GIỌT RỪNG CỦA MIKHAIL PRISHVIN TỪ GĨC NHÌN
PHÊ BÌNH SINH THÁI ĐỐI THOẠI SINH THÁI
Đối thoại trong văn học là một biện pháp nghệ thuật
quan trọng để xây dựng tác phẩm tự sự, nhất là tiểu thuyết.
Đối thoại không chỉ nhìn nhận đơn giản từ góc độ ngơn ngữ
mà rộng hơn, nó phải được xem xét trong tác phẩm văn học
như một phương tiện nhằm khám phá nghệ thuật thể hiện
cuộc sống của nhà văn. Lí thuyết đối thoại này sau đó đã
được mở rộng bởi M.Bakhtin. Ơng cho rằng trong tiểu
thuyết đa thanh, cái quyết định tư tưởng của tác phẩm là
quan hệ đối thoại của các nhân vật. Mỗi nhân vật trong tác
phẩm tồn tại một nhà tư tưởng. Nhà phê bình sinh thái
Michael McDowell chủ trương áp dụng lí luận đối thoại của
M.Bakhtin để ứng dụng trong phê bình văn học. Ơng nói :
“…một dạng đối thoại giữa các quan điểm khác nhau, đưa
đến giá trị cho một loạt những quan điểm xã hội - chính trị.
Bắt đầu với ý nghĩ rằng, tất cả các thực thể trong mạng lưới
rộng lớn của tự nhiên đều đáng được thừa nhận và có một
tiếng nói, phê bình văn học sinh thái có thể khám phá cách
thức tác giả miêu tả những tiếng nói của nhân loại và phi
nhân loại trong bối cảnh như thế nào”. [Dẫn theo 27]. Chính
vì thế thơng qua đối thoại, nhân loại và thế giới phi nhân
loại mới có thể thấu hiểu về nhau. Đối thoại cũng là hình
thức để phê bình sinh thái phản đối sự độc đốn, trung tâm
hóa, đề cao tính chất đa điểm nhìn, đa chủ thể, đa thanh
trong văn học. “Qua đối thoại, chúng ta không chỉ nghe
được tiếng nói của con người mà cịn nghe được tiếng nói
của tự nhiên, hiểu được tự nhiên phải chống lại, hoài nghi,
khiếp sợ và chạy trốn con người như thế nào” [26;174].
Kẻ hủy diệt và kẻ bị hủy diệt
Con người luôn có tư tưởng phân biệt giữa con người
và sinh vật phi nhân. Chúng ta ln đặt mình ở vị trí đỉnh
chóp của sự tiến hóa và đặt thành kiến vơ lí lên các sinh vật
khác. Động vật, thực vật đối với con người thường là thức
ăn, đồ chơi, công cụ, vật thí nghiệm,…mà những thứ này
khơng có tiếng nói, có cảm tình cịn con người là kẻ thống
trị. Chính vì thế con người có thể hủy diệt thiên nhiên mà
khơng hề vướng bận, do dự. Con người đã từng thống trị
chính con người, có phân biệt sắc tộc, màu da,…các vấn đề
này trước đó đã được văn học đề cập và đa phần đã giải
quyết được. Phê bình sinh thái có sứ mệnh đưa ra hồi nghi,
phản bác đối với sự phân biệt giữa con người và sinh vật
phi nhân, phân tích nó trên mối quan hệ đối thoại để lắng
nghe tiếng nói từ hai phía, từ đó đưa ra những tư tưởng đạo
đức, nhân văn hơn.
Trong tác phẩm, hình ảnh con người thường xuất
hiện chính là người đi săn. Đó là những người đi săn chồn
quý, sóc hay ngỗng trời… Chúng tôi gọi họ là những người
đi săn mà khơng phải là thợ săn bởi vì họ săn bắn khơng
phải vì kiếm ăn mà vì đó là một thú vui. Không biết từ bao
giờ, đi săn đã là một hoạt động giải trí của con người. Kể cả
người kể chuyện cũng từng cầm súng chĩa vào những con
vật. Họ truy tìm một con chồn vì nó q, bắn một phát súng
vào con sóc chỉ vì sự tị mị, bắn ngỗng trời vì sự tự vệ của
chúng, canh giữ ở hang chồn lửng chỉ vì thích thú nhìn con
vật sợ hãi.
Cùng viết về người đi săn, J. Curwood trong Vua
Gấu Xám miêu tả họ như kẻ hủy diệt. Câu chuyện xoay
quanh nội dung chính là cuộc đuổi bắt của người đi săn và
con gấu. So với Prishvin, Curwood, lột tả càng chi tiết sự
tàn nhẫn của kẻ hủy diệt. Mang theo vũ khí bất li thân là
khẩu súng, Langdon và Bruce đương đầu với thiên nhiên,
quyết tâm chinh phục bằng được con gấu to lớn. “Trong
cuộc sống, số phận có khi được định đoạt chỉ trong một giờ,
một phút. Và giờ đây, thậm chí chỉ trong mười giây định
mệnh sau phát súng thứ nhất, Thor đã hoàn toàn biến đổi.”
[Dẫn theo 22]. Số phận của con vật chỉ được quyết định
trong vịng mấy giây, một động tác bóp cò. Để chứng minh
sức mạnh đỉnh cao của con người, trước con mồi lớn nhất từ
trước tới nay, cả hai con người trở thành những kẻ khát
máu, sẵn sàng xả súng để đạt được mục đích. Sự khát máu
ấy khơng phát ra từ lí do như cần da, cần thịt hay chống lại
mối nguy hiểm… nó được kích phát từ cảm giác kích thích
cực mạnh của cuộc truy đuổi. Nhìn con vật hoảng loạn trốn
chạy, con người cảm giác như đã chinh phục, thống trị được
tự nhiên. “Con người ta săn bắn, tàn sát, rồi lại săn bắn tàn
sát”, “tôi bắt đầu cảm nhận được niềm khoái lạc thực thụ
của săn bắn”, “nó ngấm vào máu chúng ta rồi,… chúng ta
như thể sinh ra là để tàn sát vậy” [Dẫn theo 22]. Lời thú
nhận của hai nhân vật trong Vua Gấu Xám khiến ta phải
rùng mình trước sự tàn nhẫn của con người.
Prishvin miêu tả hành động săn bắn của con người ở
một mức độ nhẹ nhàng hơn.
“Họa sĩ Boris Ivanovich bò trong sương mù đến gần
đàn thiên nga, giương súng ngắm ở một khoảng cách gần,
nhưng chợt nghĩ rằng dùng đạn ria nhỏ bắn vào đầu sẽ tốt
hơn nên mở khóa súng rút hộp đạn chì ra, bỏ đạn ria dùng
để săn vịt trời vào.” [23; 239].
Mô tả hành động đi săn của một con người, tác giả đã
chỉ ra điều đặc biệt, đây không là một thợ săn để kiếm bộ
lông, thịt để bán, đây là một họa sĩ. Đôi tay dùng để cầm
bút vẽ nên những bức tranh đẹp nhất đang cầm trên tay
khẩu súng chĩa thẳng vào sinh vật mĩ lệ kia. Đầu óc dùng để
suy nghĩ xem nên sử dụng màu sắc, nét vẽ nào thích hợp
hiện đang suy nghĩ nên dùng đầu đạn nào để bắn chết con
mồi. Con người đem việc đi săn như là một thứ nghệ thuật
chứng minh bản thân. Từ xa xưa, khi con người săn bắn để
kiếm ăn, họ dần dần cải tiến vũ khí của mình để có thể đảm
bảo cuộc sống ấm no, đầy đủ. Tuy nhiên xã hội càng hiện
đại, những cải tiến, văn minh khơng chỉ cịn phục vụ nhu
cầu ấm no nữa mà là nhu cầu chinh phục, thống trị thiên
nhiên. Những cuộc đi săn trở thành cuộc thi, người ta thi
xem ai bắn được nhiều, bắn được con vật lớn và quý hiếm.
Động vật trước đây là nguồn sống của con người nay là một
thứ đồ chơi có thể hủy diệt dễ dàng.
“Súng đã lên nịng, và tơi chắc mẩm rằng dù chúng có
bất ngờ bay lên ngay thì cũng khơng thể thốt khỏi tay tơi
mà khơng chịu tổn thất lớn. Tôi châm lửa hút, hết sức thận
trọng nhả khói, dùng bàn tay quạt cho khói thuốc bay tản đi
ngay khi vừa thoát ra khỏi miệng.” [23; 250].
Vật dụng đi kèm của người thợ săn chính là khẩu súng.
Súng là vũ khí đại diện cho văn minh nhân loại, là thứ cơng
cụ tối tân và có sức hủy diệt cực lớn. Súng thể hiện sức
mạnh của con người, khẳng định vị thế tối cao của nhân
loại. Khi cầm súng trên tay con người có thể quên đi nỗi sợ
tự nhiên, không sợ con thú dữ mà dùng súng hủy diệt nó.
Người đi săn khi cầm súng như một kẻ thống trị, nắm quyền
sinh sát của mọi loài vật trên tay. Cho nên ta có thể thấy sự
tự tin của nhân vật “tơi” chính là đến từ khẩu súng. Anh ta
chắc mẩm những con thiên nga sẽ không thể thốt khỏi tay
mình dù nó có bay lên đi chăng nữa? Điều này làm tôi nhớ
đến nhân vật “gã thợ săn” trong tác phẩm Làn hơi ấm của
Lee Rury và Amanuele Bertossi. Gã ta sẵn sàng nã súng vào
con gấu Bắc cực to lớn mà không hề sợ hãi. Khi mất đi
khẩu súng trong tay, gã trở nên nhỏ bé, yếu ớt và có thể bị
con gấu quật ngã một cách dễ dàng. Điều này có thể thấy
được, chính nền văn minh hiện đại đã thúc đẩy ham muốn
chinh phục và hủy diệt của con người.
Trong Giọt rừng, dù những cuộc đi săn không được
mô tả tỉ mỉ và tàn nhẫn như vậy, nhưng ta vẫn nhận thấy
điểm tương đồng giữa tác phẩm này với Vua Gấu Xám. Đó
là tâm thế của kẻ tự cho mình cao hơn, đứng trên các giống
loài khác của con người. Những kẻ đi săn đều coi việc bắn
giết như một thú vui, một cuộc đua, đua xem ai bắn chuẩn
hơn, con mồi lớn hơn hay thậm chí vết bắn đẹp hơn,…Đi
săn là một hoạt động truyền thống, thậm chí trở thành môn
thể thao ở Nga. Người đi săn đều trang bị vũ khí, chó săn
đầy đủ và con mồi là chiến lợi phẩm cho những cuộc vui
đó.
Tác giả cũng đề cập đến câu chuyện đi săn chồn của
đám trẻ. Những đứa trẻ, từ khi còn nhỏ, đi săn đã là một trị
chơi của chúng. Có thể đó chưa hẳn là khát khao chinh
phục, chế ngự thiên nhiên, nhưng người lớn đã dạy cho
chúng cách đi săn, những con vật nhỏ bé kia là con mồi. Và
dần dần khi lớn lên, con mồi lớn hơn, vũ khí có sức sát
thương cao hơn và con vật bị bắn giết nhiều hơn. Số phận
của chú chồn con như thế nào sau đó chúng khơng cần quan
tâm. Khơng có ai dạy cho đám trẻ biết, chỉ là một trò chơi
của chúng đã đủ khiến chú chồn con bị chó săn xơng vào
hang và lơi xềnh xệch và tách khỏi mẹ. Khơng có ai nói cho
trẻ con, chú chồn con tuy khác loài cũng là một con non,
cũng sẽ đau khổ khi tách khỏi mẹ giống như con người.
Chúng ta ln băn khoăn tự hỏi: có phải do người lớn
hủy diệt thiên nhiên mà trẻ nhỏ cũng bắt chước làm theo?
Hay tự chúng đã quen với việc săn bắt, bẻ cành để chơi mà
khi lớn lên chúng không còn biết yêu thương tự nhiên nữa?
Chúng ta chỉ nhận ra được, con người ln tư duy cố hữu:
họ có thể, có quyền hủy diệt thiên nhiên.
Con người ln muốn tìm hiểu thiên nhiên, hiểu cách
nó sống và chết như thế nào. Vì lẽ đó họ có thể sẵn sàng bắt
lấy con chuột, con chim chỉ để thử nghiệm những giả thiết
họ muốn.
“Chúng tơi muốn thử xem nó có thể ăn một lúc được
bao nhiêu giun. Sau đó, cũng với con chuột chù này, muốn
thử xem nó có thể ăn những gì: chúng tơi cho nó ăn tất cả
mọi thứ. Cuối cùng, chúng tơi quyết định thử có đúng là
ánh nắng chiếu trực tiếp sẽ giết được chuột chù như người
ta vẫn nói hay khơng. Và sau khi giết chết con vật sống
ngầm dưới đất này bằng những tia nắng mặt trời, chúng tơi
tính sẽ tìm cách cân, đo nó một cách cẩn thận, nghiên cứu
nội tạng của nó, rồi đặt nó vào tổ kiến để có được một bộ
khung xương sạch sẽ. Cịn thiếu cái gì mà chúng tơi khơng
muốn! Chúng tơi cịn định tìm bắt một con chuột chũi và
nhốt chúng cùng với nhau.” [23;80].
Sẽ thật tàn nhẫn biết bao nhiêu nếu dự định này thành
hiện thực. Con người có thể cho nó ăn bất cứ thứ gì chỉ để
thử nghiệm, khơng cần quan tâm thứ ăn vào sẽ đem đến
điều gì cho con vật. Với một vài giả thiết nghe được, con
người sẵn sàng để con vật chết, sau khi chết sẽ mổ xẻ xác
con vật. Và tàn nhẫn hơn nữa, con người để những con vật
tàn sát lẫn nhau. Thái độ của con người đối với chú chuột
đáng thương chẳng khác gì một con thú nhồi bơng có thể
nhét vào bất cứ thứ gì, khơng cần thì xé bỏ, hoặc may vá
linh tinh. Con người khơng hề suy nghĩ con vật đó sẽ có
cảm xúc gì khi phải chịu thử nghiệm của mình. Khoa học
càng ngày phát triển, con người ni động vật để làm vật thí
nghiệm. Khi nhìn đến thành quả khoa học, chúng ta thường
không nghĩ đến những con vật đã phải trải qua những gì để
có được thành quả ấy. Con người không học được sự biết
ơn, trân trọng động vật từ điều này, mà còn phát huy các “kĩ
thuật nghiên cứu” đó vào những con vật khác ngồi đời như
một trị chơi.
Thậm chí để đếm được có bao nhiêu chiếc lá liễu hồn
diệp dính trên mỏ chim dẽ giun con người sẵn sàng bắn nó.
Mặc dù khơng tổn thương về thể xác nhưng chú chim lại trở
thành một thú vui, một thứ đồ chơi. Ta có thể nghĩ chú chim
đó đã hoảng sợ đến mức nào. Con người bắn rơi chú chim
nhỏ, mà không hề nghĩ đến sau khi đếm xong số lá, thỏa
mãn lịng hiếu kì của mình, chú chim kia sẽ như thế nào, bị
gãy chân, hay gãy cánh,…Họ sẽ đặt chú chim lên cành cây
hay bỏ nó dưới đất mặc cho nó bị con thú khác tha mất.
Người ta không suy xét nhiều như vậy bởi vì đó khơng phải
vấn đề con người quan tâm.
Con người viết câu chuyện về vương quốc kiến lớn
nhất của khu rừng, ca ngợi vẻ đẹp của nó, trong khi chính
con người châm lửa đốt cái vương quốc ấy thành đống tro
tàn. Lí do đốt tổ kiến rất giản đơn: con người cần một chỗ
nghỉ trong lúc đợi bắt con chồn quý. Bên trong tổ kiến là
bấy nhiêu sinh mệnh, chúng đã sinh sống và làm tổ ở đây từ
rất lâu. Con người từ xa đến, vô cớ đốt nhà, giết hại chúng,
hành vi này có khác nào kẻ xâm lược. Con người khơng ý
thức được điều đó. Những con kiến nhỏ bé không đáng để
con người phải suy ngẫm về hành động của mình. Tơi bỗng
nhớ tới câu “Bóp chết dễ dàng như bóp một con kiến” - đó
là câu nói mà người ta dùng khi muốn khinh rẻ, chà đạp ai
đó. Con kiến nhỏ khơng được coi như một sinh mệnh trong
mắt con người.
Có ai biết rằng khu rừng rậm, nhiều tầng lớp cây lại
từng là một nghĩa địa rừng, nơi có bãi đốn cây mà con
người để lại. Để đánh dấu bãi đẵn gỗ, người ta đã bẻ gãy
một cây bạch dương non: “phần thân gãy của nó rủ xuống
treo lủng lẳng gần như chỉ trên một rẻo vỏ mảnh hẹp” [23;
95]. Đối với con vật, con người không coi trọng sinh mệnh
của chúng, đối với cây cối, con người càng không nghĩ
chúng có sinh mệnh. Con vật bẻ gãy cánh tay cịn đổ máu,
cịn kêu đau nhưng cây cối thì khơng. Trong mắt con người
hành vi bẻ cành, bẻ ngọn chẳng hề mang đến tổn thương
nào. Chúng ta không hề biết, từ phần thân gãy ấy, chảy ra
dòng nhựa trắng trong. Đó là nước mắt của cây. Cái cây
cũng rất đau, phần thân bẻ đi đấy chính là phần ngọn cây
mà rễ cây, thân cây dồn hết sức để vươn lên, chúng đã mất
rất nhiều thời gian, cơng sức để có thể vươn dài. Và con
người chỉ mất mấy giây để bẻ nó đi. Dịng nhựa trắng vốn
chảy đến để ni ngọn cây, nay hóa thành dịng lệ. Chúng
cứ chảy, chảy mãi, cho tới khi trở nên khô cứng dưới ánh
mặt trời. Dịng lệ trong veo, khi khơ đọng lại, sẫm màu như
giọt máu đọng. Nếu con người chịu dừng chân hay ngoảnh
lại nhìn cảnh tượng ấy, liệu họ có thể giơ tay bẻ cành một
lần nữa hay không?
Svetlana Alexievich đã từng nói trong Lời nguyện cầu
từ Chernobyl: “Chúng tơi cịn chơn cả một khu rừng. Cây bị
cưa ra thành từng khúc dài độ một mét rưỡi, rồi bọc chúng
trong giấy bóng kính trước khi ném chúng xuống những cái
hố đào sẵn. Đêm tôi không ngủ được...Tôi nhớ có nhà thơ
đâu đó đã nói rằng thú vật cũng là một thứ chủng loại
người. Như vậy là tôi đã giết chúng, thứ gọi là chủng loại
người ấy, hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn mà thậm chí
cũng khơng biết chúng được gọi là gì. Tơi đã thiêu hủy nhà
cửa của chúng, những thứ thầm kín của chúng, rồi vùi thật
sâu xuống lòng đất.” [1, 54]. Tác giả bị ám ảnh bởi nỗi đau
mà tự nhiên phải chịu. Hình ảnh chơn khu rừng khơng khác
gì đang chơn cất những con người cả. Khi chúng ta coi tự
nhiên như một chủng loại người, có những cảm xúc và nỗi
đau như con người, chúng ta sẽ nhận thức được, con người
đã có những hành động sai trái, tàn nhẫn như thế nào.
Trước đây những cây non chỉ đấu tranh sinh tồn với
thời tiết khắc nghiệt, nay chúng còn phải đấu tranh để tránh
sự tàn phá của con người. Thật xót xa biết bao nhiêu khi cây
non vươn cao khơng phải để đón lấy tia nắng mặt trời nhanh
hơn mà là để tránh bàn tay của con người.
“Tơi biết trong rừng có một cây dã anh đã bao năm nay
đấu tranh vì sự sống của mình: nó cố gắng mọc lên thật cao
để tránh khỏi bàn tay những kẻ muốn bẻ cành của nó. Và
cây dã anh đã thành cơng - bây giờ thân của nó hồn tồn
trơn trụi, hệt như một cây cau, khơng có nhánh cành nào để
con người có thể bám vào trèo lên, và nó kết hoa ở trên đỉnh
ngọn của mình. Một cây dã anh khác khơng làm nổi điều
đó, và nó trở nên xác xơ, trên thân của nó giờ chỉ cịn nhơ ra
những que cành trơ trụi.” [23;86].
Con người đã trở thành nỗi sợ hãi cho khu rừng, không
chỉ động vật mà còn là thực vật. Sự phát triển của chúng bị
chi phối bởi bàn tay con người. Càng đáng buồn hơn, con
người hồn tồn khơng ý thức được hành vi của mình đã
gây tổn thương đến lồi sinh vật khác. Đối với con người
chỉ là tiện tay vịn cành hay tò mò muốn bẻ cành để xem rồi
vứt đi,… Đối với cây dã anh hành động đó khiến chúng
khơng thể sinh tồn được trong thiên nhiên. Cây dã anh còi
cọc kia sẽ chống cự như thế nào với nắng, gió. Khơng có lá,
cái gì sẽ mang đến lương thực cho chúng. Chúng ta cứ cho
rằng chặt phá rừng mới là hủy diệt mà quên đi một điều, khi
ta bẻ cành tức là đã bẻ đi một phần cơ thể của cây, như con
người bị bẻ mất cánh tay mà thôi.
Tại sao con người có thể tùy ý làm thương tổn thiên
nhiên mà khơng hề có một sự bất an nào cả? Đó là bởi con
người mang theo định kiến đối với những loài phi nhân.
Định kiến phân biệt giống lồi. Con người khơng hề có suy
nghĩ động vật, cây cối có sinh mệnh, có thân thể, có tình
cảm, cảm xúc và có quyền được sống, được tơn trọng của
nó. Trong xã hội ngày nay người với người cịn khơng có
được sự tơn trọng huống chi là loại vật. Con người sở dĩ coi
thường thiên nhiên là bởi vì chúng khơng nói tiếng người
mà khơng hề biết rằng thiên nhiên cũng có tiếng nói, chẳng
qua đó khơng phải là ngơn ngữ lồi người mà thơi.
Thiên nhiên ở đây chính là kẻ bị hủy diệt. Khi con
người hủy diệt thiên nhiên, chúng còn chưa nhận thức được,
kẻ đang tàn phá bản thân là ai. Chúng dần nhận ra sinh vật
mang tên “người” ấy qua từng ngày. Đó là sinh vật nguy
hiểm, tàn nhẫn và có sức sát thương cao hơn so với những
kẻ thù trước đây. Để sinh tồn, thiên nhiên phải trốn chạy. Lũ
chuột chù không rời khỏi địa bàn an tồn của mình. Đó là
lịng đất. Chim chóc phải bay cao khi có người xuất hiện.
Cây cối phải vươn xa khỏi mặt đất.
Khi một sự đàn áp diễn ra quá lâu, thường sẽ dẫn đến
đấu tranh. Tuy vậy thiên nhiên không đấu tranh với con
người, bởi chúng dần nhận thức được, con người cũng chỉ
là sinh vật nhỏ bé, tầm thường mà thơi, cịn thiên nhiên
rộng lớn, mạnh mẽ và nhân từ hơn rất nhiều.
Trong Vua Gấu Xám, tác giả cũng đưa đến thông điệp
này từ tự nhiên. Thor, vị vua của rừng xanh, trong những
cuộc đối đầu với con người, nó cũng đã nhận thức được sự
nguy hiểm của những khẩu súng, cũng phải trốn chạy.
Nhưng nó cũng nhận ra được con người thực ra cũng chỉ là
kẻ hèn nhát, nhỏ bé mà thôi. Cho nên Thor không giết con
người, kẻ mà luôn truy đuổi, tìm cách bắn chết nó. Con
Gấu Xám chỉ trao lại cho kẻ thù một ánh nhìn khó tả. Nó
khơng giết con người vì nó khơng là lồi sinh vật hiếu sát,
khơng là kẻ lấy việc giết chóc làm niềm vui. Nó vị tha hơn
con người.
Thiên nhiên đã từng đau đớn, trốn chạy nhưng khi
đáp lại con người, thiên nhiên vẫn dành lịng bao dung lớn
nhất có thể. Tự nhiên không hủy diệt con người, cũng
không tấn công con người. Vì thế con người thường khơng
hề hiểu được, bản thân đã được tha thứ như thế nào? Càng
không hiểu được chính con người đã mang những tội lỗi gì?
Giọt rừng không tập trung lột tả hành động tàn nhẫn
gây thương tổn thiên nhiên của con người. Tuy nhiên tác
phẩm đã đưa ra một khía cạnh khác của hành vi con người
đó là thương tổn thiên nhiên một cách vơ tình. Từ điểm nhìn
của nhân vật “tơi” chúng ta hồn tồn có thể nhận thấy con
người khơng hề có ác ý với thiên nhiên, số ví dụ mà chúng
tơi đưa ra cũng không nhiều. Như lời tác giả ở mở đầu sách
“thuở xưa khi còn là những đứa trẻ hiếu kì, chúng tơi
thường hay đập vỡ đồ chơi của mình cũng như bất cứ thứ
q tặng nào, thậm chí cả đồng hồ, để biết được bên trong
có những gì. Rồi ở trường, người ta cũng dạy chúng tôi
cách ứng xử với thiên nhiên như thế: được dẫn ra ngoài
cánh đồng, mỗi người hái một bông hoa rồi bứt cánh để
đếm xem hoa có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhuỵ, đài hoa
kết cấu ra sao v.v... Nói chung, sự thể xảy ra với bông hoa
cũng hệt như với những đồ chơi thời thơ bé: hình dạng bị
dập nát, xé nhỏ - và khơng cịn cả bơng hoa cũng chẳng cịn
cả đồ chơi nữa.” [23; 9]. Con người cho là những hành vi
nhỏ nhặt, khơng ác ý của mình khơng thương tổn thiên
nhiên, bản thân chỉ đang khám phá, hiểu biết thiên nhiên,
mà khơng hiểu được rằng đó chính là hủy diệt. Chúng ta
không muốn hủy diệt nhưng thực chất lại là kẻ hủy diệt.
Vậy sai lầm ở đâu? Đó là do chúng ta chưa từng đặt mình
vào cuộc đối thoại với thiên nhiên, xem thiên nhiên ở vị thế
kẻ bị hủy diệt nên chúng ta không nhìn thấy những tổn
thương đó.
Đối thoại ở đây khơng chỉ là đối thoại của nhân vật với
thiên nhiên trong tác phẩm mà quan trọng hơn là đối thoại
giữa tác phẩm và con người – cũng chính là người đọc – để
từ đó rút ra được ý nghĩa sinh thái. Chúng ta lắng nghe
được tiếng nói của con người và tiếng nói của tự nhiên.
Nghe được tiếng nói của con người, ta nhận thức được thái
độ của con người với thiên nhiên, đó là thái độ của kẻ hủy
diệt, kẻ thống trị. Chúng ta cũng lắng nghe tiếng nói của tự
nhiên, nghe được nỗi đau, lo sợ mà thiên nhiên phải chịu,
phản hồi của thiên nhiên khơng cịn ở tình trạng mất tiếng
nữa. Khi nghe được những phản hồi này, con người mới
hiểu được sai lầm của bản thân, từ đó bồi dưỡng tình yêu
thương cũng như thái độ và hành động đúng đắn, nhân văn
đối với thiên nhiên.
Con người luôn tự cho mình là chủ nhân trên trái đất
này, ln đặt mình ở vị thế người làm chủ và coi các sinh
vật khác là khách. Bước vào khu rừng, nhân vật “tôi” vẫn
mặc nhiên suy nghĩ bản thân là “chủ nhân” của rừng mà
không phải là khách.
Con người coi tất cả các sinh vật xuất hiện tại nơi
mình đứng là “khách”. Trong tác phẩm, “chủ nhân” đối với
sự xuất hiện của những “vị khách” có tị mị, thích thú, có
giật mình, ngạc nhiên và cũng rất thân thiện. Prishvin đưa
đến cho người đọc một cách nhìn về những “vị khách” này.
Đó là mấy chú chim chìa vơi tị mị muồn đến ngắm con
người, và “chủ nhân” của chúng ta cũng không ngại, cịn
tìm cách dụ chúng đến để có thể chụp ảnh gần về chúng,
cùng những chú chìa vơi chơi đùa. “chim chìa vơi vì tị mị
sẽ chạy đến tận rìa đống củi để tìm nhìn” con người, và thế
là người “sẽ có nó trên chính súc củi mà bạn đã hướng ống
kính máy ảnh đón sẵn từ trước.” [23;88].
Các “vị khách” tiếp theo lần lượt xuất hiện. Một
chàng sếu, chim ó cá, rồi đến diều hâu có cái lỗ trịn ở
đi liệng vịng tít trên cao.
“ Một chú diều mướp, vốn rất mê trứng chim, cũng
bay tới; lúc ấy cả lũ chìa vơi liền chao chát bay lên khỏi
đống củi như đàn muỗi vun vút lao vào diều mướp. Những
con quạ đang canh tổ của mình cũng nhanh chóng bay đến
nhập bọn với đàn chìa vơi. Lúc ấy bộ dạng chú diều mướp
ác điểu khổng lồ trông thật thảm hại, nó kinh hồng vội vã
lao đi, bay mất dạng.” [23;89].
Khơng gian yên lặng bắt đầu rộn rã bởi tiếng chao
chát, tranh cãi của lũ chim. Chúng tranh giành con mồi với
nhau một cách kịch liệt khiến ta tự hỏi: Tại sao chúng cứ
tranh giành trong khi chúng không phải là chủ nhân nhỉ?
Và âm thanh khác cũng bắt đầu vang lên: tiếng “gù gù”
của những chú bồ câu rừng, tiếng chim tu hú gáy, tiếng gà
lôi làu bàu liên tục, chim sẻ đầm lầy lích, đám chuột chù rúc
rích.
“Và khi trời trở nên ấm hơn thì lá dã anh trơng giống
như những con chim nhỏ cánh xanh cũng bay về và ngụ lại
như những vị khách; những cánh sen gió tim tím bay lại,
dây dầu đắng vươn thật xa, cho đến khi tất cả các tầng rừng
đều được phủ kín chồi xanh.” [23;90].
Khu rừng trống trải vào mùa đông bắt đầu được phủ
xanh bởi lá dã anh, và điểm thêm sắc màu của hoa sen gió.
Sau mấy tháng nghỉ ngơi, cây cối trong rừng đâm chồi nảy
lộc. Và trong mắt “chủ nhân” của chúng ta, sự xuất hiện của
những chồi non như là những vị “khách” từ xa tới.
Những “vị khách” lần lượt xuất hiện khiến cho vùng
đất nơi đống củi trở nên ồn ào, náo nhiệt. Khung cảnh ban
đầu chỉ có đống củi mục nay trở nên ngập tràn sức sống.
Con người thấy vui vì điều đó. Sự gia nhập của “khách”
khiến cho khoảnh khắc trở nên tuyệt diệu. Trong các vị
“khách” có cây cối, có chim mng, có ong bướm, cũng có
thú dữ như cáo, rắn,… nhưng không khiến con người thấy
sợ hãi bất an mà lại cảm thấy bình yên.
Vị khách tiếp theo mà tác giả giật mình phát hiện là
“hằng hà sa số những con cung quăng ấu trùng của muỗi”.
Những con cung quăng này, khi lớn lên sẽ là những con côn
trùng hút máu, sẽ tấn công con người. Nhân vật “tôi” không
sợ hãi hay đề phịng vị khách ấy, bởi lẽ ơng biết vị khách
này xuất hiện ở đây có sứ mệnh bảo vệ vẻ nguyên sơ cho
cánh rừng đầm lầy.
Và vị khách cuối cùng xuất hiện khi chủ nhân đã rời
khỏi, được chủ nhân vơ cùng cảm kích đó là bầy ri đá.
Chúng mổ những gì cịn sót lại, dọn sạch những dấu vết con
người để lại, trả cho khu rừng sự yên tĩnh, sạch sẽ ban đầu.
Các nhân vật xuất hiện trên được đặt trong chương
“Những vị khách”, được tác giả gọi là “khách” nhưng chúng
ta đặt một câu hỏi thắc mắc: Tại sao những con vật, cây cối
được gọi là “khách” lại sinh hoạt một cách tự tại, thoải mái
trên vùng đất của người khác như vậy? Chú chim chìa vơi
ung dung xuất hiện trước mặt ống kính của con người. Mấy
chú chim khác như diều mướp, diều hâu, ó cá, sếu,… thong
dong làm việc của mình, chúng kiếm mồi, nơ đùa, đấu đá
nhau như vẫn đang trải qua cuộc sống hàng ngày của chúng.
Tu hú, gà lôi, ong mật,.., vẫn tiếp tục kêu, tiếp tục làm việc.
Phân tích câu chuyện này, chúng tơi nhận thấy có sự
thay đổi điểm nhìn diễn ra. Nhân vật xưng “tôi” xuất hiện ở
đầu câu chuyện, tham gia vào câu chuyện với những hoạt
động như chơi đùa, chụp ảnh với bầy chim. Nhưng càng về
sau, nhân vật này càng ít xuất hiện. Khung cảnh được quan
sát dưới điểm nhìn của một người khác, đứng ngồi cuộc
theo dõi mọi thứ mà khơng tham gia vào. Vai trị của nhân
vật xưng tơi đã bị xóa nhịa dần đi. Xét về không gian diễn
ra câu chuyện, là một đất gần đống củi, đó là nơi nghỉ chân
của con người cũng là nơi sinh sống của vô vàn côn trùng,
động vật, cây cối. Những con vật ban đầu xuất hiện với tư
thái “từ xa đên”, “bay đến”, “sà xuống”,... dần trở thành sự
xuất hiện một cách hiển nhiên như chính nó vẫn luôn sống
ở đây, là chủ nhân nơi đây chứ không phải là khách từ xa
đến. Hoạt động của những con vật cũng thay đổi từ đến để
kiếm ăn thành bảo vệ, giữ gìn khu rừng.
Từ đầu câu chuyện, con người vốn đã có mặt tại mảnh
đất này, còn thiên nhiên lại từ xa đến, nhưng cuối cùng, con
người lại rời đi còn thiên nhiên thì vẫn ở lại. Con người là
chủ nhân của nơi đây khi con người có mặt, nhưng con
người vẫn phải rời đi, như tổ tiên của họ, chỉ có động vật,
cây cối sống mãi cùng khu rừng. Chúng là chủ nhân của
rừng.
Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật người kể chuyện
không ngừng nghĩ bản thân là chủ nhân tuy nhiên chúng ta
có thể nhận thấy điều ngược lại. Con người chỉ là một vị
khách lạ bước vào khu rừng này, mà chủ nhân của của khu
rừng thực ra chính là cây cối, sinh vật sinh sống ở đây. Đối
với những sinh vật trong rừng, đó mới là nhà, là địa bàn của
chúng, và con người chính là những vị khách lạ xuất hiện
mà thôi. Con người như một kẻ từ xa đến, bước vào một thế
giới hoàn toàn mới, một thế giới bình yên, đầy sức sống mà
con người ln khao khát. Thế giới tươi đẹp đó là do những
con vật, cây cối, côn trùng,… của tự nhiên tạo nên. Đó
khơng thể là một thế giới mà con người lúc bấy giờ có thể
tạo ra được. Bởi con người không đủ mạnh mẽ, vĩ đại và vị
tha như tự nhiên.
Là chủ nhân của khu rừng, những sinh vật tự nhiên sẽ
đối thoại như thế nào với ơng khách lạ rất tị mị trên?
Vừa để bảo vệ bản thân vừa thể hiện thái độ khơng
chào đón đối với con người. “ Đám chuột chù đuổi nhau
trước lúc đêm về, và trong môi trường quen thuộc của mình
dưới lớp lá hồn diệp liễu, chúng trở nên bất khả xâm phạm
đối với chúng tôi, giống như cá ở dưới nước vậy” [23;55].
Những con chuột chù đã quen thu mình ở nơi kín đáo, càng
sợ hãi hơn trước sự xuất hiện của con người và tất nhiên
chúng khơng có sự tiếp xúc nào với con người cả. Chúng
chỉ sinh hoạt, vui đùa ở nơi mà con người không thể đụng
đến cũng là môi trường quen thuộc như một cách để tự vệ.
“Cơn gió sớm nổi lên thổi đổ cây vân sam ngụy trang
của tôi dựng giữa đồng để có thể núp vào đó trườn đến bên
bầy ngỗng trời. Tôi đi tới để dựng cây lại, nhưng đúng vào
lúc vừa xong việc thì một đàn ngỗng trời xuất hiện. Tơi tận
lực bị vịng quanh cây vân sam để tránh mắt bầy ngỗng,
nhưng sau mấy vòng lượn, thấy cây vân sam dù sao vẫn
đáng ngờ nên chúng bay đi tiếp và đậu xuống cạnh làng
Dubovisa. Tơi liền bị đến tiếp cận chúng từ phía sau một
bụi liễu lớn mọc giữa đồng. Sương giá ban mai phủ trắng
ruộng rạ, và cái bóng của tơi trên nền trắng bị đi trước tơi;
rất lâu tơi khơng nhận ra điều đó, rồi đột nhiên tơi thấy nó,
cái bóng của tôi to lớn và đầy đe dọa, đang tiến dần về phía
đàn ngỗng trời. Cái bóng người khủng khiếp trên nền sương
trắng bỗng giật mình, và đàn ngỗng trở nên náo loạn, chúng
đột ngột kêu lên bằng cả hai trăm giọng, mà mỗi giọng
không hề nhỏ hơn tiếng người hơ “u ra” khi xung phong, rồi
phóng thẳng về bụi cây của tôi. Tôi kịp nhảy vội vào giữa
bụi cây và chĩa khẩu súng hai nòng qua khoảng trống giữa
các thân cây.” [23;234].
Đàn ngỗng đã phát hiện ra sự hiển diện lén lút, không
mấy thân thiện của vị khách lạ. Chúng lặng im, theo dõi và
khơng có phản ứng gì với vị khách đó. Tuy nhiên chúng
đang đề phịng, và khi phát hiện ra chuyển động lạ, chúng
náo loạn và xông lên tấn công kẻ lạ mặt kia. Con vật thường
rất ít khi chủ động tấn cơng nếu như chúng không cảm thấy
bị đe dọa. Con người trở thành mối đe dọa của chúng.
Đa số thời điểm, thiên nhiên là chủ nhân hiếu khách.
Con người bước đến với ngôi nhà của vị chủ nhân này sẽ
được tận hưởng một bầu khơng khí tuyệt vời nhất mà thiên
nhiên đem lại. Những con vật làm chủ khơng khí, chúng
sinh sống, hoạt động, gọi nhau bên cạnh sự hiển diện của
con người mà không hề quan tâm, sợ hãi. Cịn con người
như một vị khách từ xa đến, chống ngợp trước bầu khơng
khí ở nơi đây mà khơng dám ra tiếng làm phiền, chỉ yên
lặng quan sát và cảm nhận phút giây n bình mà thế giới
con người khơng có được này.
“Đi thẳng ra bờ nước, chúng tơi dường như lập tức lạc
vào một xứ sở khác với khí hậu ấm nóng: nơi đây sự sống
sục sơi mãnh liệt, tất cả các lồi chim đầm lầy đều hót ríu
ran; tiếng chim dẽ gà, chim mỏ nhát gọi mái nghe như có
Chú Ngựa Gù (4) đang phi trong khơng khí dần sẫm lại; gà
lôi cũng cất giọng gọi bạn, đàn sếu phát tiếng kèn hiệu của
mình gần như ngay bên cạnh chúng tơi; tóm lại ở đây có tất
cả những gì chúng tơi u mến, đến cả lũ vịt trời đang bơi
cũng dừng lại trước mặt chúng tôi trên mặt nước trong veo.
Và khơng hề có một tiếng động nhỏ nhất nào của con
người: khơng tiếng ht cịi, khơng tiếng động cơ xe
máy…” [23;71].
Cuộc sống nhộn nhịp, bình yên, trong lành là tất cả
những gì mà con người khát khao. Con người cảm thấy dễ
chịu khi được đặt chân đến “ngôi nhà” của thiên nhiên.