Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Nhân tố con người và vai trò của nó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.92 KB, 61 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

*************
NGUYỄN THỊ THẮM

NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Người hướng dẫn khoa học
GV. Lê Thị Minh Thảo

HÀ NỘI – 2012

Nguyễn Thị Thắm

1

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Mở Đầu
Nguyễn Thị Thắm

2



K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

1. Lý do chọn đề tài
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX con người đã liên tiếp làm nên
những điều kỳ diệu như: bay vào vũ trụ để khám phá tìm hiểu các hành tinh, đi
sâu vào lòng đất để tìm kiếm các nguồn nguyên liệu quý, phát triển mạnh mẽ
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và những phát minh sáng chế khoa học
khác để phục vụ cuộc sống của con người. Bước sang thế kỷ XI - thế kỷ nền văn
minh công nghệ, con người có thề làm nên những điều kỳ diệu hơn thế với khả
năng tiềm ẩn và sức sáng tạo hết sức phong phú và đa dạng của con người.
Trong sự phát triển kinh tế xã hội nguồn lực con người trở thành yếu tố cơ bản
và quan trọng nhất, chúng ta không thể xây dựng thắng lợi sự nghiệp Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa và xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội nếu không
quan tâm đến nguồn lực con người.
Với tư cách là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất con người có
thể tạo ra mọi động lực cho sự phát triển. Để thực hiện tốt vai trò quan trọng này,
con người cần phải được chăm lo bồi dưỡng, tích tụ tiềm năng và phát huy một
cách tối đa năng lực sáng tạo của mình. Nói cách khác con người cần phải được
phát triển, phải có sự lựa chọn những phương án tối ưu quan tâm tới nhân tố con
người. Trên thế giới hiện nay các quốc gia đều coi trọng sự phát triển con người
một cách toàn diện, khẩu hiệu trên thế giới hiện nay là: Sự phát triển của con
người quyết định sự phát triển, đầu tư cho con người là cơ sở chắc chắn nhất cho
sự phát triển. Xuất phát từ thực tế đất nước trước và sau đổi mới cũng như nắm
được xu hướng đầu tư, phát triển của các nước trên thế giới. Từ Đại hội Đảng lần
thứ VI đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn vai
trò của con người trong sự phát triển kinh tế xã hội. Trong Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) của Đảng ghi rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển”. Đồng thời trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020,
Nguyễn Thị Thắm

3

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một bước
đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa
học công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế
cạnh tranh, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Nguồn lực
con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, quý báu nhất có vai trò quyết
định đặc biệt là đối với nước ta khi mà nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất
còn hạn hẹp. Xuất phát từ những điều nói trên tôi quyết định chọn đề tài: “Nhân
tố con người và vai trò của nó trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đóng góp vào sự phát triển của đất nước có rất nhiều nguồn lực khác nhau
như: nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực khoa học công nghệ trong đó
nguồn lực con người giữ vai trò then chốt trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước theo con đường Chủ nghĩa xã hội. Nhân tố con người là một phạm trù
rộng lớn được đề cập trong rất nhiều tác phẩm khác nhau và cũng có nhiều tiến
sĩ, giáo sư lấy đề tài nhân tố con người làm đề tài nghiên cứu của mình.
Trong cuốn giáo trình: “Triết học Mac – LêNin” do GS,TS: Nguyễn Hữu
Vui – GS,TS: Nguyễn Ngọc Long đồng chủ biên. Cuốn sách đề cập đến những

nội dung liên quan đến vấn đề con người như bản chất của con người, vị trí, vai
trò của con người trong thế giới như thế nào?...Tất cả những vấn đề trên nằm
trong chương XIV: Vấn đề con người trong triết học Mac - Lênin. Những quan
điểm của Mác – LêNin về thực chất là học thuyết giải phóng con người, hướng
tới con người.
Trong cuốn giáo trình: “Chủ nghĩa xã hội khoa học” do GS, TS: Đỗ
Nguyên Phương và TS: Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) đã trình bày một
cách rất rõ ràng về nguồn lực con người và vai trò của nguồn lực trong sự nghiệp
Nguyễn Thị Thắm

4

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Vấn đề này được trình bày trong chương XII: Nguồn
lực con người trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra nhân tố con người cũng được đề cập rất nhiều qua các văn kiện
của Đảng qua các kỳ Đại Hội Đại Biểu toàn quốc. Cụ thể là: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII… hay cũng được đề cập đến trong báo cáo khoa học tại hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 với chủ đề: “Việt Nam hội nhập và phát triển” tổ
chức tại Hà Nội, tháng 12/2008.
Hai cuốn sách: “Về vần đề con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa –
Hiện đại hóa ở nước ta” và “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ
XXI” của tác giả Phạm Minh Hạc cũng có đóng góp rất lớn trong việc khẳng
định vai trò to lớn của con người và giáo dục trong sự phát triển đất nước, con
người.
Bên cạnh đó còn rất nhiều tác phẩm, các báo cáo, các nghiên cứu khác

cũng đề cập đến con người, vai trò của nguồn lực con người... Nhìn chung các
tác giả đều nghiên cứu nhân tố con người ở một khía cạnh nào đó, đi sâu vào
nghiên cứu vai trò nhân tố con người hay một loại nhân lực cụ thể nào đó nhưng
các tác giả đều có sự đánh giá một cách tổng quát nhân tố con người trong phạm
vi rộng. Điều đó càng khẳng định được vai trò quan trọng, then chốt của nhân tố
con người trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một cách tổng quát về vấn đề nhân tố con người trong
công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay ( giai đoạn từ 1986 đến
nay ) cả về lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu vai trò nguồn lực con người từ đó đề
ra những giải pháp cơ bản, phù hợp mang tính chiến lược và sách lược để nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực con người trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thị Thắm

5

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Làm rõ các quan điểm khác nhau về nguồn lực con người. Chỉ ra được một
số vai trò cơ bản của nguồn lực con người trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội của nước ta hện nay từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy một
cách tối đa những lợi thế của nguồn lực con người ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu một cách khái quát về nhân
tố con người và vai trò của nhân tố con người trong công cuộc đi lên xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

* Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận đi nghiên cứu về vai trò của nhân tố con
người trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay tức là giai đoạn từ năm 1986 – nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Khóa luận vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mac –
LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và các quan điểm, chính sách,
đường lối của Đảng, của Nhà nước ta về nguồn nhân lực và các giải pháp phát
huy vai trò nguồn nhân lực.
* Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và lịch sử,
phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa,…trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Đề tài tiếp tục bổ sung, làm rõ và hoàn thiện thêm vai trò
của nhân tố con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là đối với sự
nghiệp đưa nước ta đi lên Chủ nghĩa xã hội.
* Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá đúng thực trạng và từ đó đưa ra một số giải
pháp cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển vai trò cũng như chất lượng con
Nguyễn Thị Thắm

6

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
người, đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh sự phát triển đất nước.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận gồm
2 chương và 4 tiết.

.

Chương 1
Nguyễn Thị Thắm

7

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Một số vấn đề lý luận về con người và nguồn lực con người
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về con người và nguồn lực con người.
1.1.1.Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lênin về con người.
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Triết học Mac đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội. Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa nhất của muôn loài, con
người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Con người
phải tìm kiếm mọi sự cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức
ăn, nước uống,...Như vậy con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện
trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể người và mối quan hệ của
nó với tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học,
tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn
tại của con người. Vì vậy giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con
người là một bộ phận của giới tự nhiên. Tuy nhiên mặt tự nhiên không phải là
yếu tố duy nhất quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác
biệt giữa con người với con vật là mặt xã hội. C.Mac và Ph.Ăngghen đã nêu lên

vai trò của lao động sản xuất ở con người: “Có thể phân biệt con người bằng súc
vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản
thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt
đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ
chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, như
thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [14,
tr.11]. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn bị quyết định bởi 3 hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống
Nguyễn Thị Thắm

8

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
nhất với nhau đó là: hệ thống quy luật tự nhiên, hệ thống quy luật tâm lý ý thức
và hệ thống các quy luật xã hội.
* Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập
với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành
bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người
C.Mac đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “Bản chất con
người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [14,
tr.11]. Luận đề trên khẳng định không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
hoàn cảnh điều kiện lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử xác định – trong điều kiện đó con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí tuệ.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.

Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không phụ thuộc hoàn
toàn vào giới tự nhiên một cách thụ động mà đã vươn lên, tách xa thế giới động
vật, trở thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Bởi vậy con người là sản
phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song điều quan trọng
hơn cả con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội.
Như vậy với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận động,
phát triển của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự nhiên con người cũng
làm ra lịch sử của mình. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể
trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Do vậy bản chất con
người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến
đổi.

Nguyễn Thị Thắm

9

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về con người và
nguồn lực con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghiã Mac –
LêNin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội và giải phóng con người. Trong đó
vấn đề “con người” là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm,
xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân,

tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng và đào tạo, phát huy
mọi năng lực của dân, đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giành độc lập dân tộc cũng như
xây dựng đất nước.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại với tư cách cá nhân vừa là
thành viên của gia đình và cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân
hài hòa, phong phú. Người đã đưa ra một định nghĩa về con người: “Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước. Rộng nữa là cả loài người” [15, tr.45]. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người
chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trìu tượng. Khi bàn về
chính sách xã hội cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh Người luôn
luôn quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của con người với tư cách là nhu cầu chính
đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho
sự nghiệp chung vì nếu như lợi ích, nhu cầu của mỗi cá nhân không được quan
tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ không thể phát huy được. Trong khi phê
phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, quan điểm của Người là đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi
người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của
gia đình mình
Nguyễn Thị Thắm

10

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa theo
Người phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan
trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ

theo hiến pháp và pháp luật. Con người với tư cách là những cá nhân không tồn
tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và
các loài người trên thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù
bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa mà được đề cập đến một
cách cụ thể là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp
bức cùng cực dưới ách thống trị của chế độ phong kiến, đế quốc, là dân tộc Việt
Nam bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân và mở rộng hơn nữa là những “ nô lệ mất
nước” và “người cùng khổ”. Lôgic phát triển tư tưởng của Người là xuất phát
từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mac – Lênin, đến với chủ nghĩa
quốc tế chân chính. Theo lôgic phát triển tư tưởng ấy khái niệm “ con người” của
Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm “ giai cấp vô sản cách mạng”. Người đề cập
đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp
đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận
thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới
được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn
trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng. Về thực chất chỉ là sự cụ thể
hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Tư
tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân
tộc, dân chủ nhân dân và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Nguyễn Thị Thắm

11

K34A - GDCD



Khóa luận tốt nghiệp
Không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý
luận xây dựng Chủ nghĩa xã hội, khi định ra những mục tiêu của Chủ nghĩa xã
hội trước hết cần có con người Xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất
quán quan điểm về con người: con người là mục tiêu đồng thời vừa là động lực
của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người, Người luôn yêu thương,
tin tưởng con người, nhân dân trước hết là người lao động, nhân dân nước mình
và nhân dân các nước khác trên thế giới. Với Hồ Chí Minh lòng thương yêu nhân
dân, thương yêu nhân loại là không bao giờ thay đổi. Người có một niềm tin lớn
ở sức mạnh sáng tạo của con người. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ
Chí Minh đó là một trong những phẩm chất của người Cộng sản. Và đây chính là
chỗ khác căn bản: khác về chất giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm
của các nhà Nho yêu nước xưa kia về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí
Minh: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân” [15, tr.32] thì các nhà Nho phong
kiến xưa kiến mặc dù có các tư tưởng tích cực “lấy dân làm gốc” mặc dù cũng
chủ trương “khoan thư sức dân” nhưng quan điểm của các ông mới chỉ dừng lại
ở chỗ coi việc dựa vào dân như là một “kế sách”, một phương tiện để thực hiện
mục đích trị nước, bình thiên hạ. Ngay cả những bậc sỹ phu tiền bối của Hồ Chí
Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành nhưng họ chưa có một
quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh
quần chúng của nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của
người thống nhất với quan điểm của Mác và Angghen, Lênin “quần chúng nhân
dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử”.
Tóm lại, quan điểm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất
của cái “cá nhân” và cái “xã hội”con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng
giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp nhân loại, yêu thương con người,
Nguyễn Thị Thắm


12

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó là
những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất
phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến
hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn
tin ở dân, hết lòng yêu quý nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của
nhân dân. Tư tưởng về con người thông qua thực tiễn cách mạng của Người đã
trở thành sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định sự thắng lợi của
chính sự nghiệp cách mạng ấy.
Đảng Cộng Sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng Sản Việt Nam nhất quán
với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua
đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương, chính sách của Đảng trong
suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đồi mới đất nước hiện nay ta
tiến hành chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tư tưởng đó tiếp
tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là
trung tâm trong “chiến lược phát triển toàn diện”, đang là động lực của công
cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, vững bước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
1.2. Mục tiêu và vai trò của con người trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội của nước ta hiện nay.

1.2.1. Mục tiêu phát triển con người trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.

Nguyễn Thị Thắm

13

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1976 đã xác định một trong
những đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: “con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” [4,
tr.9].
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng Sản
Việt Nam lần thứ VIII một quan điểm cơ bản được khẳng định: “tăng trưởng
kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển” [6, tr.113]. Quan điểm này là sự diễn đạt cụ thể hơn
mục tiêu phát triển của đất nước đã được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh. Sự lựa chọn mô hình này một mặt thể hiện sự
tiếp tục quan điểm trước sau như một của Đảng ta, đó là quan điểm giải phóng
dân tộc kết hợp chặt chẽ với giải phóng xã hội và giải phóng con người, giành
độc lập cho Tổ quốc đi liền với thống nhất Tổ quốc và đem lại tự do, hạnh phúc
cho nhân dân.
Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con
người của mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện trong công cuộc xây
dựng đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn Chủ nghĩa cộng sản thực hiện
được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển
hết khả năng của mình”. Đó chính là mục tiêu mà Chủ nghĩa xã hội hướng tới:
giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng, giá trị nhân cách của con
người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định:
Phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách
mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đây cũng là mục tiêu nhân văn của nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập
Nguyễn Thị Thắm

14

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mac – LêNin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong
phú, tự do, toàn diện của con người.
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta không phải là
con người trừu tượng mà là những cá nhân, những tập thể, những tầng lớp người
cụ thể. Vì hạnh phúc của mỗi người dân, của đồng bào và của cả dân tộc Việt
Nam là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ngay trong thời kỳ cách mạng giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã nói:
“tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành” [16, tr.185]. Ngày nay trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước để đi lên Chủ nghĩa cộng sản, mục tiêu xây dựng con
người được đặt ra một cách thiết thực và trực tiếp.
Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở

nước ta là một vấn đề có tính chiến lược. Đại hội của Đảng đã đề ra đường lối và
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu
phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, đường lối kinh tế của Đảng ta được
xác định là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất phù hợp theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, phát huy cao nội lực
đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế, quốc
tế, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, từng bước cải thiện cơ sở vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát
triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh và trật tự xã hội.
Đây là con đường phát triển bền vững đất nước nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Hay nói cách khác là con
Nguyễn Thị Thắm

15

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
đường phát triển nhằm tới một mục tiêu kép: vừa phát triển kinh tế, vừa phát
triển con người và xã hội, vừa phấn đấu để dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng.
Như vậy, lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần
chú ý những vấn đề sau:
- Cần quan tâm đến lợi ích của con người, gồm lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần, trước hết là lợi ích vật chất. Hồ Chí Minh cho rằng: “ không có chế độ
nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho
nó được thỏa mãn bằng chế độ Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa” [16,

tr.125].
- Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời sống xã
hội bắt đầu từ thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và
công nghệ sẽ có những bước tiến bất ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người,
mỗi quốc gia là phải làm chủ được các thành tựu văn minh. Vậy con người là
chủ thể của lịch sử nên chính con người chứ không phải đối tượng nào khác,
phải loại trừ những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con người, đồng thời
thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Không chỉ
vậy mà thế giới hiện nay còn chứa đựng còn chứa đựng những yếu tố khác đe
dọa tự do và hạnh phúc của con người như: đói nghèo, dịch bệnh, thất học, ô
nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội, chiến tranh,…Do đó mọi chủ trương
chính sách, mọi hành động của các cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và hành
động của mỗi cá nhân phải nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh phúc của con
người.
Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng, cần
phải được đảm bảo các quyền lợi chính đáng của mình, con người phải là mục
tiêu của mọi tiến bộ xã hội. Hiện nay Chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh
nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch sử, tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp
Nguyễn Thị Thắm

16

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
hơn, văn minh hơn, công bằng hơn. Một xã hội không có tình trạng áp bức, bóc
lột, một xã hội thống nhất và nhân đạo, mọi người có cuộc sống tự do và hạnh
phúc và đó chỉ có thể là xã hội Xã hội chủ nghĩa và Chủ Nghĩa Cộng Sản.
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa

xã hội ở nước ta hiện nay.
* Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế.
Đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất xã hội nói chung, sự nghiệp xây
dựng Chủ nghĩa xã hội nói riêng có rất nhiều nguồn lực khác nhau: Nguồn lực tài
nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ, con người,… trong đó nguồn lực
con người giữ vai trò cơ bản, là động lực của sự phát triển.
Trong thời đại ngày nay sự phát triển là tăng trưởng kinh tế, phát triển xã
hội và phát triển con người (HDI), trong đó phát triển con người được coi là
thước đo sự phát triển của mỗi quốc gia. Quan điểm đó đã đặt con người ở vị trí
trung tâm, là nguồn lực của sự phát triển, nguồn lực con người. Sự tồn tại bền
vững người phát triển theo con đường tiến bộ xã hội của bất cứ một quốc gia nào
cũng phụ thuộc vào 5 loại nguồn lực: Vị trí đía lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn
vốn đã tích lũy trong nước, nguồn vốn tranh thủ từ nước ngoài và nguồn lực con
người trong đó nhân tố con người là quý nhất. Việc xem xét nhân tố con người
với tư cách là một nguồn lực cơ bản trong sự phát triển kinh tế - xã hội đã dần
hình thành một khái niệm mới: nguồn nhân lực hay còn gọi là nguồn lực con
người.
Trong lý luận “ vốn người” nhân tố con người được xem xét trước hết như
một yếu tố cấu thành của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển kinh
tế xã hội và đến lượt nó, phát triển kinh tế - xã hội lại là phương tiện nhằm đạt
mục đích phát triển nguồn lực con người. Đầu tư cho con người được phân tích
tương tự như đầu tư vào các nguồn vật chất, có tính đến tổng hiệu quả các đầu tư

Nguyễn Thị Thắm

17

K34A - GDCD



Khóa luận tốt nghiệp
này hoặc thu nhập mà con người và xã hội loài người thu được từ các đầu tư đó.
Cách tiếp cận này được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay.
Theo cách tiếp cận này, Ngân hàng thế giới cho rằng nguồn nhân lực là
toàn bộ “vốn người” (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,…) mà mỗi cá nhân
sở hữu. Ở đây nguồn lực con người đang được coi là nguồn vốn bên cạnh các
loại vốn vật chất khác như tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên,…Đầu tư cho
con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở chắc
chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Cũng dựa trên cách tiếp cận này, Liên Hợp Quốc cũng đưa ra khái niệm
nguồn lực con người: là tất cả những kỹ năng, kiến thức và năng lực của con
người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Đây được coi là một yếu tố quan
trọng bậc nhất trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Còn theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam được thể hiện trong
chương trình khoa học – công nghệ cấp nhà nước “Con người Việt Nam – mục
tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội” mang mã số KX – 07 thì nguồn nhân
lực được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm
việc,…
Từ những cách tiếp cận trên, có thể thấy rằng nguồn lực con người không
chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn là một tập hợp đa
phức gồm nhiều yếu tố như: trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc của con
người,…Trong bài phát biểu khi gặp gỡ các doanh nghiệp, các nhà khoa học –
công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhấn
mạnh: “nguồn lực con người bao gồm tất cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn
với truyền thống của dân tộc ta”. Điều khẳng định trên có ý nghĩa rất quan trọng
định hướng cho việc nhân thức và phát huy tiềm năng nguồn lực con người Việt
Nam.
Nguyễn Thị Thắm


18

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa” [15, tr.310]. Con người là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử, đồng thời cũng là kết quả thường xuyên của sự phát triển lịch sử.
Con người thông qua hoạt động của mình trở thành nguồn lực chủ yếu đối với sự
phát triển kinh tế xã hội.
Như chúng ta đã biết muốn xây dựng thành công sự nghiệp đưa nước ta đi
lên Chủ nghĩa xã hội thì chúng ta phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Muốn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công thúc
đẩy sự phát triển nhanh của nền kinh tế cân dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản là:
áp dụng công nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong đó yếu tố con người là động lực quan trọng nhất của sự
tăng trưởng kinh tế bền vững, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi vì
trong một nền kinh tế toàn cầu đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt thì ưu thế
cạnh tranh nghiêng về các nước có nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt
trong tương lai khi phát triển nền kinh tế tri thức thì phát triển nguồn vốn nhân
lực như là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Với tư cách là chủ thể lại vừa là người sử dụng và người tiêu dùng là 2 mặt
thống nhất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nó tồn tại thống nhất và phát triển
trong một thực thể con người và trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Từ đó
phát triển con người trở thành nhu cầu trước tiên, nhu cầu cơ bản nhất và là trung
tâm của mọi quá trình phát triển. Nhu cầu đó nếu được áp dụng sẽ trở thành động
lực to lớn và nguồn lực nội sinh vô hạn thúc đẩy quá trình phát triển xã hội. Tầm
quan trọng của nguồn lực con người không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở
tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách mà điều này luôn

được khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn lực con người, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao luôn luôn là nguồn lực to lớn của sự phát triển
kinh tế xã hội, là yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng
Nguyễn Thị Thắm

19

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
sản xuất, của nền kinh tế, của xã hội, trực tiếp sử dụng khoa học kỹ thuật, công
nghệ mới vào quá trình sản xuất và do đó nó là một trong những yếu tố quyết
định nhất của tăng trưởng kinh tế.
Khi nhìn nhận về tầm quan trọng của nguồn lực con người trong sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa xã hội thì cả C.Mac, Ph.Ăngghen và V.I.LêNin đều thống
nhất về tư tưởng “con người trên hết”, “con người quyết định”. Ngay cả Hồ Chí
Minh cũng từng nói lên tư tưởng này một cách sâu sắc như: “vì lợi ích mười năm
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người” và ngay cả nói về quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đi lên Chủ nghĩa xã hội thì Bác cũng đã từng
nói: “phải lấy dân làm gốc”.
Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của quá trình công nghiệp hóa.
Với tư cách là chủ thể con người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần.
Con người bằng quá trình lao động của mình vận dụng tất cả các nguồn lực khác
như: tài nguyên thiên nhiên, vốn,... để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, cho quá
trình công nghiệp hóa. Do vậy trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
con người bằng sức lao động của mình là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của quá
trình sản xuất, tạo ra mọi giá trị vật chật và tinh thần. Với tư cách là khách thể
con người là mục tiêu mà sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội hướng tới, con
người chính là người sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất, dịch vụ mà quá trình

Công nghiệp hóa mang lại, thỏa mãn nhu cầu của con người là mục tiêu của Xã
hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công sự nghiệp đưa nước ta lên Chủ nghĩa xã hội thì
chúng ta cần biết khai thác, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong
đó có nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất. Chi tiết hơn xem xét tới
tầm quan trọng của nguồn lực con người trong quan hệ so sánh với các nguồn
lực khác. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh rằng: muốn nâng nền sản xuất lên thì
một mình tư liệu lao động, dù là tư liệu cơ giới hay bất kỳ một tư liệu nào khác
Nguyễn Thị Thắm

20

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
cũng không đủ mà còn cần có những con người có năng lực tương xứng sử dụng
những tư liệu đó. Sở dĩ như vậy vì:
Thứ nhất nếu không có con người với trí lực, thể lực và những năng lực
phẩm chất cần thiết khác thì dù tư liệu lao động có sức mạnh đến đâu và đối
tượng lao động có phong phú như thế nào cũng không có tác dụng, quá trình sản
xuất cũng không được thực hiện.
Thứ hai trừ đối tượng là những loại có sẵn trong tự nhiên, còn lại tất cả
các yếu tố khác trong lực lượng sản xuất từ công cụ lao động, phương tiện vận
chuyển,... đến đối tượng lao động đã qua chế biến đều do con người sáng tạo ra.
Thứ ba mọi sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất đều do con
người. Do bản chất hiếu động của con người là sáng tạo để thỏa mãn nhu cầu
ngày càng cao của mình, con người không ngừng cải tiến sáng chế ra những tư
liệu lao động mới có năng suất và hiệu quả cao hơn đồng thời liên tục mở rộng
phạm vi đối tượng lao động, tạo ra thiên nhiên thứ hai phong phú. Cùng với điều

kiện đó tri thức và kỹ năng của con người ngày càng được nâng cao.
Tất cả những điều đó làm cho con người trở thành nhân tố động nhất,
không ngừng biến đổi và phát triển. Như vậy với tư cách là một lực lượng sản
xuất thì con người giữ vị trí quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất quyết định
toàn bộ quá trình sản xuất xã hội.
Xét về mặt công nghệ là một mặt vô cùng quan trọng của quá trình sản
xuất thì thành phần con người trong khoa học công nghệ cũng chiếm vị trí quan
trọng nhất. Bởi vì các thành phần khác như may móc, thiết bị, thông tin liên quan
đến bí quyết, tổ chức quản lý dù hiện đại phức tạp tinh vi đến mấy thì cũng đều
do con người sáng tạo ra, vả lại nếu không có con người thì hết thảy chúng đều
không có ý nghĩa. Mặt khác trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đưa nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội thì việc có máy móc tốt chưa đủ mà
cần phải có những con người có tay nghề phù hợp, nắm được bí quyết công
Nguyễn Thị Thắm

21

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
nghệ, có một bộ máy quản lý năng động, đủ sức tổ chức sản xuất có hiệu quả đáp
ứng được nhu cầu thị trường. Do vậy trong thời kỳ hiện nay – thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội việc quan tâm đến yếu tố con người trong công nghệ là vô
cùng quan trọng khi mà công nghệ thật sự trở thành nhân tố quyêt định khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Xem xét nguồn lực con người trong mối quan hệ với các nguồn lực khác
thì con người cũng tỏ rõ vai trò quyết định của mình. Điều này thể hiện ở chỗ các
nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,...nó chỉ tồn tại dưới
dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa khi được kết hợp với

nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ con
người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết “lợi dụng” các
nguồn lực khác, kết hợp chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp. Theo
Mac đã lý luận thì các nguồn lực khác là khách thể, chịu sự cải tạo khai thác của
con người và chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nếu con người
biết tác động và chi phối chúng.
Trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác thì có thể thấy rỗ nguồn lực
con người là nguồn lực duy nhất mà nhờ nó các nguồn lực khác mới phát huy
được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã
hội. Với ý nghĩa đó nguồn lực con người là một yếu tố tất yếu và quan trọng
hàng đầu để xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con
người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp bí quyết hành nghề. Trong thời đại khoa
học công nghệ, tin học con người không chỉ tiến lên bằng sức mạnh cơ bắp mà
bằng trí tuệ của mình là chủ yếu. Người lao động có tri thức nghề nghiệp, kỹ
năng lao động, có năng lực thích ứng với sự phát triển của khoa học, công nghệ
và sự biến đổi liên tục của kinh tế thị trường thì mới bảo đảm cho nền kinh tế
phát triển bền vững và ổn định.

Nguyễn Thị Thắm

22

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với
tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất của loài người,

từ chỗ chủ yếu sử dụng nguồn lực vật chất sang sử dụng nguồn lực trí tuệ. Tri
thức là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta đang trong
quá trình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất thì vấn đề vai trò của kinh tế tri thức,
kỹ năng của người lao động được đặt ra. Chẳng hạn, trong Nông nghiệp muốn
chuyển đổi vật nuôi, cây trồng nào đó ta đều phải dùng đến tri thức. Vai trò của
con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở lương tâm, trách nhiệm nghề
nghiệp, ý thức kỷ luật,… Nguồn lực con người trong hoạt động kinh tế được thể
hiện ở khả năng tổ chức.
* Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị - xã hội
Từ khi giai cấp công nhân và Đảng ra đời và lãnh đạo toàn xã hội thì con
người được giải phóng khỏi áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, trở thành người làm
chủ đất nước. Quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mac – LêNin về xây dựng
Nhà nước chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng ta phải ra
sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực
hiện dân chủ thực sự” [16, tr.323].
Đất nước được giải phóng, con người có tri thức, có năng lực và họ thấy
được trách nhiệm to lớn của mình trong việc lựa chọn những người có đức, có tài
vào cơ quan nhà nước, điều đó sẽ góp phần làm cho nhà nước vững mạnh. Nếu
nhân dân không nhận thức đúng đắn, không có sự lựa chọn sáng suốt thì chắc
chắn rằng đó là một bộ máy “hỏng” và không hiệu quả.
Đối với cán bộ nhà nước, những người lãnh đạo phải có sự hiểu biết lý
luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách nhiệm của bản thân với nhân dân sẽ hết
Nguyễn Thị Thắm

23

K34A - GDCD



Khóa luận tốt nghiệp
lòng phục sự nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Mục tiêu của
chúng ta là xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vậy trách nhiệm
của những cán bộ nhà nước, những người lãnh đạo là gì? Theo tư tưởng của Hồ
Chí Minh, người cán bộ phải là người: lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ. Đó
là những người có trách nhiệm, có năng lực, có lòng nhiệt huyết,…là những
người tích cực tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, luật
pháp của Nhà nước,… đến nhân dân, làm cho dân hiểu, dân tin để người dân chủ
động, tích cực thực hiện đường lối đó. Hiện nay trong bối cảnh quốc tế mới với
những diễn biến phức tạp thì vai trò của những người cán bộ, những người lãnh
đạo càng lớn. Bên cạnh những tác động tích cực mà trên thế giới đem lại thì
cũng gây ra những tác động tiêu cực đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, kiên định.
Những thế lực xấu luôn tìm cách chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ, truyền bá tư
tưởng phản động,…vì vậy chính chúng ta – những người làm chủ đất nước phải
kiên định với con đường mà chúng ta đã chọn là đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã
hội, trước xu thế hội nhập trên thế giới chúng ta “hòa nhập chứ không hòa tan”.
Nói về vai trò của nhân tố con người trong lĩnh vực chính trị - xã hội, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: khi người dân “…biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” [16, tr.223], “thì việc gì khó khăn
mấy họ cũng làm được” [16, tr.246].
Nhân tố con người đóng vai trò rất lớn trong lĩnh vực xã hội. Những vấn
đề xã hội bao gồm: vấn đề lao động việc làm, thực hiện công bằng xã hội, thực
hiện xóa đói giảm nghèo,...Muốn giải quyết tốt những vấn đề này, đòi hỏi chúng
ta phải phát huy tốt vai trò nhân tố con người trong công cuộc xây dựng Xã hội
chủ nghĩa.Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất mà
còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Giải quyết vấn đề lao
động và việc làm là một vấn đề được từng gia đình và toàn xã hội quan tâm, vì
chỉ có giải quyết tốt vấn đề lao động và việc làm chúng ta mới có thể phát huy
Nguyễn Thị Thắm


24

K34A - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
được những thế mạnh của đất nước, giải quyết tốt những vấn đề xã hội khác.
Song muốn giải quyết vấn đề lao động và việc làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực con người từ nâng cao sức khỏe, trình độ học
vấn, tay nghề, năng lực quản lý tới ý thức chính trị cho người lao động. Đặc biệt
một vấn đề được nhiều người quan tâm đó là chính sách xóa đói giảm nghèo.
Đây là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, chính sách này chỉ
phát huy hiệu quả khi những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình, cố
gắng nỗ lực, phấn đấu vươn lên đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của toàn xã
hội, sự hỗ trợ của Nhà nước.
Chủ trương mới của chúng ta là thực hiện gắn giáo dục đào tạo với sự phát
triển kinh tế - xã hội, sử dụng con người mới, thực hiện phổ cập giáo dục phù
hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế, phát triển năng khiếu, bồi dưỡng
nhân tài, nguồn nhân lực con người đóng góp chủ yếu nhất vào quá trình đó. Con
người là chủ thể của quá trình giáo dục đồng thời cũng là đối tượng của quá trình
giáo dục. Chính con người góp phần đổi mới giáo dục, đưa giáo dục nước nhà
từng bước tiến theo con đường Xã hội chủ nghĩa hiện đại và tiến bộ. Bằng trí tuệ
của con người, mà trực tiếp nhất là nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo sẽ tác động và nâng cao chất lượng giáo dục. Một xã hội sẽ không có
triển vọng nếu xem nhẹ giáo dục và để cho giáo dục rơi vào tình trạng suy thoái,
xuống cấp. Đảng ta cũng nhận thức được vấn đề đó và xác định quan điểm của
chúng ta là coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
thế hệ tương lai, việc phát triển giáo dục là việc của toàn xã hội và hãy bắt đầu từ
chính chúng ta.
Sự nghiệp xây dựng đất nước đi lên theo Chủ nghĩa xã hội khó có thể đạt

được kết quả tốt nếu không có những công dân yêu nước, ham học hỏi, cần cù
lao động và sáng tạo, có tinh thần hợp tác và có ý chí tự chủ, vươn lên trong khó
khăn và lòng tự trọng dân tộc cao, không cam chịu nghèo nàn và lạc hậu, có hiểu
Nguyễn Thị Thắm

25

K34A - GDCD


×