông 2 ngày/lần, cứ 10 ngày/lần thay
nước 100 %. Mật độ nuôi: < 1,0 kg/m3 nước.
Độ mặn từ 30-32 o/oo; pH từ 7,5 – 8,5; nhiệt độ
từ 27- 30 oC, DO > 4 mg/l; NH3 < 0,1 mg/l. Cho
cá ăn 2 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng và 15 giờ
chiều, thức ăn tươi gồm: mực, tơm, ghẹ, sị và
cá tươi. Khẩu phần ăn từ 2-3% khối lượng thân/
ngày, bổ sung HUFA, vitamin E 10 ngày/lần.
2.3.2. Nghiên cứu tuyến sinh dục và một số
chỉ tiêu sinh sản
Xác định đực, cái: Đánh giá qua đặc điểm
ngoại hình và tổ chức học tuyến sinh dục.
Mùa vụ sinh sản: theo dõi và ghi nhận thời
gian cá đẻ trong năm và thời điểm trong tháng.
Đo đường kính trứng: Dùng dây thăm
trứng lấy mẫu (03 cá cái/lần ở 03 thời điểm khác
nhau: đầu, giữa và cuối vụ sinh sản). Mẫu trứng
có được lấy một nữa cố định trong Bouin để xác
định giai đoạn của noãn bào và một nửa (20 – 30
trứng) dùng làm mẫu để đo đếm. Trứng cá đẻ tự
nhiên: mỗi lần cá đẻ lấy ngẫu nhiên 30 trứng đo
kích thước (lặp lại 3 lần). Kích thước trứng được
đo bằng trắc vi thị kính trên kính hiển vi. Dựa
vào kết quả mơ học, xác định được giai đoạn
phát triển của nỗn bào với kích thước vừa đo.
Hệ số thành thục: được xác định theo cơng
thức: GSI (%) = (Wtsd/Wo) x 100.
Trong đó: Wtsd: khối lượng tuyến sinh
dục (g); Wo: khối lượng toàn thân cá (g).
Xác định độ béo theo công thức: Độ béo
Fulton (1902): F(%) = Wt x 100/Lo3.
Lo .
Độ béo Clark (1928): C(%) = Wo x 100/
3
Trong đó: Wt: khối lượng tồn thân (g);
Wo: khối lượng bỏ nội tạng (g); Lo: chiều dài
chuẩn (cm).
Phương pháp tính sức sinh sản: Chọn cá
ở giai đoạn thành thục sinh dục (Pravdin 1963;
Mai Đình Yên và ctv., 1979). Lấy mẫu ở 3 phần
của buồng trứng (phần đầu, giữa và cuối buồng
trứng), mỗi phần lấy khoảng 0,2 -0,5 gam. Sau
khi cố định trong dung dịch Bouin trong 72 giờ
cho trứng rời ra và đếm tất cả các hạt trứng đã
rời. Sức sinh sản của cá được tính dựa trên sức
sinh sản tương đối và tuyệt đối của cá.
Sức sinh sản tuyệt đối: F = (n x W)/w. Trong
đó: F: Sức sinh sản tuyệt đối (tổng số trứng có
trong buồng trứng); n: Số trứng đếm được trong
trọng lượng (g) của mẫu đếm; w: Khối lượng
mẫu trứng lấy ra đếm (g); W: Khối lượng buồng
trứng (g)
Sức sinh sản tương đối (số lượng trứng trên
1 Kg khối lượng thân cá cái)
Xác định các giai đoạn phát triển tuyến
sinh dục của cá: Định kỳ 1 lần/tháng thu mẫu
tiêu bản tuyến sinh dục với số lượng mẫu thu
3 con/lần/tháng. Tuyến sinh dục cá được cố
định trong dung dịch Buoin, sau đó được đúc
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
13
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
trong parafin và cắt mơ học, độ dày lát cắt 7 µm,
nhuộm haematoxylin và eosin. Đọc tiêu bản mô
học tuyến sinh dục dựa theo mô tả của Hunter
(1986).
Đánh giá mức độ thành thục sinh dục dựa
vào tổ chức học tuyến sinh dục theo thang 6 bậc
của Nikolski (1963); Xakun và Buskaia (1982).
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu:
Số liệu được xử lý thống kê thông thường
bằng phần mềm Excel.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
tính
3.1. Đặc điểm ngoại hình phân biệt giới
Cá mó là lồi chuyển giới tính, cái trước đực
sau, trong tự nhiên cá đực thường có kích thước
lớn hơn cá cái. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở
nhóm cá có kích thước (< 40cm) thì chưa phân
biệt được giới tính và khơng có sai khác về hình
thái bên ngồi giữa con đực và cái. Lỗ sinh dục
được che phủ bởi lớp vảy khơng có biểu hiện ra
bên ngồi. Cá đực thường có kích thước lớn hơn
cá cái, cơ thể thn dài, da có màu xanh nước
biển, màu sắc sáng hơn cá cái, các vân sóng màu
nâu nhạt, viền đi có màu vàng rõ, trên đầu cá
xuất hiện u lồi (gù) và các chấm trắng. Cá cái có
kích thước nhỏ hơn cá đực, da có màu xanh hơi
nâu, thân cá có màu sậm hơn, các vân sóng màu
nâu đậm, viền đi màu vàng nhạt và màu xanh
lá chuối non. Trên đầu có u lồi nhỏ hơn và các
chấm ở đầu không đậm màu. Cá cái tới mùa sinh
sản có bụng căng đầy và mềm.
Hình 1: Cá mó đực (9,6 kg)
14
3.2. Độ béo
Xác định độ béo của cá theo Fulton (1902)
và Clark (1928) từ đó đánh giá mức độ tích lũy
dinh dưỡng của cá mó. Kết quả khảo sát trên 10
mẫu cá có trọng lượng trung bình 3,31± 2,61kg,
dao động từ 1.700 – 10.500 g cho thấy độ béo
Fulton của cá mó là 3,0% (± 0,15) và độ béo
Clark là 2,9% (± 0,17) và không biến động lớn
kể cả trong mùa sinh sản. Tuy nhiên, số mẫu trên
chưa nhiều vì cá mó là lồi quý hiếm nên mẫu để
nghiên cứu rất hạn chế. So sánh độ béo Fulton
(%) của cá mú chuột là 3,33 ± 0,32 (Tridjoko và
ctv., 2005) cho thấy gần tương đương nhau.
3.3. Mùa vụ sinh sản
Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy cá
mó bắt đầu tham gia sinh sản từ tháng 4 đến
tháng 7 năm 2012. Trong tháng 4 số lần cá đẻ
nhiều nhất (14 lần), vào tháng 5, 6, 7 cá đẻ 6
lần/tháng. Tổng số trứng thu được là 3.340.000
trứng (32 lần đẻ), tỷ lệ thụ tinh trung bình đạt:
58,8%. Ở Indonesia, cá mó đẻ 2 vụ trong năm,
vụ 1 từ tháng 1-5 và vụ 2 cá đẻ vào tháng 9-11,
số lượng trứng dao động từ vài ngàn đến vài
chục ngàn trứng/cá cái/lần đẻ (Hutapea, 2010b).
Việc theo dõi mùa vụ cá đẻ sẽ được nghiên cứu
tiếp tục trong những năm tới. Từ kết quả nghiên
cứu sơ bộ ở trên và kết hợp với thông tin về thời
điểm xuất hiện cá con trong tự nhiên từ các ngư
dân ở Phú Q và Cơn Đảo thì thấy rằng cá mó
ni trong điều kiện ni nhốt có mùa vụ sinh
sản gần như cá ngồi tự nhiên.
Hình 2: Cá mó cái (4,1 kg)
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.4. Hệ số thành thục của cá trong nuôi vỗ
Kết quả khảo sát 4 cá mó có trọng lượng
từ 3.800 – 4.200 gr cho thấy chúng có hệ số
thành thục từ 0,66 – 0,86%. Kết quả nghiên cứu
bước đầu cho thấy cá mó có hệ số thành thục
tương đối thấp so với một số loài cá biển khác.
Đối với cá mú E. malabaricus có hệ số thành
thục cao nhất là 5,2%, cá mú chuột có hệ số
thành thục từ 0,55 – 2,95% (Tridjoko và ctv.,
2005). Trong khi đó theo kết quả nghiên cứu
của Sadovy (2010) cho thấy trong tự nhiên cá
mó cái chín muồi sinh dục có hệ số thành thục
khá thấp < 2,0% (0,6 – 1,89 %), điều này chứng
tỏ cá cái đẻ một số ít trứng trong mỗi lần bắt
cặp. Đối với cá cái chưa chín muồi sinh dục thì
hệ số này dao động từ < 0,1 – 1,12 %. Còn đối
với cá đực thành thục sinh dục thì hệ số này
khơng vượt q 0,15%.
Hình 3: Buồng trứng cá mó
3.5. Kích thước trứng
Trứng cá mó có dạng hình cầu, trong suốt,
trơi nổi nhờ giọt dầu và có kích thước khá nhỏ.
Nỗn bào cá mó giai đoạn III – IV có đường
kính từ 170 – 350 µm (n=90), trứng thụ tinh sau
khi trương nước có đường kính trứng từ 560 –
660 µm (n=90). Kết quả này tương đương với
kết quả nghiên cứu của Hutapea 2010b. Theo
Hutapea (2003; 2010b) cho thấy kích thước
trứng thụ tinh có sự khác biệt ở các đợt đẻ khác
nhau, trứng cá mó khá nhỏ, dao động từ 570 –
670 µm, đường kính của giọt dầu từ 120 – 140
µm và chất lượng ấu trùng liên quan mật thiết
với kích thước trứng. So với một số lồi cá biển
khác có đường kính trứng lớn hơn trứng cá mó
như: trứng cá mú đen chấm nâu (Epinephelus
coioides) 800 µm (Nguyễn Tuần và ctv, 2004),
cá hồng (Lutjanus argentimaculatus) 800 µm,
cá măng (Chanos chanos) 1.100 – 1.250 µm
(Mananos.E và ctv., 2009), cá chìa vơi (Proteracathus sarissophorus) 1.300 – 1.900 µm (Cầm
Đ.T.V và ctv., 2010).
3.6. Hoạt động sinh sản
Kết quả quan sát cho thấy cá bắt cặp sinh
sản chủ yếu vào thời gian từ 10 – 14 giờ hàng
ngày, đẻ sớm hơn so với nghiên cứu của Hutapea
(2010b), tác giả cho biết cá nuôi ở Indonesea
thời gian cá đẻ xuất hiện vào chiều muộn hoặc
chuyển sang buổi sáng.
Dấu hiệu bắt cặp sinh sản: Ban đầu cá đực
Hình 4: Buồng tinh cá mó (Nguồn: Sadovy, 2010)
đổi màu từ xanh nước biển sang màu xanh
dương, 2 vây ngực xòe ra, bơi đuổi theo cá cái,
thúc đầu và cọ mình vào mình cá cái hoặc lượn
vịng xung quanh cá cái, hoạt động này lặp lại
nhiều lần trước khi cá cái đẻ trứng và cá đực
phóng tinh. Một cá đực có thể tham gia sinh sản
với nhiều cá cái và hoạt động đẻ kéo dài từ 2 - 4
giờ, tập tính sinh sản giống như mơ tả của Colin,
(2010); Sadovy và ctv (2003a).
dục
3.7. Giai đoạn phát triển của tuyến sinh
Trong q trình kiểm tra sự phát triển của
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
15
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
tuyến sinh dục của đàn cá bố mẹ ni vỗ cho
thấy nỗn sào cá mó thường tồn tại nhiều phase
trong buồng trứng. Kết quả này hoàn toàn phù
hợp với nghiên cứu của Hutapea (2010b) và
(Domeiei và Colin, 1997). Điều này chứng tỏ
cá mó là loài đẻ nhiều lần trong năm, vào mùa
sinh sản cá mó đẻ 2 - 5 lần trong tháng theo chu
kỳ trăng. Tinh sào của cá mó có màu xanh nước
biển và màu sắc sẽ đậm dần theo mức độ thành
thục của cá. Vào mùa sinh sản, sẹ từ màu xanh
chuyển thành màu trắng đục như sữa lúc này cá
có sẵn sàng tham gia sinh sản.
Tuyến sinh dục cá cái: dựa vào sự phát
triển của tế bào trứng, chúng tôi chia q trình
phát triển của nỗn sào cũng trải qua 6 giai đoạn
tương ứng (Xakun O.F và Buskaia N.A.; 1968).
Cấu trúc mô tế bào trứng ở từng phase cũng
giống một số loài cá biển khác như họ cá mú, cá
chẽm, cá hồng….như sau:
thể tích tế bào trứng. Quan sát kỹ trong nhân có
thể thấy có các nhiễm sắc thể dạng sợi, nhân có
một số tiểu hạch nhỏ bắt màu đậm, các tiểu hạch
nằm ở vùng ngoại biên nhân tạo thành vịng trịn
xung quanh nhân. Nỗn bào chủ yếu ở phase I
và II.
Giai đoạn III: thể tích buồng trứng tăng lên
nhanh. Mắt thường đã nhìn thấy tế bào trứng, tế
bào trứng có đường kính từ 100 – 250 µm. Nỗn
bào chủ yếu ở phase III và II, gia tăng nhanh
về kích thước do q trình tích luỹ nỗn hồng.
Trong nỗn bào xuất hiện các khơng bào, hình
thành lớp vỏ tế bào và lớp vân phóng xạ (hình c).
Giai đoạn IV: thể tích buồng trứng tăng cực
đại. Nỗn bào trịn và căng dễ tách khỏi tấm
trứng. Nỗn bào đã hồn thành q trình tích
luỹ nỗn hồng (hình d). Tiếp theo là hiện tượng
phân cực của trứng, nhân di chuyển về gần noãn
khổng (hình e). Trong giai đoạn này buồng
Nhân to
Khơng bào
a
b
c
d
e
f
Hình 5: Các phase phát triển của nỗn bào ở cá mó (độ phóng đại 400x)
(a): Nỗn bào phase I-II; (b) : Noãn bào phase II; (c): Noãn bào phase III;
(d), (e) : Nỗn bào phase IV; (f): Nỗn bào đang thối hóa
Giai đoạn I và II: buồng trứng có kích thước
rất nhỏ, tế bào sinh dục là các nỗn ngun bào,
hình trịn, trên lát cắt tế bào trứng có đường kính
từ 10 - 90 µm. Nhân tế rất lớn và chiếm tới ½
16
trứng có nhiều lứa nỗn bào ở các phase khác
nhau nhưng chủ yếu là ở phase III và IV, đường
kính nỗn bào dao động từ 250 – 350 µm.
Giai đoạn V: buồng trứng đang trong giai
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
đoạn sinh sản, đa số tế bào trứng đã chín và
rụng. Bao gồm cả các nang trứng và các noãn
bào ở phase I, II và III.
Giai đoạn VI: buồng trứng đẻ xong mềm
nhão, teo nhỏ lại. Trong đó chứa các nang trứng
hoặc trứng thối hố cùng với các nỗn bào ở
các phase khác nhau.
Tuyến sinh dục cá đực: Quá trình phát
triển của tinh sào trải qua các giai đoạn như sau:
Giai đoạn I: tuyến sinh dục chưa phát
triển, chưa phân biệt được đực cái.
Giai đoạn II: tinh sào dạng mảnh, về tổ
chức học cho thấy các tinh nguyên bào đang
trong thời kỳ sinh trưởng và sinh sản, bao gồm
tinh bào cấp I và cấp II (hình A).
A
Giai đoạn VI: đã sinh sản xong, mềm
và có màu xanh. Trong ống dẫn tinh ngồi tinh
trùng chín màu trắng đục, lỗng cịn có các tế
bào sinh dục ở các phase phát triển khác nhau.
3.8. Sức sinh sản
Kết quả khảo sát trên 4 cá có khối lượng
trung bình 4kg cho thấy cá mó có sức sinh sản
trung bình khoảng 311.633 trứng/kg dao động
từ 256.947 – 366.320 trứng/kg. Kết quả cho
thấy sức sinh sản của cá mó tương đương với
sức sinh sản của cá mú chuột 96.245 – 318.520
trứng/kg (Tridjoko và ctv., 2005) và thấp
hơn nhiều so với sức sinh sản của cá mú đen
600.000– 1.900.000 trứng/kg (Nguyễn Tuần và
ctv, 2004).
C
B
Hình 6: Các giai đoạn phát triển tinh bào cá mó (độ phóng đại 400x)
(A) Tinh bào cấp I và cấp II; (B) Tinh tử; (C) Tinh trùng.
Giai đoạn III: giai đoạn tiền thành thục,
tinh sào có màu xanh nhạt, trong đó chủ yếu là
tinh tử, tinh bào cấp I và cấp II. Cũng giống như
tinh bào cấp 1, một tinh bào cấp 2 phân chia
cho ra hai tinh tử. Các tinh bào cấp 2 chỉ tồn tại
trong thời gian tương đối ngắn vì vậy trên tiêu
bản quan sát thấy chủ yếu là các tinh tử chứa
trong các xoang, một số ít là các tinh bào cấp
1 và tinh nguyên bào, chưa có sự xuất hiện của
tinh trùng giai đoạn này.
Giai đoạn IV: tinh sào có màu trắng
xanh (màu xanh là màu của tinh tử bên trong
tinh sào), các ống dẫn tinh chứa đầy tinh trùng
và tinh tử (hình B,C).
Giai đoạn V: tinh sào ở trạng thái sinh
sản, có màu xanh. Tinh trùng chứa đầy trong
ống dẫn và có màu trắng đục như sữa.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
- Cá mó là lồi lưỡng tính, cái trước đực
sau. Khơng phân biệt được đực cái đối nhóm cá
có chiều dài dưới 40 cm.
- Các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục
cá mó gồm 6 giai đoạn và các cấu trúc mô tế
bào tương tự như một số loài cá biển khác như:
cá mú, cá chẽm... Tinh sào cá mó có màu xanh
nước biển, màu sắc tinh bào và độ đặc khác
nhau theo từng giai đoạn thành thục, vào thời
kỳ chín muồi sinh dục, màu sắc của tinh dịch
màu xanh chuyển dần sang màu trắng sữa.
- Hệ số thành thục của cá mó khá thấp
khoảng 0,66 – 0,86%. Độ béo theo Clark và
Fulton khơng cao từ 2,9 -3,0%.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
17
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
- Mùa vụ sinh sản từ tháng 4 - 7, cá bắt cặp
sinh sản từ 10 giờ đến 14 giờ hàng ngày và đẻ
nhiều ngày trong tháng.
- Trứng cá mó thuộc loại trứng nổi, có giọt
dầu lớn và kích thước khá nhỏ. Đường kính
nỗn bào ở phase III – IV dao động từ 170 –
350 µm và trứng cá thụ tinh từ 560 – 660µm.
Sức sinh sản tương đối từ 256.947 – 366.320
trứng/kg.
4.2. Đề xuất
Tiếp tục nghiên cứu về sự phát triển của
tuyến sinh dục, hệ số thành thục giữa các tháng
trong năm và một số chỉ tiêu sinh sản khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Colin, P.L., 2010. Aggregation and spawing of
humphead wrasse Cheilinus undulatus (Pisces:
Labridae): general aspects of spawning behavior.
Journal of fish Biology 76, 987-1007.
Domeier, M.L. and Colin, P.L., 1997. Tropical reef fish
spawning aggregations: defined and reviewed.
Bull. Mar. Sci. 60(3), 698–726.
Đặng Tố Vân Cầm, Nguyễn Hữu Thanh, Hoàng Thanh
Lịch, Nguyễn Xuân Toản, Lâm Văn Đức và
Nguyễn Thị Kim Vân, 2010. Báo cáo khoa học
tổng kết đề tài “Nghiên cứu thăm dò sản xuất
giống nhân tạo cá Chìa Vơi Proteracathus sarissophorus, Cantor 1850”. Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản 2, 74 trang.
Humter, J.R., Macewicz, B. and Sibert, J.R., 1986. The
spawning frequency of skipjack tuna, Katsuwonus
pelamis, from the South Pacific. Fish. Bull, 895
– 903.
Hutapea, 2010a. Presentation at Workshop Report on the
Trade of Cheilinus undulatus (Humphead Wrasse/
Napoleon Wrasse) & CITES implementation. 3rd
and 4th June 2010. Bali, Indonesia.
Hutapea, 2010b. Presentation at Workshop Report
on the research progress for HHW mariculture
sucesses and on going challenges. 6th October
2010. Bali, Indonesia.
IUCN, 2010. Red List of Threatened Species.Version
2010.2. Downloaded in August 2010.
Lau, P.P.F. & Parry-Jones, R., 1999. The Hong Kong
trade in live reef fish for food. TRAFFIC East
18
Asia and World Wide Fund For Nature Hong
Kong, Hong Kong, 65 p.
Mai Đình Yên, M.Đ., Tạng, V.T., Lai, B., Thiên, T.M.,
1979. Ngư loại học. Nhà xuất bản Đại Học và
Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 392 trang.
Mananos, E., Duncan, N., and C.mylonas C.,
2009. Reproduction and contol of ovullation,
spermiation and spawing in culture fish. Pp: 5058. 80p in Method in reproductive aquaculture:
marine and freshwater species. 574p.
Nikolskii, G.V., 1963. Sinh thái cá. Moscow (Bản dịch
tiếng việt). Nhà xuất bản KHKT, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Thanh, Nguyễn Thị Kim Vân, 2011. Báo
cáo sơ kết nhiệm vụ “Khai thác nguồn gen cá mó
phục vụ phát triển bền vững”. Báo cáo khoa học,
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2, 34 trang.
Nguyễn Tuần, Đặng Tố Vân Cầm, Nguyễn Thị Ngọc
Tĩnh, Võ Minh Sơn và Nguyễn Hữu Thanh., 2004.
Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống nhân tạo
cá mú chấm cam (E. coioides). Báo cáo khoa học
tổng kết đề tài. Viện Nghiên cứu NTTS 2.
Pravdin, I.F., 1973. Hướng dẫn nghiên cứu cá (Bản
tiếng Việt do Phạm Thị Minh Giang dịch). Nhà
xuất bản Khoa học và kỹ thuật Hà Nội, 278 trang.
Sadovy, Y., Donaldson, T. J., Graham, T. R., McGilvray,
F., Muldoon, G. J., Phillips, M. J., Rimmer, M.
A., Smith, A. & Yeeting, B., 2003b. While Stocks
Last: The Live Reef Food Fish Trade. Manila:
Asian Development Bank.
Sadovy, Y., M. Kulbicki., P. Labrosse., Y. Letourneur., P. Lokani & T.J. Donaldson., 2003a. The
humphead wrasse, Cheilinus undulatus: synopsis
of a threatened and poorly known giant coral reef
fish. Reviews in Fish Biology and Fisheries 13,
327–364.
Sadovy, Y., Mitcheson, D,. Liu, M., and Suharti, S.,
2010. Gonadal development in a giant threatened
reef fish, the humphead wrasse Cheilinus
undulatus, and its relationship to international
trade. Journal of Fish Biology , 13 pp.
Tridjoko, Suko Ismi, Eri Setiadi and Fris Johnny.,
2005. Observation on gonad maturation of first
genaration (F1) in humpback grouper Cromileptes
altivelis. World Aquaculture. Meeting Abstract.
XaKun O.F và Buskaia, N.A., 1968. Xác định các giai
đoạn phát dục và nghiên cứu chu kỳ sinh sản của
cá. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 1982, 47
trang.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
REPRODUCTIVE BIOLOGY OF HUMPHEAD WRASSE (Cheilinus
undulatus) IN CAPTIVITY IN VUNG TAU, VIETNAM
Nguyen Huu Thanh1, Nguyen Thi Kim Van1
ABSTRACT
The reproductive and biological characteristics of humphead wrasse (Cheilinus undulatus) in captivity were investigated. Results confirmed that humphead wrasse was a protogynous hermaphrodite as shown by the evidence of female-to-male sex change. Sexual differentiation in humphead
wrasse was examined only when they reached a length of approximately 40 cm. The testes and the
milt were blue color. The color of the milt and number of sperm in a volume of milt were variable,
depending on the stages of maturity. During the period of testis ripening, the blue milt turned to
creamy-white milt, which contained the highest sperm count per volume. The Gonad Somatic Index
(GSI) of fish in spawning seasons varied from 0,66% to 0,86%. Fat indexes of Fulton and Clark
ranged between 2,9-3,0%. In captivity condition, the species displayed seasonal reproduction from
April to July. The timing of spawning varied from 10:00 am to 2:00 pm, and there was considerable
variation in the timing of spawning relative to moon phase. The eggs were transparent and buoyant, with oil globules. Fertilized eggs size ranged between 560-660 µm. No difference in histology
of gonad of humphead wrasse and other marine fish species was reported. Gonad development was
divided into six stages. The increase in oocyte size at phase 3 and phase 4, from 170 to 350 µm, was
found. Fecundity was in the range of 256,947 to 366,320 eggs/kg.
Key words: Humphead wrasse; Cheilinus undulatus; reproductive biology; breeding season; spawning
Người phản biện: TS. Nguyễn Tuần
Ngày nhận bài: 6/6/2013
Ngày thông qua phản biện: 26/6/2013
Ngày duyệt đăng: 8/7/2013
1 National Breeding Center for Southern Marine Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No.2
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
19
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
ƯỚC TÍNH PHÁT THẢI CỦA AO NUÔI CÁ TRA
(Pangasianodon hypophthalmus) THÂM CANH Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Nguyễn Nhứt1, Lê Ngọc Hạnh1 và Nguyễn Văn Hảo2
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này đánh giá hiện trạng phát ra chất thải rắn và lỏng của ao nuôi cá tra thâm
canh trong các trang trại ở ĐBSCL nhằm định hướng cho các mơ hình ni ít ô nhiễm. Sử dụng
phương pháp điều tra trên 30 trang trại ở các tỉnh nuôi cá tập trung như Tiền Giang, Cần Thơ, Bến
Tre, An Giang, Đồng Tháp và Vĩnh Long. Số liệu về chất thải rắn, lỏng được phỏng vấn trực tiếp
người nuôi và nhật ký nuôi qua các vụ kết hợp với số liệu nghiên cứu được sử dụng tính tốn, ước
tính trong nghiên cứu này. Qua kết quả điều tra 30 trang trại nuôi cá tra thâm canh cho thấy năng
suất trung bình 422 tấn/ha/vụ với thời gian ni trung bình 293 ngày/chu kỳ, trọng lượng trung bình
thu hoạch 952 g/cá thể. Trung bình sản xuất 1kg cá cần lượng nước 7,4 m3 và sinh ra 19,7 L bùn.
Ước tính cân bằng dinh dưỡng của ao đầu vào với dạng vật chất rắn (DM) chiếm 54,7% từ thức
ăn và nước sông chiếm 44,9%. Chất thải ni-tơ ước tính đầu vào nước sơng 26% và thức ăn 73,2%.
Tương tự như tỷ lệ phosphorus chiếm cao nhất từ nguồn thức ăn 10,2% và từ nguồn nước vào 3,4%.
COD từ nước sông 3,6% và thức ăn chiếm đa số 96%. Đầu ra của quỹ DM chứa trong cá 9,4%, nước
thải từ ao cá tra 17,3%, trong bùn xả 4,93 % và phân hũy do vi sinh vật và yếu tố khác 68,3%. Cá
thương phẩm hấp thụ Nitrogen 33,6%, thải ra môi trường nước 38,5%, bùn chiếm 1,17% và vi sinh
vật hấp thụ khoảng 26,7%. Phosphorus chiếm 30,9% trong cá, nước thải 30,5%, trong bùn 1,85%
và hấp thụ phần lớn trong vi sinh vật 36,7%. Kết quả này có thể định hướng cho các mơ hình ni
giảm thiểu ơ nhiễm.
Từ khóa: cá tra, nước thải, , quỹ, nitơ, photpho
I. MỞ ĐẦU
Nghề nuôi cá tra thương phẩm ở ĐBSCL
ngày càng phát triển. Tổng diện tích ni cá
tra hiện nay ước tính khoảng 5.442 ha và sản
lượng cá tra nuôi 835.000 tấn năm 2008 (Phan
Thanh Lam và ctv., 2009). Hơn 90% diện tích
ni cá tra thương phẩm (Bosma và ctv, 2008)
chủ yếu là nuôi ao đất với năng suất nuôi dao
động từ 70 – 850 tấn/ha/vụ phù thuộc vào khả
năng thay nước và mật độ nuôi (Phan Thanh
Lam và ctv., 2009). Với năng suất cá nuôi cao,
cá tra tiêu thụ một số lượng thức ăn lớn với mực
nước ao sâu từ 2-6 m, không cung cấp oxy và
thường xuyên thay nước 30-100%/ngày ở suốt
chu kỳ nuôi để cải thiện chất lượng nước (Phan
Thanh Lam và ctv., 2009). Người nuôi cá tra
thường sử dụng thức ăn có hàm lượng protein
thấp từ 22 – 30% với hệ số chuyển đổi thức
ăn (FCR) dao động từ 1,6 -1,86 đồng nghĩa
với dự hấp thụ dinh dưỡng cho sinh trưởng và
phát triển cá thấp, chất thải sinh ra từ nguồn
thức ăn khá lớn gây ô nhiễm môi trường nước
1
Phịng Sinh học Thực nghiệm. Viện Nghiên Cứu Ni Trồng Thủy Sản 2.
Email:
2 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 2
20
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
đáng kể (Bosma và ctv., 2008; Lam và ctv.,
2009; De silva và ctv, 2010). Để cải thiện chất
lượng nước và đáy ao nuôi cá tra sử dụng biện
pháp thay nước hàng ngày và hút bùn đáy định
kỳ đã và đang tác động xấu đến mơi trường
xung quanh. Mục đích của điều tra tính tốn
khả năng gây ơ nhiễm của ao ni, từ đó làm
cơ sở để tính tốn cân bằng dinh dưỡng chất
thải trong hệ thống định hướng xây dựng công
nghệ nuôi mới giảm thiểu môi trường.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu:
Điều tra, phỏng vấn để thu thập số liệu trên
30 trang trại nuôi cá tra thâm canh, phân bố
trong 6 tỉnh của ĐBSCL từ tháng 6 và kết thúc
8 năm 2011.
2.2.Thu thập thông tin điều tra
Các số liệu cần thiết để tính tốn chất thải
sinh ra trong hệ thống được điều tra 30 trang
trại nuôi thương phẩm có tổng diện tích từ >
1ha ( > 2 ao nuôi), mỗi cơ sở phỏng vấn người
nuôi (5 người) với số liệu trung bình từ 2 vụ
ni trở lên ở các tỉnh nuôi cá tra thương phẩm
trọng điểm ở ĐBSCL (Tỉnh Vinh Long, Tỉnh
Bến Tre, Tỉnh Tiền Giang,Tỉnh An Giang, Cần
Thơ và Đồng Tháp) mỗi tỉnh 5 cơ sở. Số liệu
tính trung bình của mỗi tỉnh điều tra 5 cơ sở
sản xuất .
2.3. Các cơng thức sử dụng để tính tốn
ước lượng chất thải trong ao ni
Tính tốn dinh dưỡng chứa trong
cơ thể cá: Cá tra nuôi thương phẩm có trọng
lượng 1000g con được phân tích các thành
phần và tính tốn theo các cơng thức sau: Cơng
thức tính vật chất khô chứa trong cá DM: (g/kg
trọng lượng cá tươi) = 245,06* (trọng lượng
cá tươi) 0,0561 (r2 = 0,95); protein chứa trong cá
(g/kg trọng lượng cá tươi) = 0,0013 * (trọng
lượng cá tươi) + 161,74 (r2= 0,62); chất béo
(g/kg trọng lượng cá tươi) = 78,966 (trọng
lượng cá tươi )0,0916 (r2 = 0,60)(Glencross và ctv
2010). Lượng tro của cá được tính = vật chất
khô – lượng protein – lượng chất béo trong
cá. Hiệu suất tiêu hóa biểu kiến của cá đối với
protein 0,8; đối với chất béo 0,85 ; đối với tinh
bột 0,65. Hàm lượng phosphorus chứa trong
cá = 0,75% đo trực tiếp mẫu cá.
Tính tốn cân bằng dinh dưỡng trong
chất thải và quy đổi các chất gây ô nhiễm:
Chất béo, protein, tinh bột và tro được quy đổi
theo khối lượng COD nhân theo tỷ lệ tương ứng
2,9; 1,27; 1,09 và 0 (Eding và ctv, 2006).
Các số liệu tham khảo sử dụng trong
tính tốn:
Nước sơng : DM = 158 mg/L, COD
=7mg/L, DO = 5,5mg/L, Tổng nitrogen
=2,7mg/L và Tổng phosphorus =1,1mg/L (Trần
Quốc Bảo và ctv, 2009).
Bùn thải: DM = 6497mg/L, COD =
1769 mg/L, Tổng nitrogen= 45,6mg/L, Tổng
phosphorus = 22,7 mg/L (Anh và ctv., 2010).
Nước thải: DM = 61 mg/L, COD = 27mg/L,
Tổng nitrogen = 4mg/L, Tổng phosphorus =
1mg/L (Anh và ctv., 2010).
2.4. Phân tích và xử lý số liệu
Sớ liệu thu thập tính trung bình của 5
trang trại của mỗi tỉnh điều tra và tính trung
bình số liệu 30 trang trại điều tra: tăng trưởng,
tỷ lệ sống, mật độ nuôi, thời gian nuôi, hệ số
chuyển đổi thức ăn (FCR), các chỉ tiêu chất
lượng nước, tần suất thay nước, hiệu suất sử
dụng nước, năng suất ni, thời gian ni.
Tính cân bằng chất thải theo phương pháp
của Eding và ctv (2006) dựa trên năng suất cá
trung bình 422 tấn cá/ha/vụ của 30 trang trại
điều tra của 6 tỉnh. Sử dụng phần mềm Excel
6.5 để tính tốn.
III. KẾT QUẢ
3.1. Chỉ tiêu kỹ thuật của cá tra ni
trong ao thương phẩm
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
21
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 1. Các chỉ tiêu đạt được cá tra thương phẩm
Các chỉ tiêu
Mật độ thả nuôi
(con/m2)
Trọng lượng cá
thả (g/con)
Thời gian nuôi
(ngày)
Trọng lượng thu
hoạch (g/con)
Tiền Giang
(n=5) ±SD
Vinh Long
(n=5)
±SD
Cần Thơ
(n=5)
±SD
Bến Tre
(n=5)
±SD
Trung
bình
(n=30)
±SD
42,5 ±11,0
45,6 ±6,0
47±13,0
45,3±9,0
42±12,0
41±5,0
44±2,0
20,4 ±4,0
21,5±3,0
18,9±3,0
24,1±1,0
22,3±4,0
23,3±5,0
22±2,0
198±10,0
192 ±9,0
210 ±7,0
180±18,0
190±13,0
190±8,0
193±10,0
950±50,0
950±71,0
960±55,0
970±55,0
920±55,0
960±55,0
952±17,0
27,2±3,0
26,7±5,0
28,1±7,0
25,9±3,0
26,5±6,0
28,3±4,0
27 ± 1,0
1,64 ±0,1
1,61 ±0,1
1,6 ±0,1
1,6 ±0,1
1,6 ±0,1
1,6 ±0,1
1,61±0,1
430 ±76,0
410±89,0
430±97,0
380±76,0
410±89,0
470±67,0
422±30,0
Tỷ lệ chết (%)
FCR( kg thức
ăn/kg cá)
Năng suất (tấn/
ha/vụ)
Tỉnh
Đồng Tháp An Giang
(n=5) ±SD
(n=5)
±SD
Bảng 1 cho thấy quy mô trang trại nuôi
cá tra thương phẩm ở các tỉnh ni trọng điểm
có tương đồng về mật độ thả ni trung bình
(n=30) 44 con/m2. Thả giống có trọng lượng 19
- 24 g/con và trung bình trọng là 22g/con. Thời
gian ni trung bình 193 ngày đạt trọng lượng
thương mại trung bình 952g/con.
3.2. Sử dụng nước và bùn tích lũy trong
ao ni cá tra
Bảng 2. Khối lượng nước sử dụng cho nuôi cá
tra thương phẩm
Khối lượng nước sử dụng
Cá tra sản xuất (L/kg)
7.400 ± 1.700
Thức ăn sử dụng (L/kg)
4.600 ± 1.574
Trung bình bùn tích lũy
8333 ± 816
Kết quả phỏng vấn điều tra trên 30 trang
trại thể hiện bảng 1, người nuôi hút bùn làm
sạch đáy ao định kỳ dựa vào lượng bùn tích lũy
20 cm: trước khi thả giống, 2 tháng nuôi, sau 2
tháng nuôi định lượng bùn 20 cm thì diễn ra, và
thời gian trước thu hoạch.
Bảng 3. Ước tính khối lượng bùn sinh ra khi sản xuất 1 kg cá nuôi thương phẩm
Các chỉ số
Nguồn dữ liệu
Năng suất trung bình (kg/ha)
Diện tích ni (ha)
FCR trung bình (kg thức ăn/kg cá)
Trung bình khối lượng bùn thải (L/ha)
422.000
Kết quả điều tra bảng 1(n=30)
1
Qui mơ tính tốn
1,6
Kết quả điều tra (n=30)
8.333.000
Kết quả điều tra bảng 2
Số lượng bùn thải ra L/1 kg cá
19,7
Số lượng bùn thải ra L/1 kg thức ăn
12,3
22
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.3.Ước tính tốn cân chất thải trong ao nuôi cá tra thương phẩm
Ước tính cân bằng vật chất khơ (DM) trong ao:
Đầu vào
Đầu ra
Cá giống: 4,02 tấn (0,37%)
Nước sông: 493,4tấn (44,9%)
Cá tra thương
phẩm:
103,42 tấn (9,4%)
Thức ăn: 600,93 tấn (54,2%)
Nước thải: 190,49 tấn (17,3%)
Bùn siphon: 54,11 tấn (4,93%)
Sinh vật /khác: 750,3 tấn (68,36%)
Hình 1: Ước tính cân bằng vật chất khơ trong ao ni cá tra thương phẩm (1 ha, với năng suất
nuôi trung bình 422.000kg/ha và FCR = 1,6; độ sâu TB= 3m)
Vật chất khô DM đầu vào chủ yếu từ
nguồn thức ăn chiếm 54,2% và 44,9% từ
nước mang phù sa lắng tụ thơng qua q
trình thay nước. Cá hấp thụ rất thấp khoảng
9,4% phần cịn lại thải ra sơng khơng được
xử lý.
Ước tính cân bằng Nitrogen trong ao:
Đầu vào
Đầu ra
Cá giống: 0,26 tấn (0,8%)
Nước sông: 8,43 tấn (26%)
Cá tra thương
phẩm:
10,92 tấn (33,6%)
Thức ăn: 23,77 tấn (73,2%)
Nước thải: 12,49 tấn
(38,5%)
Bùn siphon: 0,38 tấn (1,17%)
Sinh vật /khác: 8,67tấn (26,7%)
Hình 2. Ước tính cân bằng nitrogen trong ao cá tra thương phẩm
Từ hình 2 cho thấy nitrogen đầu vào bao
gồm cá giống, nước sông và thức ăn chiếm
100% trong đó thức ăn chiếm đa phần 73,2%
và nước sông 26%. Phần lớn của đầu ra là nước
thải từ ao chiếm 38,5% và cá hấp thụ 33,6%.
TAÏP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
23
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Ước tính cân bằng phosphorus trong ao:
Đầu vào
Đầu ra
Cá giống: 0,05 tấn (0,48%)
Cá tra thương
phẩm:
Nước sông: 3,44 tấn (33,6%)
3,17 tấn (30,9%)
Thức ăn: 6,75 tấn (65,9%)
Nước thải: 3,12 tấn (30,5%)
Bùn siphon: 0,19 tấn (1,85%)
Sinh vật /khác: 3,76tấn (36,7%)
Hình 3. Ước tính cân bằng phosphorus trong ao nuôi cá tra thương phẩm
Tương tự như Nitrogen, phosphorus trong
ao cá tra nguồn đầu vào chiếm đa số bởi thức ăn
(65,9%) và từ nguồn nước sông trong quá trình
ni chiếm 33,6%. Trong khi đó cá chỉ hấp thu
được khoảng 30,9% còn lại phần lớn đầu ra bị
phân hủy và thải ra mơi trường chiếm 67,2%.
Ước tính cân bằng COD trong ao
Kết quả từ hình 4 cho thấy nguồn đầu vào sinh ra lượng COD chiếm chủ yếu từ nguồn thức ăn
chiếm 96% cịn lại từ nước sơng và cá giống. Cá chỉ hấp thụ 15,2 %, phần còn lại được thải ra môi
trường và vi sinh vật phân hủy.
Đầu vào
Đầu ra
Cá giống: 2,04 tấn (0,4%)
Nước sông: 21,86 tấn (3,6%)
Cá tra thương
phẩm:
92,04 tấn (15,2%)
Thức ăn: 581,0 tấn (96%)
Nước thải: 84,32 tấn (13,9%)
Bùn siphon: 14,74 tấn (2,4%)
Sinh vật /khác: 413,81tấn (68,4%)
Hình 4. Ước tính cân bằng COD trong ao ni cá tra thương phẩm
IV. THẢO LUẬN
4.1. Năng suất, tỷ lệ sống và kích cỡ cá
Năng suất cá tra ni thương phẩm trong
kết quả này khá tương đồng giữa các trang trại
nuôi của các tỉnh khác nhau dao động 430 -470
tấn/ha/vụ nuôi. Năng suất này thể hiện cao hơn
24
và ổn định hơn giữa các trang trại so với báo
cáo của Bosma và ctv (2008) và Lam và ctv
(2009) thực hiện 86 nông hộ từ quy mô sản
xuất nhỏ đến trang trại. Độ sâu trung bình của
ao ni là 3m. Năng suất tương đương 14,315,6 kg/m3 và tương đương 22,88 – 24,96 kg
thức ăn/m3/vụ tương đối cao so với các đối
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
tượng ni khác ở Việt Nam. So sánh với tôm
sú nuôi thâm canh, lượng thức ăn cung cấp
khoảng 2,06kg thức ăn/m3 (Nguyễn Văn Hảo
và ctv 2001). Kích cỡ giống cá tra thả ni
là một trong những yếu tố hàng đầu cho sự
thành công của ni thương phẩm. Nó quyết
định tính đồng đều và thời gian nuôi của cá
thương phẩm (De Silva và ctv, 2011). Thơng
thường những ao ni thương phẩm thả cá có
kích thước lớn nhằm rút ngắn thời gian nuôi
đồng nghĩa với vòng vay vốn ngắn và giảm rủi
ro trong sản xuất. Kích cỡ cá thu hoạch phụ
thuộc vào thị hiếu người tiêu dùng luôn luôn
biến động theo thị trường. Tỷ lệ sống của cá tra
nuôi thương phẩm dao động từ 71,7 – 74,1%
trong nghiên cứu này. Tỷ lệ sống thấp là do
cá chết ở giai đoạn đầu của chu kỳ nuôi (30
ngày). Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương
đồng với báo cáo của Phan Thanh Lâm và ctv
(2009). Nguyên nhân chết là do quá trình vận
chuyển đường dài và cá bị bệnh sau khi thả.
4.2. Loại thức ăn sử dụng
Trong nghiên cứu này cho thấy 100% trang
trại sử dụng thức ăn viên nổi chứa hàm lượng
protein thấp.Thành phần thức ăn được thay đổi
tùy theo giai đoạn phát triển của cá. Giai đoạn
đầu tiên của chu kỳ nuôi cá được sử dụng protein
cao (30%) sau đó giảm thấp 22%. Có nghĩa là
thức ăn cá chứa nhiều tinh bột, trong khi đó khả
năng hấp thụ tinh bột của cá tra thấp hơn so với
protein để xây dựng cơ thể (Glencross và ctv.,
2010), dẫn đến hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR =
1,6 -1,64) cao và gây ô nhiễm môi trường nước
nhiều hơn (Gross và ctv, 2000; Timmon và ctv
2002). Chắc chắn rằng cá thải ra môi trường
lượng COD cao bởi Cac-bon hữu cơ cao trong
thành phần thức ăn không được hấp thu xây
dựng cơ thể cá nuôi.
4.3. Hiệu quả sử dụng nước
Kết quả sử dụng nước trong nghiên cứu này
(bảng 2) cao hơn so sánh với kết quả nghiên cứu
của Phan Thanh Lam và ctv (2009) và Bosma
và ctv (2008), tính trên 1kg cá thương phẩm
cao hơn 1,64-3 lần tương ứng. So với ni lồi
cá khác, lượng nước sử dụng cao hơn ni tôm
biển gấp 3,7 lần (tôm sú sử dụng 2000m3/kg)
và thấp hơn với cá hồi nước ngọt nuôi trong ao
nước chảy ở Đan Mạch 1,5 lần (11.000 m3/1kg).
Theo ước tính của chúng tôi mỗi ha cá tra nuôi
thương phẩm tiêu tốn khoảng 3.122.800 m3/ha/
vụ kết quả này cao hơn rất nhiều so với nghiên
cứu của Bosma và cộng sự (2008). Nếu như tổng
diện tích ni cả ĐBSCL là 5.442 ha có nghĩa
tổng số lượng nước tiêu thụ khoảng 17 x 109
m3, tương đương với 0,15% tổng số lượng nước
sông Mekong chảy qua địa phận Việt Nam. Từ
kết quả này có thể khẳng định rằng công nghệ
nuôi cá tra hiện nay sử dụng lượng nước khá lớn
( > 3 triệu m3 nước/ha/vụ). Tất cả chất thải sinh
ra không được xử lý được thải ra sông là mối
nguy cho ô nhiễm môi trường.
4.4. Số lượng bùn sinh ra
Hệ số thức ăn cao và thức ăn protein thấp
cùng với sinh khối cá ni tính trên đơn vị
diện tích cá tra ni thương phẩm sinh ra một
lượng bùn lớn, ước tính trong nghiên cứu này
là 19,7 lít bùn/kg cá sản xuất hay cả vụ lượng
bùn tồn tại trong đáy ao 8.333 m3, ước tính tổng
số lượng bùn sinh ra từ 5.442 ha/vụ lượng bùn
thải ra sông một con số lớn (45,3 x 106 m3). Khi
so sánh tỷ lệ bùn/kg cá của ao nuôi cá tra cao
hơn cá trê ni trong hệ thống tuần hồn lọc
sinh học và protein 49% (7l/kg) (Nguyễn Nhứt
và ctv, 2011). Sự khác biệt này có thể do hàm
lượng phù sa từ nước sơng và sử dụng thức ăn
có protein thấp hơn tạo ra sự khác biệt trong
nghiên cứu. Khi đối chiếu kết quả của Anh và
ctv (2010) (21,5 lít bùn/kg thức ăn và 33,3 lít
bùn/kg cá) điều tra trên ao ni cá tra thì kết quả
nghiên cứu này thấp hơn. Với tổng số lượng bùn
sinh ra khá lớn, thế nhưng hầu hết các ao nuôi cá
tra thương phẩm hiện nay không có hệ thống ao
lắng, hay ao xử lý trước khi thải ra sông. Đây là
một vấn đề tác động ngược lên môi trường xung
quanh đáng kể về chất lượng nước sông, cũng
như lắng tụ kênh rạch gây hiện tượng bồi đắp do
hàm lượng DM.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
25