ƢỜ
Ƣ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆ
IH C
t i
ỘNG NGO I GIAO CỦ
ẢNG VÀ
ƢỚC TA PHỤC VỤ CÔNG CUỘC XÂY
DỰNG CHỦ
Ĩ XÃ ỘI Ở MIỀN BẮC (1961
- 1965)
HO
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Tuấn Vũ
Chuyên ngành
: ƣ phạm Lịch sử
Lớp
: 12SLS
gƣời hƣớng dẫn
: ThS. Nguyễn Mạnh Hồng
Nẵng, 05/2016
MỤC LỤC
MỞ ẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ..............................................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................3
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu............................................................3
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................3
7. Bố cục của đề tài .....................................................................................................3
NỘI DUNG ................................................................................................................4
ƢƠ
1: Á
NG VIỆT NAM CHUYỂ
N MỚI ....4
1.1. Tình hình thế giới và trong nƣớc sau năm 1954 .............................................4
1.1.1. Tình hình trong nước .......................................................................................4
1.1.2. Tình hình thế giới .............................................................................................6
1.2.
ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của ảng ............................................8
1.2.1. Vài nét về Đại hội đại biểu lần thứ III của Đảng .............................................8
1.2.2. Đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc ....................................................................................................................13
1.2.3. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ
nhất (1961 – 1965) ....................................................................................................19
ƢƠ
2:
ỘNG NGO I GIAO CỦ
PHỤC VỤ CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ
2.1.
Ả
V
ƢỚC TA
Ĩ XÃ ỘI Ở MIỀN BẮC ...25
ơ sở lí luận và thực tiễn của ngoại giao đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ..............................................................................................................25
2.1.1. Cơ sở lí luận ....................................................................................................25
2.1.1.1. Mác và Lênin bàn về ngoại giao ..................................................................25
2.1.1.2. Tư tưởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh .........................................27
2.1.1.3. Đường lối ngoại giao của Đảng Lao động Việt Nam ..................................30
2.1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................32
2.1.2.1. Ngoại giao trong lịch sử ...............................................................................32
1
2.1.2.2. Ngoại giao Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp ..................................39
2.2. Hoạt động ngoại giao của đảng và nhà nƣớc ta phục vụ công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc........................................................................46
2.2.1. Các hoạt động ngoại giao với Liên Xô, Trung Quốc và các nước chủ nghĩa xã
hội ............................................................................................................................46
2.2.1.1. Hoạt động ngoại giao với Liên Xô ...............................................................46
2.1.2. Quan hệ ngoại giao với Trung Quốc ...............................................................54
2.2.1.3. Hoạt động ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa ..................................62
2.2.2. Hoạt động ngoại giao với Lào và Campuchia .................................................68
2.2.2.1. Quan hệ ngoại giao với Lào .........................................................................68
2.2.2.2. Quan hệ ngoại giao với Campuchia .............................................................73
2.2.3. Hoạt động ngoại giao với các nước và tổ chức quốc tế trên thế giới ..............76
2.3. Bài học kinh nghiệm về hoạt động ngoại giao trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội .......................................................................................................79
KẾT LUẬN ..............................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................85
PHỤ LỤC
MỞ ẦU
1.
í do chọn đề tài
Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được
thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi
cả nước vẫn chưa hoàn thành. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai
chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc hồn tồn giải phóng, bước vào thời kỳ quá
độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, Mỹ thay chân Pháp xâm lược,
âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự.
Kháng chiến thắng lợi, miền Bắc hồn tồn giải phóng, bắt đầu đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội với muôn vàn khó khăn. Tình hình mới đặt ra những nhiệm
vụ rất nặng nề, phức tạp. Nhiệm vụ lúc này của miền Bắc là xây dựng chủ nghĩa xã
hội, khôi phục lại sản xuất và khắc phục hậu quả, hàn gắn vết thương chiến tranh,
cải tạo chủ nghĩa xã hội và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân lao động. Cùng với đó, miền Bắc cịn làm nhiệm vụ trở thành căn cứ địa
của cách mạng cả nước, thành hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Trong điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
cùng nhau vượt qua khó khăn, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa với những
thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,… trong đó có sự đóng góp
quan trọng của các hoạt động ngoại giao.
Tìm hiểu về hoạt động ngoại giao của Nhà nước ta phục vụ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc giúp chúng ta hiểu được một phần đóng góp của
ngoại giao trong quá trình đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Qua đó cũng cho
ta biết được những giúp đỡ vô cùng lớn lao về vật chất và tinh thần của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em, các nước u chuộng hịa bình trên thế giới đối với công
cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, đồng thời cũng mong muốn rằng qua quá trình
nghiên cứu sẽ nâng cao một vài kĩ năng học tập cho bản thân, tôi chọn đề tài: “Hoạt
1
động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc (1961-1965)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.
ịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến đề tài có một số tác phẩm và cơng trình nghiên cứu sau đây:
“Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam” của Lưu Văn Lợi (Nhà xuất
bản Công an nhân dân 1998), đã đề cập đến vấn đề ngoại giao giữa Việt Nam với
các nước xã hội chủ nghĩa và hai nước láng giềng là Lào và Campuchia và ngoại
giao với một số nước trên thế giới.
“Ngoại giao Việt Nam 1945-2000” của Nguyễn Dy Niên (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia 2002); Đã đề cập đến các hoạt động ngoại giao của Đảng và nhà
nước ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
“Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)”, tập 1 (Nhà
xuất bản Sự thật 1990). Viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Cuốn sách cũng giành một nội dung nói về ngoại giao
Việt Nam.
Ngồi ra, cịn một số bài báo như: “Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ kháng
chiến cứu nước (1954-1975)” của Khắc Huỳnh (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số
4/2005); “Nhìn lại quan hệ Xơ-Việt thời kỳ 1945-1975” của Nguyễn Ngọc Mão, Vũ
Thị Hồng Chuyên (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3/1925) .
Những cơng trình trên đã đề cập đến đường lối ngoại giao của Đảng ở những
khía cạnh khác nhau, song chưa có một cơng trình nào nghiên cứu đầy đủ về hoạt
động ngoại giao của Đảng phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc giai đoạn 1961 – 1965. Mặc dù vậy, đây là nguồn tư liệu cần thiết giúp chúng
tơi trong q trình thực hiện đề tài.
3.
ục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tơi khi thực hiện nghiên cứu đề tài này là làm rõ chủ
trương, chính sách và các hoạt động ngoại giao của Đảng Lao động Việt Nam phục
vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1961-1965)
2
4.
ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tồn bộ các khía cạnh liên quan đến hoạt
động ngoại giao của Đảng Lao động Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc
Phạm vi nghiên cứu của đề tài từ năm 1961 đến năm 1965
5.
guồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu:
Để hồn thành khóa luận, chúng tơi đã dựa vào các nguồn tài liệu:
Các Văn kiện Đảng giai đoạn 1961-1965: Các tác phẩm của Hồ Chí Minh,
tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước có liên quan đến hoạt động
ngoại giao của Đảng giai đoạn này; Các cơng trình nghiên cứu của các học giả trong
và ngoài nước, bao gồm các sách đã xuất bản, các bài đăng trên tạp chí nói về hoạt
động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn 1961 – 1965.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi đứng vững trên quan điểm của của chủ
nghĩa Mác – Lênin, của Đảng để xem xét đánh giá vấn đề. Chúng tôi cũng sử dụng
các phương pháp có tính ngun tắc như: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic.
6.
óng góp của đề tài
Thực hiện đề tài này, mong muốn của tơi là tìm hiểu một cách sâu sắc, hệ
thống hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta phục vụ cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc giai đoạn 1961 – 1965, qua đó hiểu rõ hơn những
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của các dân tộc u chuộng hịa
bình trên thế giới đối với Việt Nam.
Kết quả của đề tài là tư liệu phục vụ cho quá trình giảng dạy sau này của bản
thân, là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung đề tài gồm 2 chương.
Chương 1: Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới
Chương 2: Hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta phục vụ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
3
NỘI DUNG
ƢƠ
1: CÁCH M NG VIỆT NAM CHUYỂN SANG
N MỚI
1.1.
ình hình thế giới và trong nƣớc sau năm 1954
1.1.1. Tình hình trong nước
Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) về Đơng Dương được kí kết đã chấm dứt
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với 3 nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân 3 nước Đơng Dương nói
chung và Việt Nam nói riêng sau 9 năm kháng chiến gian khổ. Ngoài việc thủ tiêu
ách thống trị của thực dân Pháp gần 1 thế kỷ trên đất nước ta, thắng lợi này còn là
một đòn mạnh đánh vào âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh Đông Dương của
đế quốc Mỹ.
Theo Hiệp định Giơnevơ, việc ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển
giao khu vực được thi hành trong vòng 300 ngày, kể từ ngày 21/7/1954. Tuy nhiên,
ngay từ những ngày đầu, đế quốc Mỹ, bọn phản động Pháp và chính quyền tay sai
Ngơ Đình Diệm đã tìm mọi cách gây khó khăn và phá hoại việc thi hành các điều
khoản của Hiệp định Giơnevơ, như cố tình khiêu khích, trì hỗn việc ngừng bắn
trên các chiến trường; tiến hành dụ dỗ và cưỡng bức gần 1 triệu đồng bào miền Bắc,
chủ yếu là đồng bào Thiên Chúa giáo, di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi hoặc phá
hoại máy móc, dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt và gây khó khăn cho ta
trong việc tiếp quản vùng giải phóng ở miền Bắc; cài lại hàng ngàn gián điệp, hàng
trăm nhóm phản động cùng với các tốn biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại
các cơ sở kinh tế, các cơng trình cơng cộng. Các phần tử tay sai, các đảng phái phản
động lén lút kích động quần chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương, tung truyền
đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà nhằm lung lạc quần chúng, gây hoang mang, dao động trong nhân dân.
Về phía Việt Nam, với chủ trương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định
Giơnevơ, ngày 22/7/1954, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh
cho các lực lượng vũ trang ngừng bắn trên chiến trường toàn quốc (Bắc Bộ ngày
4
27/7; Trung Bộ ngày 1/8; Nam Bộ ngày 11/8/1954); mặt khác, Chính phủ và nhân
dân ta kiên quyết đấu tranh đòi đối phương cũng phải nghiêm túc thi hành Hiệp
định. Kết quả, các điều khoản về việc ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển
giao khu vực đã được thực hiện đúng quy định. Ngày 10/10/1954, quân ta tiếp quản
Thủ đơ Hà Nội trong sự đón chào nồng nhiệt của nhân dân thành phố. Ngày
1/1/1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, một cuộc mít tinh trọng thể được tổ
chức để chào mừng, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về
Thủ đơ với sự tham gia của hàng chục vạn nhân dân thành phố. Sự kiện lịch sử này
đã gây ấn tượng sâu sắc và có ý nghĩa chính trị to lớn đối với đồng bào cả nước.
Ngày 13/5/1955, tên lính viễn chinh cuối cùng của quân đội thực dân Pháp
đã rút khỏi Hải Phòng và đến ngày 16/5/1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà. Miền Bắc
Việt Nam đã sạch bóng quân xâm lược.
Ở miền Nam Việt Nam, theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, thực dân
Pháp tạm thời nắm quyền kiểm soát trong 2 năm. Suốt thời gian này, thực dân Pháp
luôn gây cản trở và phá hoại các điều khoản của Hiệp định. Tuy nhiên, một mặt do
sự đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta, mặt khác do âm mưu của Mỹ muốn gạt
Pháp để độc chiếm miền Nam, nên quân đội Pháp đã từng bước rút khỏi miền Nam
Việt Nam. Ngày 14/4/1956, Chính phủ Pháp gửi Thơng điệp cho 2 Chủ tịch Hội
nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương thông báo về việc quân viễn chinh Pháp ở miền
Nam Việt Nam đã rút hết về nước.
Quân đội Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam trong khi còn những điều khoản
của Hiệp định liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành, trong đó có
điều khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Nam – Bắc. Tập
đoàn Mỹ – Diệm, kẻ kế tục thực dân Pháp ở miền Nam, sẵn có âm mưu từ trước đã
trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ.
Miền Nam từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, giờ đây
phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, toàn bộ hoạt động của cách
mạng phải chuyển sang phương thức vừa hợp pháp, vừa không hợp pháp, vừa cơng
khai, vừa bí mật. Đó là một sự đảo lộn lớn, một tình thế nguy hiểm đối với cách
mạng ở miền Nam. Sự thay đổi đó tác động mạnh đến tâm tư, tình cảm đồng bào,
5
đồng chí hai miền Nam – Bắc và đặt ra cho cách mạng Việt Nam những nhiệm vụ
mới vô cùng khó khăn.
1.1.2. Tình hình thế giới
Bối cảnh quốc tế bao trùm vẫn là chiến tranh lạnh. Tuy có hịa hỗn bộ phận
nhưng đấu tranh vẫn là chủ yếu, so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho các lực lượng
cách mạng, hịa bình. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng lớn mạnh về
mọi mặt. Thắng lợi của cách mạng Cuba năm 1959 đã mở rộng hệ thống xã hội chủ
nghĩa sang Tây bán cầu, ngay sân sau của Mỹ. Về kinh tế sản lượng công nghiệp
các nước xã hội chủ nghĩa tăng trưởng mạnh, từ chỗ chỉ chiếm 20% sản lượng công
nghiệp thế giới năm 1950 đã tăng lên 34% năm 1960. Lực lượng quốc phòng ngày
càng hùng hậu. Việc Liên Xơ phóng thành cơng tên lửa vượt đại châu và vệ tinh
nhân tạo đầu tiên của trái đất tháng 10/1957 đã tạo ra khả năng đánh trả vào nước
Mỹ, đưa đến cuộc “khủng hoảng Xuputnich”, mở đầu một giai đoạn cân bằng vũ
khí chiến lược có lợi cho Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa cũng như xu thế độc lập
dân tộc, hịa bình, dân chủ thế giới.
Thời kỳ này, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang có bước phát triển lớn
mạnh. Liên Xơ đã hồn thành kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1950 - 1955). Trung
Quốc, với sự giúp đỡ của Liên Xô, đang thực hiện tốt kế hoạch xây dựng đất nước
lần thứ nhất (1952 - 1957).
Tuy vậy, vào cuối thời kỳ này, khối đoàn kết của hệ thống xã hội chủ nghĩa
bắt đầu rạn nứt, mâu thuẫn Trung – Xô nảy sinh nhưng chưa bộc lộ công khai.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế xuất hiện khủng hoảng về đường lối. Hội
nghị các đảng cộng sản và công nhân quốc tế họp năm 1957 ở Mátxơcơva đã cố
gắng nêu ra một số kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kêu gọi sự đoàn kết trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng đã không thể giải quyết những bất
đồng sâu sắc giữa các đảng và trong phong trào. Điều đó ít nhiều tác động đến
phong trào giải phóng dân tộc và xu thế đấu tranh cho hịa bình, dân chủ, dân sinh
và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam mở đầu sự sụp đổ
của chế độ thực dân cũ. Phong trào giải phóng dân tộc ở hai lục địa Á – Phi phát
6
triển mạnh mẽ: nhân dân Angiêri kháng chiến chống Pháp từ năm 1956; Ai Cập
đánh bại cuộc xâm lược của Anh – Pháp – Ixraen trong vụ quốc hữu hóa kênh đào
Xuyê (1956); nhiều nước châu Phi lần lượt giành được độc lập như: Tuynidi,
Marốc, v.v…
Phần lớn các quốc gia Á – Phi sau khi thoát khỏi ách thống trị thực dân, đã đi
theo con đường độc lập, hịa bình, trung lập. chống việc tham gia liên minh quân sự,
chính trị song phương hoặc đa phương với các đế quốc phương Tây để giữ gìn nền
độc lập của mình. Hội nghị cấp cao Á – Phi được triệu tập ở Băngđung (Inđônêxia)
tháng 4/1955 đánh dấu bước mở đầu một xu hướng phát triển tích cực của quan hệ
quốc tế, tạo ra cục diện mới ở Á – Phi – Mỹ Latinh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ và mới.
Tháng 7/1956, Thủ tướng Ấn Độ Nêru, Tổng thống Ai Cập Nátxe và Chủ
tịch Nam Tư Titô gặp mặt ở Briôni (Nam Tư) bàn về khả năng triệu tập một hội
nghị quốc tế rộng rãi chống lại sự lôi kéo, áp đặt của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân cũ và mới, đưa họ vào tình thế phụ thuộc mới, duy trì chính sách trung lập
tích cực.
Năm 1960, tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, ba vị đứng đầu nhà nước nói
trên đã có cuộc gặp gỡ với Tổng thống Inđônêxia Xucácnô và Tổng thống Gana En
Cruma. Các nhà lãnh đạo trên đã đi đến thỏa thuận sớm triệu tập hội nghị các nước
đứng ngoài các khối vào năm sau. Xu hướng quan hệ quốc tế hòa bình, trung lập,
tích cực – khơng liên kết ra đời, tập hợp ngày càng rộng rãi các nước đang đấu tranh
vì độc lập dân tộc và những mục tiêu cao đẹp của thời đại.
Mặc dù các nước Tây Âu và Nhật Bản dựa vào sự giúp đỡ của Mỹ để phục
hồi kinh tế, nhưng bắt đầu chống lại sự khống chế của Mỹ. Những nhân tố tạm thời
buộc Pháp, Anh lệ thuộc vào Mỹ nhưng khơng cịn tác dụng. Ngược lại, Pháp, Anh
dần bị Mỹ gạt dần ra khỏi Đông Dương, Đơng Nam Á và Trung Cận Đơng,v.v…
Do đó, một số nước Tây Âu, trước hết là Pháp có xu hướng độc lập với Mỹ, nhất là
sau khi Đờ Gôn trở lại cầm quyền (1958). Mâu thuẫn lợi ích giữa Mỹ với Tây Âu và
Nhật Bản ngày càng tăng với nhiều hình thức.
7
Thời kì này, tuy gặp khó khăn về kinh tế nhưng các nước phương Tây do Mỹ
khống chế đã hoàn thành các liên minh quân sự. Mỹ đã gạt được sự ảnh hưởng của
Anh, Pháp ở nhiều địa bàn chiến lược trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á – Thái Bình
Dương. Ngày 1/9/1954, Mỹ lơi kéo Ơxtrâylia, Niu Dilân lập Khối quân sự Nam
Thái Bình Dương (ANZUS). Ngày 8/9/1954 khối quân sự SEATO được thành lập,
Đông Nam Á trở thành khu vực chiến lược trong việc tranh chấp thuộc địa giữa Mỹ
với Đồng minh phương Tây. Với Việt Nam, Mỹ khẳng định quyết tâm can thiệp
vào Việt Nam. Theo thuyết đôminô, Tổng thống Mỹ Aixenhao cho rằng nếu mất
Đơng Dương thì sẽ mất cả Đơng Nam Á.
Song về mặt chiến lược, Mỹ đang gặp rất nhiều khó khăn trong nước và trên
thế giới. Nền kinh tế Mỹ đang ở thời kì tăng trưởng chậm. Mỹ đã mất ưu thế hạt
nhân và vũ khí chiến lược, phải đối phó với nhiều thách thức cả bên trong và bên
ngoài. Lực lượng so sánh giữa Mỹ và các nước lớn trong đồng minh phương Tây
cũng bắt đầu thay đổi bất lợi cho Mỹ. Chiến lược “trả đũa ồ ạt”, “ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản” và chính sách đối ngoại “bên miệng hố chiến tranh” của Aixenhao
bị phá sản. Mỹ buộc phải đi vào hịa hỗn tạm thời với Liên Xơ và Trung Quốc và
điều chỉnh chiến lược cho phù hợp với tình hình và khả năng thực tế, sàng lọc và
chọn địa bàn để phát huy sức mạnh của Mỹ đúng chỗ nhằm thực hiện mục tiêu làm
bá chủ thế giới.
1.2.
ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của ảng
1.2.1. V i nét v
ại hội đại biểu lần thứ III của ảng
Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những bước
tiến quan trọng. Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ
nghĩa với các thành phần kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ở miền
Nam, cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến
lược trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960), làm lung lay chế độ ngụy quyền
Sài Gòn. Phong trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền
Nam, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến cơng. Trong
thời điểm này, tình hình thế giới cũng có nhiều thay đổi, vừa là thuận lợi, vừa là
thách thức cho cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa,
8
nhất là của Liên Xơ và Trung Quốc đã có nhiều ảnh hưởng tích cực đến cách mạng
Việt Nam. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và
Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ. Đó là thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam ở
cả hai miền. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong phong trào cộng sản mà tâm điểm là
quan hệ Liên Xô - Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế và cũng ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam.
Sự phát triển của cách mạng hai miền Bắc - Nam địi hỏi Đảng phải nhanh chóng
hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành động, định
hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền. Mặt khác, đã
gần 10 năm kể từ khi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951),
cách mạng Việt Nam đã có nhiều thay đổi, thế và lực của đất nước đã phát triển,
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho cả dân tộc ta trên con đường cách
mạng gải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cùng với sự thách thức
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân
tộc Việt Nam đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề thực tiễn phức tạp đặt ra yêu cầu
cấp thiết Đảng phải sớm khẳng định những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách
mạng ở hai miền đất nước. Lần đầu tiên sau 30 năm hoạt động trong điều kiện bí
mật và chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã được tiến
hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Tham dự Đại hội có
525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết hay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên
trong cả nước đến tham dự Đại hội cịn có đại biểu các đoàn thể và các đảng phái
dân chủ trong nước và đại biểu của 16 đoàn quốc tế.
Nội dung Đại hội:
Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đại hội
lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hồ bình
thống nhất nước nhà".
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do
đồng chí Lê Duẩn trình bày, thảo luận và thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và
đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Nhiệm vụ và phương hướng của
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).
9
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết do
Đại hội thông qua về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới gồm
những vấn để lớn sau:
- Về đường lối cách mạng chung trong cả nước:
Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đã xác định cách mạng
Việt Nam bước vào giai đoạn mới cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng
khác nhau: chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lược đó có mối quan hệ mật
thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chiến lược cách mạng ở mỗi
miền của đất nước có vị trí và trách nhiệm riêng trong mục tiêu chung là hịa bình
thống nhất Tổ quốc.
Miền Bắc sau khi hồn tồn giải phóng đă trở thành căn cứ địa cách mạng
chung của cả nước. Tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng cường
về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. bảo
đảm sự phát triển của cách mạng trong cả nước. Vì vậy, "cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta".
Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện thống nhất nước nhà, cách mạng miền Nam "có tác dụng quyết định trực
tiếp đối vời sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai".
Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách
mạng ở hai miền đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn
giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu
chung trước mắt là hịa bình thống nhất Tổ quốc.
Từ những nhiệm vụ trên đây, Đại hội vạch ra nhiệm vụ chung của cách mạng
Việt Nam trong thời ký mới là: ''Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu
tranh giữ vững hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng
thời đẩy mạnh cách mạng dân lộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống
nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa
10
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới".
-
Về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh. Đại hội đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền Nam là
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến,
đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành
lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam. thực hiện độc lập dân
tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hịa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân dân chủ, tích cực góp phần
bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
Cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ
thiêng liêng của nhân dân cả nước. Đó là q trình đấu tranh cách mạng gay go,
gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền
Nam.
-
Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo
luận tại Đại hội. Xuất phát từ các đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn
nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định: cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt,
là một quá trình đấu tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư
bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hố và kỹ thuật.
Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Báo cáo chính trị khẳng định: “Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội. xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng
cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống
11
nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa bảo vệ hịa bình ở Đơng
Nam Á và thế giới”.
Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải
tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ cơ bản, trong đó, cải cạo nơng
nghiệp là khâu chính của tồn bộ công cuộc cải tạo nhằm tăng năng suất lao động,
phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ nhằm xâydựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội "Thực
hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là xây dựng một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp
và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có cơng nghiệp hiện đại
và nông nghiệp hiện đại".
Cùng với việc phát triển kinh tế, Nghị quyết Đại hội còn đề cập đến việc phát
triển văn hóa, giáo dục, khoa học- kỹ thuật: xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân:
tăng cường đoàn kết quốc tế, vấn đề Đảng và công tác tổ chức cán bộ của Đảng.
Căn cứ vào đường lối chung trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, Đại hội đã thảo luận và thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm mục tiêu: "phấn đấu để thực hiện một
bước cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho
kinh tế miến Bắc nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa".
Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội đề ra năm nhiệm vụ:
Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp tồn diện.
Hồn thành cơng cuộc cảicách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh.
12
Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, xúc tiến công tác khoa học
và kỹ thuật.
Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao
động.
Đi đôi với kết hợp phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng
cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định rằng, sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách
mạng, cho nên Đảng cần phải tăng cường sự lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đối với cuộc đấu tranh nhằm hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Muốn thế, "phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là
phải tăng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phải củng cố
sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng".
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa III gồm có 47 ủy viên chính
thức và 31 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên
dự khuyết. Ban Bí thư gồm có 7 đồng chí. Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch
Đảng. Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đánh dấu một bước phát triển
mới của cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Đại hội đã đề ra được đường lối tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Nghị quyết của Đại hội là nguồn ánh sáng mới, là cơ sở để toàn Đảng và
toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và hồn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hồ
bình, thống nhất nước nhà.
1.2.2.
ường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội v cơng nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa ở mi n Bắc
Trung thành với cương lĩnh chính trị đã vạch ra từ năm 1930, sau khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc lên
chủ nghĩa xã hội, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc
13
và làm hậu phương vững chắc cho việc tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ
ở miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hồn cảnh đặc biệt, có cả thuận
lợi và khó khăn:
Thứ nhất, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Ở miền Nam, đế quốc
Mỹ và tay sai mở cuộc chiến tranh thực dân mới kéo dài suốt 20 năm, với phạm vi
ngày càng mở rộng, quy mô ngày càng leo thang. Trong thời kỳ này, miền Bắc phải
đương đầu với hai cuộc chiến tranh phá hoại có tính huỷ diệt bằng khơng qn và
hải quân của đế quốc Mỹ, hòng ngăn chặn cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân
ta ở miền Nam. Vì vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải trải qua ba lần
khôi phục kinh tế, vừa phải bảo đảm đời sống nhân dân và chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại, vừa phải làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn miền Nam. Đặc điểm này chi phối trực tiếp đến đường lối và chính sách trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Thứ hai, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong cả nước đã nhận được sự giúp đỡ hết sức to lớn
về mọi mặt của các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, từ những năm 60 thế kỷ XX,
trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cũng xảy ra những chia rẽ sâu sắc, nhất là
giữa Liên Xơ và Trung Quốc, địi hỏi Đảng ta phải có đường lối sáng tạo, độc lập tự
chủ, bảo đảm vừa tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần
đấu tranh vì sự thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vừa giữ vững
được độc lập, tự chủ trong tiến trình cách mạng.
Thứ ba, xuất phát điểm đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta rất thấp
- từ một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc
hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong khi đó, mơ hình chủ nghĩa xã hội mà
Liên Xơ và các nước Đơng Âu áp dụng có điều kiện, hồn cảnh, xuất phát điểm
khơng giống nước ta. Vì vậy, việc xác định mơ hình, bước đi phải có thời gian để
tìm tòi, khảo nghiệm. Đây cũng là đặc điểm lớn chi phối đến đường lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
14
Trong bối cảnh như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
(1954-1975) đã trải qua nhiều thời kỳ, với các bước đi, kế hoạch dài hạn và ngắn
hạn khác nhau.
Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành về cơ bản
những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ (1954-1957)
Sau chín năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, miền Bắc bị chiến tranh tàn
phá nặng nề: 14 vạn hécta ruộng đất hoang hố; các cơng trình thuỷ lợi lớn và vừa
đều bị phá hỏng; đê điều không được củng cố; trâu bị, cơng cụ sản xuất bị cướp
phá; thiên tai liên tiếp làm mất mùa, gây đói kém kéo dài từ vụ mùa năm 1954 đến
giữa năm 1955; công nghiệp đình đốn; giao thơng hư hại nặng; bn bán sút kém;...
Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã chỉ rõ: công việc
trước mắt là ổn định đời sống nhân dân, chống chính sách cưỡng ép di cư vào Nam
của địch, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi nền kinh tế quốc dân. Trong
đó, phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp là vấn đề trọng tâm. Đây là chủ
trương đúng đắn của Đảng, có ý nghĩa lớn đối với việc cải thiện đời sống nhân dân,
tạo tiền đề cho công cuộc cải tạo nơng nghiệp và xây dựng mơ hình quản lý nơng
nghiệp phù hợp với tình hình đất nước.
Việc khơi phục kinh tế nơng nghiệp có liên quan mật thiết với việc giải quyết
vấn đề ruộng đất nhằm giải phóng lực lượng sản xuất của hàng triệu nông dân, thực
hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng" đã được nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa II (51955) nêu rõ chủ trương: để củng cố miền Bắc, trước hết cần phải hoàn thành cải
cách ruộng đất và coi đây là chính sách bất di bất dịch. Để đảm bảo cho công cuộc
cải cách ruộng đất giành được thắng lợi, Đảng xác định rõ phương pháp tiến hành
là: dựa hẳn vào bần cố nơng, đồn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú
nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tiêu diệt chế độ phong kiến từng bước. Hội nghị lần
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: cải cách ruộng đất quan hệ
đến củng cố miền Bắc, chẳng những đưa lại quyền làm chủ ruộng đất cho nơng dân,
mà cịn tạo điều kiện cho cơng cuộc khơi phục và phát triển sản xuất, củng cố quốc
phịng, củng cố cơ sở của Đảng và chính quyền ở nông thôn, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất.
15
Tháng 12-1955, cải cách ruộng đất đợt 5 được triển khai ở 1.732 xã, với 6
triệu dân trong 20 tỉnh và 2 thành phố. Toàn đợt cải cách ruộng đất và giảm tô (từ
tháng 9-1954 đến tháng 7-1956) đã đạt được kết quả như sau:
Tiến hành 8 đợt giảm tô ở 1.777 xã với 1.106.995 ha ruộng đất; 5 đợt cải
cách ruộng đất ở 3.653 xã trên toàn vùng đồng bằng, trung du và 280 xã miền núi
với 2.435.518 nhân khẩu, can thiệp vào 1,5 triệu hécta; đã tịch thu, trưng thu, trưng
mua: 810.000 ha ruộng đất chia cho 2,2 triệu hộ nông dân gồm 9,5 triệu người
(72,8% số hộ ở nơng thơn được chia ruộng đất).
Hồn thành việc xố bỏ giai cấp địa chủ và quan hệ sản xuất phong kiến ở
miền Bắc; nâng cao quyền làm chủ cho nơng dân ở nơng thơn, giải phóng một bước
sức sản xuất trong nơng nghiệp, nơng thơn.
Cùng với việc hồn thành cải cách ruộng đất, Nhà nước đã ban hành các
chính sách kinh tế quan trọng, như: khuyến khích phát triển kinh tế hộ nông dân;
bảo đảm quyền sử dụng ruộng đất của nông dân; bảo vệ tài sản của các tầng lớp
nhân dân; cho tự do vay mượn và thuê mướn nhân cơng; khuyến khích các hình
thức đổi cơng; sửa đổi chính sách thuế, nhằm giảm bớt sự đóng góp của nơng dân,
v.v.. Những biện pháp đó đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế miền
Bắc, góp phần hồn thành cơng cuộc khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh.
Các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh. Tổng số học sinh phổ
thông lên tới trên 1 triệu. Số học sinh trung học chuyên nghiệp là 7.783 người. Số
sinh viên đại học lên tới 3.664 người, gấp hơn 6 lần số sinh viên thời kỳ chiến tranh,
gần 2.000 học sinh được gửi đi học tại các nước xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, phát huy tốt vai trò
là nhân tố quyết định bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công
cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Chính quyền cách mạng
đập tan mọi hành động chống phá của bọn phản động đội lốt tôn giáo (Quỳnh Lưu,
Nghệ An), các vụ xúi giục dân tộc thiểu số ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, đặc
biệt là nhóm "Nhân văn giai phẩm" (1956).
Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá
16
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) tháng 11-1958
đã xác định: Nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức củng cố miền
Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời kiên quyết đấu tranh
chống Mỹ - Diệm nhằm thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
chủ.
Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư
bản tư doanh; đồng thời ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, làm cho
thành phần kinh tế này giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (4-1959) đã
xác định những vấn đề cơ bản của đường lối, chính sách hợp tác hố nơng nghiệp.
Hội nghị khẳng định chỉ có đi vào con đường hợp tác hoá, làm ăn tập thể mới khắc
phục được những khó khăn trong sản xuất, cải thiện đời sống. Phương châm tiến
hành hợp tác hố là: "tích cực lãnh đạo, vững bước tiến lên; quy hoạch về mọi mặt,
sát với từng vùng; làm tốt, vững và gọn". Hình thức, bước đi, tốc độ của quá trình
cải tạo xã hội chủ nghĩa phải phù hợp, từ thấp lên cao, tập dượt cho nông dân và thợ
thủ công quen dần với cung cách làm ăn tập thể, từ tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp,
tiến lên hợp tác xã bậc cao. Quy mô cũng phải từ nhỏ lên lớn. Việc đẩy mạnh cải
tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới phải tuân thủ nguyên tắc
"tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ".
Thực hiện chủ trương của Đảng, phong trào hợp tác hoá được đẩy mạnh từ
cuối năm 1958 và nhanh chóng trở thành cao trào. Đến cuối năm 1960 miền Bắc về
cơ bản đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nơng nghiệp, có 41.401 hợp tác
xã (chủ yếu là hợp tác xã bậc thấp) với 85% số hộ nông dân tham gia, chiếm 76%
ruộng đất của nông dân. Phong trào hợp tác hố nhanh chóng hồn thành là do
nhiều nhân tố: sự quyết tâm của Đảng và chính quyền các cấp; khí thế cách mạng và
khát vọng của nơng dân muốn sớm thốt khỏi cuộc sống đói nghèo và niềm tin
tuyệt đối vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phong trào hợp tác hố nơng
nghiệp thời gian này đã có tác dụng tích cực trong việc đẩy mạnh sản xuất, đưa mức
tăng trưởng bình quân của sản xuất nơng nghiệp đạt 5,6%, đời sống vật chất và văn
hố của nhân dân miền Bắc được cải thiện một bước.
17
Bên cạnh những thành cơng nổi bật đó, q trình tiến hành hợp tác hố nơng
nghiệp bộc lộ một số thiếu sót. Nhiều địa phương chạy theo thành tích, gị ép, áp đặt
theo kiểu hành chính mệnh lệnh, cưỡng bức tập thể hoá tư liệu sản xuất, vi phạm
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, vi phạm nguyên tắc của Đảng về hợp
tác hoá. Các hợp tác xã mới thiết lập gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong tổ chức
lao động, sản xuất, quản lý và phân phối. Tham ơ, lãng phí dần xuất hiện.
Ngun nhân cơ bản của tình trạng này là do bệnh chủ quan, nóng vội trong
q trình hợp tác hố; đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá; chưa chuẩn bị được
những điều kiện cần thiết cho hợp tác xã tồn tại và phát triển. Đặc biệt là cơ sở vật
chất - kỹ thuật cịn nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất hàng hố còn yếu kém; cán bộ quản
lý vừa yếu lại vừa thiếu, chưa được đào tạo; quần chúng chưa được chuẩn bị tốt về
tư tưởng, v.v…
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thợ thủ công và những người buôn bán
nhỏ: đến cuối năm 1960 đã có 88% thợ thủ công miền Bắc gia nhập các hợp tác xã
tiểu thủ công nghiệp bậc thấp và bậc cao; 45% người buôn bán nhỏ được tổ chức
vào hợp tác xã mua bán, gần 5 vạn người được chuyển sang sản xuất. Sau hợp tác
hố, thủ cơng nghiệp dần dần kết hợp với công nghiệp quốc doanh địa phương, phát
huy tác dụng hỗ trợ cho công nghiệp quốc doanh trung ương phục vụ sản xuất, đời
sống nhân dân và xuất khẩu. Khuyết điểm của công tác cải tạo thợ thủ công và
người buôn bán nhỏ là tư tưởng nóng vội, mệnh lệnh, gị ép, khơng tính đến u cầu
xã hội và hiệu quả thực tế. Vì những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của các hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp và mua bán chưa hình thành nên khơng ít hợp tác xã làm
ăn thua lỗ, thậm chí tan rã.
Việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh được tiến hành bằng
phương pháp hồ bình với phương châm: tốt, vững, gọn. Đảng chủ trương chuộc lại
những tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản theo phương thức "trả dần", đồng thời sắp
xếp công ăn việc làm hợp lý cho các nhà tư sản và gia đình họ. Chính sách này về
cơ bản được giai cấp tư sản hưởng ứng. Đến tháng 11-1960, đã cải tạo được 2.097
cơ sở thương nghiệp tư bản tư doanh với tổng số vốn là 25 triệu đồng. Song, việc
sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần và "trong sản xuất kinh doanh không áp
18
dụng những quy luật của sản xuất hàng hoá, đã tác động tiêu cực khơng ít đến đời
sống kinh tế, hạn chế việc phát triển lực lượng sản xuất.” [41; tr29]
Cùng với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước tăng cường đầu tư
xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1958 đến
năm 1960, đã xây dựng 130 cơng trình cơng nghiệp trên hạn ngạch như: khu gang
thép Thái Nguyên, nhà máy Súppe phốt phát Lâm Thao... với tổng số vốn là 3.481
triệu đồng và đã đưa được 86 nhà máy, xí nghiệp vào sản xuất. Nếu như năm 1957,
miền Bắc mới có 97 xí nghiệp thì đến năm 1960 đã có 172 xí nghiệp do trung ương
quản lý và trên 500 xí nghiệp do địa phương quản lý. Công nghiệp quốc doanh tăng
từ 10,8% năm 1955 lên 52,4% năm 1960 trong tổng sản lượng công nghiệp.
Những thành quả kinh tế tạo thêm điều kiện cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục,
y tế phát triển. Hệ thống giáo dục phổ thông phát triển mạnh, số học sinh năm 1960
tăng 80 lần so với năm 1957. Cơ sở y tế năm 1960 tăng hơn 11 lần so với năm
1955. Đời sống văn hố, trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân được nâng lên
rõ rệt.
1.2.3. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch nh nước 5 năm lần thứ
nhất (1961 – 1965)
Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng được tiến hành tại Hà Nội. Đại hội đã thảo luận và thông qua đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đại hội xác định đặc điểm chi phối toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc là đất nước ta còn tạm thời bị chia làm hai miền. Vì vậy, sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước hết phải nhằm mục tiêu biến miền Bắc
thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước, hậu thuẫn cho sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Nhận thức rõ xuất phát điểm thấp của miền
Bắc, Đại hội xác định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của miền Bắc là một q
trình cải biến về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường: xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa - trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hố. Trong đó, trọng tâm là đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu
dựa trên chế độ sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ
19
nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể, từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về
kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản
xuất. Hai mặt này có quan hệ tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển,
trong đó cải tạo xã hội chủ nghĩa cần đi trước một bước để mở đường.
Đại hội đã xác định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta thì
khơng có con đường nào khác ngồi con đường cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa.
Cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội.
Đồng thời với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, nhằm thay đổi
căn bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hoá của xã hội, phù hợp với chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Phương châm lúc này là đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc” lên chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ở miền
Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà.
Trên cơ sở đường lối chung, Đại hội lần thứ III đã vạch ra phương hướng,
nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Phương hướng của kế
hoạch 5 năm là "chúng ta cần phải chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm
trọng tâm, thực hiện một bước cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước
đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã
hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa." [8; tr.835-836]. Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm là:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng; đồng thời ra sức phát triển nơng nghiệp một cách tồn diện, phát
triển công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tăng
cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
20
- Hồn thành cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, tăng
cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ văn hố của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân
lao động, tăng cường đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề; xúc tiến công tác khoa
học kỹ thuật, xúc tiến thăm dò tài nguyên thiên nhiên và tiến hành điều tra cơ bản,
nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hoá xã hội chủ nghĩa.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao
động, làm cho nhân dân ta được ấm no, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được
học tập, mở mang thêm phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và
thành thị.
- Đi đôi và kết hợp với phát triển kinh tế cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng
cường an ninh trật tự, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá III gồm 48 uỷ viên chính thức
và 31 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự
khuyết. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Lê Duẩn được bầu làm Bí thư
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Để thực hiện nhiệm vụ, phương hướng đã đề ra, Trung ương Đảng đã tiến
hành nhiều hội nghị cụ thể hoá đường lối của Đại hội. Năm 1961, Đảng ta họp các
hội nghị Trung ương: về cơng tác xây dựng Đảng trong q trình lãnh đạo thực hiện
đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa (4-1961), về phát triển nông nghiệp (7-1961),
về phát triển công nghiệp (7-1961), về công tác thương nghiệp và giá cả (12-1964),
v.v.. Các hội nghị này đều phân tích rõ mối quan hệ giữa ba mặt của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá (thường gọi là ba cuộc cách mạng)
và nhiều vấn đề quan trọng khác như tích luỹ vốn ban đầu, mối quan hệ giữa tích
luỹ và tiêu dùng, giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc phịng, giữa cơng nghiệp
21
và nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp trung
ương và công nghiệp địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã hồ chung vào khơng khí
thi đua sơi nổi, lao động sáng tạo. Do đó, mặc dù kế hoạch 5 năm mới thực hiện
được trong 4 năm và phải bước vào chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế
quốc Mỹ, nhưng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và sự nỗ lực
của nhân dân, miền Bắc đã căn bản hoàn thành các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch
đề ra.
Về nông nghiệp, tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa 88,8% số
hộ nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp, trong đó 71,7% số hộ vào hợp tác xã bậc
cao. Tổng thu bình quân trên một hécta canh tác tăng 43,7%; cuối năm 1965 có 162
xã, gần 700 hợp tác xã đạt và vượt trên 5 tấn thóc trên 1ha gieo trồng hai vụ; lương
thực bình quân đầu người đạt 15kg/tháng; đời sống xã viên được cải thiện; thu nhập
của người lao động từ kinh tế tập thể tăng khá. Phong trào thâm canh ở những vùng
trọng điểm lúa được đẩy mạnh và xuất hiện nhiều điển hình tốt.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp tăng đáng kể: nhiều cơng trình
thuỷ lợi lớn đã được xây dựng, tưới tiêu cho hơn nửa triệu hécta ruộng đất; vốn đầu
tư cho xây dựng cơ bản trong nông nghiệp tăng 4,9 lần; điện cấp cho nông nghiệp
tăng 9 lần; số máy kéo tiêu chuẩn tăng 11 lần so với thời kỳ 1958-1960; vốn bình
quân cho 1 ha canh tác tăng 2,1 lần; hệ thống các cơng trình thuỷ lợi, sửa chữa cơ
khí, sân phơi, sức kéo, chuồng trại, v.v. của hợp tác xã tiếp tục tăng. Đến năm 1965,
bình quân cứ 6 hợp tác xã có 1 máy bơm nước, 3 hợp tác xã có 1 máy tuốt lúa, 10
hợp tác xã có 1 máy xay xát, bình qn mỗi hợp tác xã có 9 nhà kho (của đội sản
xuất) và 436m2 sân phơi,...
Bên cạnh thành tích đó, việc đưa ồ ạt các hợp tác xã bậc thấp thành các hợp
tác xã bậc cao và quy mô lớn đã làm cho những yếu kém trước đó của các hợp tác
xã tiếp tục bộc lộ: trình độ quản lý và điều hành của đội ngũ cán bộ khơng đáp ứng
được địi hỏi của thực tế; tham ơ, lãng phí vẫn cịn phổ biến; tốc độ tăng thu nhập
chậm hơn tốc độ tăng chi phí sản xuất; hiệu quả kinh tế giảm dần; số hợp tác xã yếu
kém còn lớn, chiếm 18% tổng số hợp tác xã; tỷ lệ xã viên xin ra hợp tác xã tăng.
22