1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
TRẦN THỊ HƯƠNG
CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ
(KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Ngành: Văn học, khoá 2004 – 2007
Người hướng dẫn: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN
Học viên thực hiện: TRẦN THỊ HƯƠNG
Hà nội - 2008
3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử nghiên cứu tiểu sử, văn bản thơ Hồ Xuân Hƣơng
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Như chúng ta đã biết xã hội phong kiến Việt Nam lấy Nho giáo làm ý
thức hệ chính thống. Văn hóa vốn có đặc điểm khắc phục cái bản năng. Nhưng
con người lý tưởng của Nho gia là nội thánh ngoại vương, tu kỷ trị nhân. Văn
hoá Nho giáo không chỉ khắc phục mà còn áp chế, kiểm soát đời sống bản
năng, nhất là bản năng tình dục nên đề tài tình dục là hầu như là mảnh đất cấm
kỵ đối với văn học nhà Nho. Nói đến quan hệ tính giao, nói đến quan hệ tình ái
nam nữ trong văn chương là một điều cần né tránh. Tất nhiên, không có đạo
luật chính thức nào qui định không được kể, tả quyền nam nữ được yêu đương
hay làm tình trong văn chương, song các áp lực của đời sống văn hóa xã hội
phong kiến buộc các văn nhân “tự kiểm duyệt” mà né tránh. Trong luận văn
này, chúng tôi gọi gọn lại là “cấm kỵ cái bản năng” để chỉ hiện tượng này. Một
điều hiển nhiên rằng, con người hiện thực phải cân bằng hài hoà cả bản năng
lẫn văn hoá. Nếu con người chỉ có mặt văn hoá, coi nhẹ bản năng là không
tưởng hoặc con người chỉ có mặt bản năng thì không được. Hai điều ấy gắn kết
với nhau như hai mặt của một tờ giấy, để tạo nên một con người hiện thực, tồn
tại trong cuộc sống thực. Có thể cấm đoán bằng mệnh lệnh, bằng các tín điều
đạo đức, thậm chí bằng các hình phạt khắc nghiệt đối với phần bản năng nhưng
không thể tiêu diệt được quyền sống bản năng. Freud đã chỉ ra, cái bản năng
tính dục chỉ bị ý thức đạo đức chèn ép, đẩy xuống hàng tiềm thức và sẽ hiện ra
dưới dạng vô thức. Về phương diện diễn ngôn, bản năng tính dục có thể được
biểu đạt bằng những hình thức ngụy trang che đậy nào đó, nhằm đối phó với
các cấm đoán. Trong mỗi truyền thống văn hóa, ở mỗi thời đại, đối với mỗi thể
loại nghệ thuật, lại có những cách thức đối phó với cấm kị khác nhau. Mảng
4
thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương là một ví dụ sinh động về hình thức
đối phó với cấm kị bản năng trong văn hoá truyền thống Việt Nam bằng ngôn
ngữ thi ca. Hẳn nhiên, bà chúa thơ Nôm không đơn độc trên con đường chống
lại văn hoá bản năng, bà đã kế thừa tinh hoa văn hoá dân gian, văn học dân
gian, phát huy cao độ tài năng vốn có của bản thân để tạo nên tiếng thơ độc
nhất vô nhị trên diễn đàn văn học nước nhà.
Từ trước đến nay, thái độ và cách lí giải đối với vấn đề tục, dâm trong
thơ Hồ Xuân Hương rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Trước cách mạng
tháng Tám, nhiều nhà nghiên cứu cho đó là ẩn ức tính dục như Trương Tửu,
Nguyễn Văn Hanh… Sau cách mạng, Nguyễn Đức Bính, Chế Lan Viên,
Nguyễn Lộc, Lê Trí Viễn và một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng Hồ Xuân
Hương dùng lối viết dung tục, dùng cái tục để chế giễu đạo đức phong kiến,
hiền nhân quân tử, hạ bệ giải thiêng. Gần đây, trong bối cảnh đổi mới nghiên
cứu văn học, Đỗ Đức Hiểu cho rằng đó là ca ngợi sự tự nhiên và Đỗ Lai Thuý
lại nghĩ đó là tín ngưỡng phồn thực, không có dâm tục… Chúng tôi nhìn nhận
những bài thơ gọi là “dâm”, “tục” ấy dưới một góc độ khác, đặt chúng vào hệ
thống các đối phó với cấm kỵ trong văn hoá truyền thống.
Trong xã hội chuyên chế phương Đông, để duy trì quyền uy của giai cấp
thống trị, có nhiều hình thức cấm kỵ khác nhau. Cấm kỵ dễ thấy nhất là quy
định kiêng húy. Hình thức kiêng húy buộc người ta phải viết chữ Hán thiếu nét
hoặc có ký hiệu như dấu nháy và đọc chệch để tỏ rõ có ý thức tôn trọng chữ
húy. Trong văn hóa dân gian, để đối phó với những cấm đoán khắt khe áp đặt
cho quan hệ nam nữ, người xưa đã che dấu cho quan hệ tự do của nam nữ bằng
những kiểu không gian lễ hội khác nhau (không gian đêm rã đám làng La, hang
động tối tăm); để đối phó với can thiệp của triều đình phong kiến Nho giáo hóa
muốn cấm làng xã thờ các loại “dâm thần” vốn là “hèm” của làng xã, người
dân đã đối phó bằng các hình thức che giấu khác nhau như hành lễ vào đêm
khuya, như bịa ra các thần phả đáp ứng đúng yêu cầu triều đình.
5
Luận văn này đặt những bài thơ Nôm đề vịnh của Hồ Xuân Hương vào
ngữ cảnh cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ trong xã hội chuyên chế phương Đông
như thế.
Tất nhiên, là một kiểu nghệ thuật ngôn từ, thơ đề vịnh của Hồ Xuân
Hương có phương cách đối phó với cấm kỵ riêng của nó. Nếu trong văn
chương chính thống của Nho gia, việc miêu tả các cơ quan sinh dục hay quan
hệ tính giao bị xem là cấm kỵ, cần né tránh thì Hồ Xuân Hương đã trực diện
đương đầu với các cấm kỵ đó. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương là sản
phẩm đặc biệt của văn chương trung đại; khi mà các vấn đề của đời sống bản
năng bị xem là vùng đất cấm, các tác phẩm này đã sử dụng những phương tiện
kỹ thuật riêng để xâm nhập vào vùng đất cấm ấy mà vẫn có thể biện minh.
Luận văn của chúng tôi sẽ phân tích cụ thể các kỹ thuật này, xem như ở đây
hàm chứa một đặc trưng quan trọng của thơ Hồ Xuân Hương.
II. TIỂU SỬ HỒ XUÂN HƢƠNG.
Hiện nay, giới ngiên cứu vẫn chưa tìm được tài liệu gốc xác thực nào ghi
rõ ràng tên tuổi, địa chỉ quê quán, năm sinh, năm mất, sáng tác thi ca, phần
mộ… của Hồ Xuân Hương. Do vậy, khi bàn về tiểu sử Hồ Xuân Hương, nhiều
tranh luận diễn ra, có những ý kiến trái ngược nhau. Hồng Tú Hồng, Lữ
Hồ…cho rằng không có nữ sĩ Hồ Xuân Hương, những tác phẩm mà lâu nay gọi
là của Hồ Xuân Hương thực ra là sáng tác tập thể của tầng lớp nho sĩ. Trong
khi, Trần Thanh Mại, Hoàng Xuân Hãn, Đào Thái Tôn, Lê Trí Viễn, Nguyễn
Lộc, Nam Trân, Lê Xuân Sơn, Ngô Cường, Hoa Bằng, Trương Tửu, Nguyễn
Văn Hanh, Xuân Diệu, Đỗ Lai Thuý, Trần Đình Sử, Đặng Thanh Lê, Nguyễn
Hữu Sơn, Vũ Thanh,…khẳng định có một nhà thơ Hồ Xuân Hương bằng da
bằng thịt nhưng chân dung nữ sĩ hiện lên vô cùng rắc rối, và các nhà nghiên
cứu đưa ra nhiều giả thiết khác nhau về cuộc đời của bà.
Tổng hợp các tài liệu thu thập được, chúng tôi tạm đưa ra một “lý lịch
trích ngang” của nữ sĩ họ Hồ: nguyên quán thuộc xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An; là con của Hồ Sĩ Danh (1706 - 1783) với người thiếp họ Hà
6
thuộc tỉnh Bắc Ninh. Chẳng may bố mất sớm, Xuân Hương theo mẹ ra đất
Thăng Long sinh sống. Tương truyền, họ ngụ cư tại phường Khán Xuân, huyện
Vĩnh Thuận gần Hồ Tây (Hà Nội bây giờ), sau đó chuyển đến thôn Tiên Thị,
tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lí Quốc Sư, Hà Nội).
Hồ Xuân Hương được đi học nhưng không nhiều, song có tài năng làm
thơ chữ Hán lẫn chữ Nôm. Xuân Hương giao lưu với các tao nhân mặc khách
như: Mai Sơn Phủ, Tốn Phong Thị, Cư Đình, Thạch Đình, Chí Hiên, Thanh
Hiên, Hiệp trấn Sơn Nam thượng Trần Ngọc Quán, Hiệp trấn Sơn Nam hạ Trần
Quang Tĩnh, Hiệp trấn Trần hầu Trần Phúc Hiển… và họ đều in dấu ấn trong
các bài thơ đối đáp, xướng hoạ với chủ nhân “Cổ Nguyệt Đường”. Đặc biệt
phải kể đến ông Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, người Tiên Điền, (có người
đoán là nhà thơ Nguyễn Du) từng là “người xưa” của Hồ Xuân Hương. Chưa
kể Chiêu Hổ (nhưng khó có thể là Phạm Đình Hổ, tác giả Vũ trung tuỳ bút và
Đông Dã học ngôn thi tập) là bạn trai tri ân cùng người Cổ Nguyệt đối đáp, để
lại nhiều tứ thơ.
Đường chồng con của nữ sĩ đa tài này thật trắc trở, truân chuyên. Tình
duyên hẩm hiu, muộn mằn, đến khi lấy chồng thì “cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”,
hai lần lấy chồng nhưng đều lỡ dở. Hồ Xuân Hương lấy Trần Phúc Hiển đã
phải cảnh vợ lẽ và tiếng thơ khóc chồng của người phụ nữ bạc mệnh vang lên
văng vẳng “Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!”. Tiếp đến, bà lại làm lẽ tổng
Cóc rồi cũng phải khóc chồng: “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!”.
Điều chúng tôi muốn nói thêm về cuộc đời của nữ sĩ là ý kiến của Đào
Thái Tôn trong bài viết: Phải chăng Hồ Xuân Hƣơng trong Xuân Đƣờng
đàm thoại là một kĩ nữ?. Tác giả chỉ đưa ra ý kiến tham khảo chứ không khẳng
định Hồ Xuân Hương là một kĩ nữ. Nàng xuất hiện trong Xuân Đƣờng đàm
thoại là một tài nữ thông thạo “nào đàn, nào cờ, nào rượu, nào thơ” và cuộc
đời riêng chung có thể viết thành một thiên “phong tình tân lục”. Người tài nữ
chẳng thể giữ nổi tấm thân trinh bạch trong môi trường mà mình luôn phải làm
kẻ mua vui, nên phải làm cái việc “cởi đai ngọc, nâng chén vàng”. Hơn nữa,
7
loạt từ “bạc mệnh”, “phù hoa”, “yêu hoa”, “tài hoa”, “tình lang”, “tình
khách”… trong tác phẩm trên đều dùng để miêu tả về Hồ Xuân Hương, loại từ
ngữ này thường dùng chỉ người ca kỹ. Xuân Đƣờng đàm thoại còn trích dẫn
câu thơ trong Ca trù để ca vịnh kĩ nữ:“Nhi nữ hữu duyên lân bạc phận/Anh
hùng vô lệ diệc tâm bi”. Đặc biệt, người đọc dễ dàng nhận thấy phẩm cách
người tài nữ này qua lời nhận xét các nhân vật khác của truyện: “Của lạ gái đẹp
đau khổ/Ả mà không chết, ai người không vương luỵ/Ả mà còn sống, ai là
người vô tình cho được”… Đào Thái Tôn băn khoăn: “Như thế là: Nếu không
kể đến nàng Xuân Hương mà Miên Thẩm đã ngậm ngùi thương cảm trong
“Long Biên trúc chi từ” (trong bộ Thương sơn thi tập), cho đến nay chúng ta
đã có: một Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm; một Hồ Xuân Hương trong
những bài thơ, tư liệu chữ Hán; một Hồ Xuân Hương trong Xuân Đường đàm
thoại và một Hồ Xuân Hương ở Đại An. Đâu là Hồ Xuân Hương – thi sĩ? Và
đâu là Hồ Xuân Hương - ca kỹ? Tại sao những ca kĩ trong Xuân Đường đàm
thoại và Ca trù lại mang tên Hồ Xuân Hương? Ý nghĩa, giá trị của Xuân
Đường đàm thoại?”.
Liên quan đến vấn đề này, Trần Nho Thìn có ý kiến: “Nếu rà lại tất cả
sáng tác kể cả thơ Nôm truyền tụng lẫn thơ Lƣu hƣơng kí và các giai thoại lưu
truyền về Hồ Xuân Hương, chúng ta dễ thấy những dấu hiệu của một người ả
đào, dẫu là một ả đào thượng thặng” [106, 297]. Người phụ nữ trong xã hội
Nho giáo nam quyền, phải thực hiện theo tam tòng tứ đức, công dung ngôn
hạnh khó có thể đi đây đi đó tự do, khó có thể được phép quan hệ tự do với bạn
trai, khó có thể uống rượu như Hồ Xuân Hương trong thơ và giai thoại. Trái lại,
nhân vật Hồ Xuân Hương trong thơ ca, trong giai thoại lại giao tiếp khá rộng
rãi, kết giao với nhiều trí thức văn chương cùng thời và điều này được minh
chứng ở nhiều bài thơ tràn đầy ý tình do nữ sĩ xướng hoạ cùng các bạn trai như
ông Mai Sơn Phủ, ông Tốn Phong Thị, ông Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu, ông
Chiêu Hổ, Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh Tường… Không gian địa lý hoạt động của
nhân vật này cũng khá rộng. Thêm vào đó, người phụ nữ trong thơ còn một cái
8
thú “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”. Bài thơ Bánh trôi có câu viết “Rắn
nát mặc dầu tay kẻ nặn/Mà em vẫn giữ tấm lòng son”, khiến ta liên tưởng đến
thân phận kỹ nữ bị đàn ông giày vò. Song cái điều đáng quý ở cô gái đấy là tấm
hồn cô luôn giữ được “lòng son”, không bị vẩn đục. Tóm lại, “đó là những dấu
hiệu không bình thường so với người phụ nữ theo tiêu chí Nho giáo, nhưng lại
rất tiêu biểu cho một kĩ nữ ả đào” [106, 298].
III. VĂN BẢN THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG
1. VĂN BẢN THƠ CHỮ NÔM
Hiện có trên 100 văn bản chép thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, bao gồm
các bản chép tay, khắc ván chữ Nôm và các bản in chữ quốc ngữ. Trong đó,
đáng chú ý nhất là những văn bản: Âm ca tập, Bách liêu thi tập, Bảo hán châu
liên, Đào Nƣơng thi hiếu ca, Đăng Khoa lục sƣu giảng, Kỳ quan thi, Liệt
truyện thi ngâm, Tạp thảo tập, Lĩnh Nam quần hiền văn thi diễn âm tập,
Nam âm thảo, Quốc âm thi tuyển, Quốc văn tùng ký, Song thất lục bát quốc
âm ca, Thi ca đối liễn tạp lục, Thi ca quốc âm tạp lục, Thi từ ca đối sách,
Liên Hƣơng thi sao, Việt Tuý tham khảo, Quế Sơn Tam nguyên thi tập (văn
bản chép tay); Quốc âm thi tuyển, Xuân Hƣơng thi tập - 1921, Xuân Hƣơng
thi tập - 1992 (văn bản khắc ván chữ Nôm); Hồ Xuân Hƣơng thi tập (văn bản
in chữ Quốc ngữ). Có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian ra đời của các văn
bản trên, trong đó Kiều Thu Hoạch cho rằng, tính đến nay, văn bản Quốc văn
tùng ký được xem là xuất hiện sớm nhất.
Về số lượng văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng có một số ý kiến
khác nhau. Đào Thái Tôn cho rằng thơ truyền tụng của bà có 139 bài. Trần
Thanh Mại công nhận thơ của nữ sĩ có quãng 40 bài. Đỗ Lai Thuý dựa chủ yếu
dựa vào hai cuốn Thơ Hồ Xuân Hƣơng của Nguyễn Lộc và L’oeuvres de la
poétesse vietnamienne của M. Durand chọn lựa được 50 bài thơ. Kiều Thu
Hoạch dựa trên 3 tiêu chí: phải là thơ được in hoặc chép tay bằng chữ Nôm; nội
dung hoặc phản ánh tâm trạng của người phụ nữ về số phận long đong, về tình
duyên lỡ làng hoặc châm biếm, trào tiếu những hiện tượng không bình thường
9
của xã hội và tự nhiên - trữ tính chứ không phải là thứ trào phúng tục nhảm;
hình thức thường sử sụng lối nói lấp lửng (ambivalent), hoặc dùng lối nói song
quan ngữ (mot équivoque), hoặc sử các biểu tượng hai mặt (symbole
équivoque) để chọn ra trong 10 văn bản thơ viết bằng chữ Nôm (Xuân Hƣơng
di cảo, Xuân Hƣơng thi tập - bản khắc năm 1921, Xuân Hƣơng thi tập - bản
khắc năm 1922, Quốc văn tùng ký, Xuân Hƣơng thi sao, Tạp thảo tập, Quế
Sơn thi tập, Xuân Hƣơng thi vịnh, Liệt truyện thi ngâm, Lĩnh Nam quần
hiền văn thi diễn âm tập) 84 bài thơ của Hồ Xuân Hương.
Chúng tôi lập bảng so sánh sự lựa chọn những bài thơ Nôm truyền tụng
Hồ Xuân Hương của hai nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch và Đỗ Lai Thuý (tác
phẩm được tác giả nào lựa chọn thì đánh dấu x).
STT
Tên bài thơ (Kiều Thu
Hoạch)
Tên bài thơ (Đỗ
Lai Thuý)
Đỗ Lai
Thuý
Kiều Thu
Hoạch
1
Ngắm Tây Hồ nhớ bạn
X
2
Hồ Trúc Bạch
X
3
Vịnh Thăng Long hoài
cổ
X
4
Chơi Khán Đài
Chơi đền Khán Đài
X
X
5
Tức cảnh sông Nhĩ Hà
X
6
Giong thuyền chơi
trăng
X
7
Canh khuya
Tự tình (II)
X
X
8
Vịnh đời ngƣời
X
9
Thơ tự tình
Tự tình (I)
X
X
10
Lấy chồng chung
Làm lẽ
X
X
11
Không chồng mà chửa
Không chồng mà
X
X
10
chửa
12
Thƣơng thay phận gái
X
13
Thƣơng ôi phận gái
X
14
Thân phận đàn bà
X
15
Thơ tức sự
Dỗ ngƣời đàn bà
chồng chết
X
16
Cảnh thu
X
17
Qua sông phụ sóng
X
18
Vịnh thuyền gỗ bách -
tức gái goá
Tự tình (III)
X
X
19
Tặng tình nhân
X
20
Qua Nghệ An nhớ bạn
hiền - bài 2
X
21
Thơ Thị Đểu
X
22
Có cảm xúc
X
23
Gửi nữ sĩ Mộng Lan
X
24
Chi chi chuyện ấy
X
25
Ngại ngùng
X
26
Tình có theo ai
X
27
Nguyệt hỡi đê mê
X
28
Đàn gảy
X
29
Ngày hè tìm chồng
X
30
Bà già mê tài khó kén
rể
X
31
Nàng Đào chuộng sắc
chƣa tìm ra chồng
X
32
Thơ vịnh Đá chẹt
X
33
Đá Ông Bà Chồng
Đá Ông Chồng Bà
X
X
11
Chồng
34
Núi Kẽm Trống
Kẽm Trống
X
X
35
Núi Ba Đèo
Đèo Ba Dội
X
X
36
Động Hƣơng Tích
Động Hƣơng Tích
X
37
Quán hàng ở xứ
Thanh
Quán Khánh
X
X
38
Câu đối
Câu đối
X
X
39
Quan Hậu sợ vợ
Một cảnh chùa
X
X
40
Chơi chùa cổ
X
41
Chùa Quán Sứ
Chùa Quán Sứ
X
X
42
Chùa Trấn Quốc
X
43
Chùa Núi Thầy
Hang Thánh Hoá
X
X
44
Chợ Trời núi Thầy
Chợ Trời chùa
Thầy
X
X
45
Hang Cắc Cớ
Hang Cắc Cớ
X
X
46
Qua mái thiền quan
X
47
Qua cửa đó
X
48
Miếu Sầm Thái Thú
Đề đền Sầm Công
X
X
49
Khóc Tổng Cóc
Khóc Tổng Cóc
X
X
50
Khóc quan Vĩnh
Tƣờng
Khóc ông phủ
Vĩnh Tƣờng
X
X
51
Khóc chồng làm thuốc
Bỡn bà lang khóc
chồng
X
X
52
Câu đối khác
X
53
Mời ăn trầu
Mời trầu
X
X
54
Mời khách ăn trầu
X
55
Tiễn ngƣời làm thơ
X
56
Lỡm học trò
Mắng học trò dốt
X
X
12
(I)
57
Mắng học trò dốt
(II)
X
58
Vịnh quả chuông
X
59
Vịnh quan Huấn đạo
X
60
Nƣớc Đằng
X
61
Vịnh trống thủng
Trống thủng
X
X
62
Cái quạt
Cái quạt (I)
X
X
63
Bánh trôi
Bánh trôi
X
X
64
Vịnh cái quạt
Cái quạt (II)
X
X
65
Ốc nhồi
Ốc nhồi
X
X
66
Quả mít
Quả mít
X
X
67
Cái giếng
Cái giếng
X
X
68
Đồng tiền hoẻn
X
69
Dệt cửi đêm
Dệt cửi
X
X
70
Đánh đu
X
71
Tát nƣớc
X
72
Ông cử võ
X
73
Chơi hoa
X
74
Vịnh đánh cờ
X
75
Nắng cực gặp mƣa
X
76
Vịnh ni sƣ
X
77
Chế sƣ
Sƣ hổ mang
X
X
78
Sƣ hoang dâm
Kiếp tu hành
X
X
79
Nhạo sƣ
Sƣ bị ong châm
X
X
80
Vịnh nằm ngủ
Thiếu nữ ngủ ngày
X
X
81
Hỏi trăng
Hỏi trăng
X
X
82
Trăng thu
X
13
83
Vịnh Hằng Nga
X
84
Đề tranh Hai ngƣời
đẹp
Tranh tố nữ
X
X
85
Gái không âm hộ
Vịnh nữ vô âm
X
X
86
Ngã tốc váy làm thơ tự
vịnh
X
87
Bùn bắn lên đồ
X
88
Đi đái bùn nẩy
X
89
Xƣớng hoạ với quan
Tế tửu họ Phạm – Bài
một
Đối thoại – Xuân
Hƣơng (I)
X
X
90
Họ Phạm hoạ lại
Đối thoại – Chiêu
Hổ (I)
X
X
91
Xƣớng hoạ với quan
Tế tửu họ Phạm – Bài
hai
Đối thoại – Xuân
Hƣơng (III)
X
X
92
Họ Phạm họa lại
Đối thoại – Chiêu
Hổ (III)
X
X
93
Đọc cho Chiêu Hổ hoạ
Đối thoại – Xuân
Hƣơng (II)
X
X
94
Chiêu hoạ lại
Đối thoại – Chiêu
Hổ (II)
X
X
Bảng thống kê cho thấy, Kiều Thu Hoạch lựa chọn thơ Nôm truyền tụng
của Hồ Xuân Hương tất cả 84 thi phẩm và Đỗ Lai Thuý lựa 50 thi phẩm. Hai
tác giả này chọn trùng nhau 43 bài. Cả Đỗ Lai Thuý và Kiều Thu Hoạch đều
không nhắc tới Lƣu hƣơng kí, họ chỉ sử dụng thơ Nôm làm tư liệu nghiên cứu.
Dưới đây là bảng so sánh sự sai lệch về tên bài và câu chữ của Kiều Thu
Hoạch và Đỗ Lai Thuý khi lựa chọn thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương để
14
nghiên cứu. (Chúng tôi chép thơ Nôm của nữ sĩ mà Kiều Thu Hoạch đã lựa
chọn từ đó đối chiếu với cách tuyển lựa của Đỗ Lai Thuý).
15
STT
Tên bài thơ
Dòng
Kiều Thu Hoạch
Đỗ Lai Thuý
Kiều Thu
Hoạch
Đỗ Lai Thuý
1
Chơi Khán
Đài
Chơi đền
Khán Đài
3
6
7
Bốn mùa triêu mộ chuông gầm sóng
Nguồn ân trăm trượng dễ chơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá
Ba hồi chiêu…
…muôn…
… nào…
2
Canh
Khuya
Tự tình II
2
3
8
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hƣơng đƣa say lại tỉnh
Mảnh tình son trẻ tí con con
…với…
…đƣa hƣơng…
…san sẻ…
3
Thơ tự
tình
Tự tình I
1
6
Tiếng gà xao xác gáy trên vòm
Sau hận vì duyên để mõm mòm
…văng vẳng… bom
…giận…thƣơng…
4
Lấy chồng
chung
Làm lẽ
3
5
7
8
Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong
… thì…
… hẩm …
Thân…
… thà …
16
5
Không
chồng mà
chửa
Không chồng
mà chửa
1
2
4
5
6
7
8
Cả nể cho nên hoá dở dang
Sự này có thấu hỡi chăng chàng
Phận liễu sao mà nảy nét ngang
Cái tội trăm năm chàng chịu cả
Chữ tình một khối thiếp xin mang
Quản chi miệng thế lời chênh lệch
Chăng thế nhưng mà thế mấy ngoan
… sự …
Nỗi niềm chàng có biết…
… đà …
… nghĩa… nhớ chửa
Mảnh…
… bao …
Không có … có mới…
6
Vịnh
thuyền gỗ
bách
Tự tình III
3
5
6
Lưng khoang tình nghĩa mong đầy đặn
Chèo lái mặc ai lăm đỗ biến
Buồm lèo thây kẻ sắp xuôi gềnh
…dƣờng lai láng
Cầm …
Dong …
7
Đá Ông Bà
Chồng
Đá ông chồng
bà chồng
3
5
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt
Từng…
…nhật…
8
Núi Kẽm
Trống
Kẽm Trống
1
3
5
6
7
8
Hai bên thời núi giữa thời sông
Gió vật sườn non kêu lắc cắc
(Bài này của Kiều Thu Hoạch chỉ có 4
câu)
… thì … thì…
… giật …khua …
Ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng
17
9
Núi Ba
Đèo
Đèo Ba Dội
2
3
4
5
6
7
8
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc
Đƣờng đá xanh rì lún phún rêu
Phƣởng phất chồi thông cơn gió thốc
Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương gieo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo
…tạc
…đỏ loét tùm hum nóc
Hòn…
Lắt lẻo cành…
Đầm đìa lá liễu giọt…
…mà…
…vẫn…
10
Chùa
Quán Sứ
Chùa Quán
Sứ
1
2
3
4
5
6
7
8
Quán Sứ chùa xƣa cảnh vắng teo
Thƣơng ôi sƣ đã hoá ra mèo
Sáng banh vắng kẻ khua dùi mõ
Trƣa trật không ngƣời quét kẽ rêu
Chí chát chày kình im lại đấm
Lầm rầm tràng hạt đếm cùng đeo
Buồm từ rắp cũng sang Tây Trúc
Gió vật cho nên phải lộn lèo
…sao mà
Hỏi thăm sƣ cụ đáo nơi neo
Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trƣa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đƣờng tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo
18
11
Chợ Trời
núi Thầy
Chợ trời chùa
Thầy
1
3
4
5
6
8
Hoá công xây đắp biết bao đời
Buổi sớm gió tuôn trưa nắng dãi
Ban chiều mây họp tối trăng soi
Bày hàng hoa quả quanh năm đủ
Dãi thẻ giang sơn bốn mặt ngồi
Thử lên mặc cả một hai lời
…đã…
… đƣa…đứng
…chơi…
Bầy…tƣ mùa sẵn
…Mở phố…
Chẳng nên…đôi…
12
Hang Cắc
Cớ
Hang Cắc Cớ
2
3
Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom
Kẻ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn
…ra…hỏm…
…mốc…
13
Miếu Sầm
Thái Thú
Đề đền Sầm
công
1
Ghé mắt trông lên thấy bảng treo
…ngang…
14
Khóc Tổng
Cóc
Khóc Tổng
Cóc
1
2
Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi
Chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơi
Ngàn…
15
Khóc quan
Vĩnh
Tƣờng
Khóc ông phủ
Vĩnh Tƣờng
1
2
4
5
6
7
8
Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi
Cái nợ phù sinh có thế thôi
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Nắm xƣơng dƣới đất chau mày khóc
Hòn máu trên tay miệng mỉm cƣời
Đã thế thời thôi cho mát mẻ
Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi
…ông…
…ba …đã trả rồi
Tung hê…
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn khép lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc
…ông…
19
16
Khóc
chồng làm
thuốc
Bỡn bà lang
khóc chồng
2
4
6
7
8
Thương chồng nên phải khóc tì ti
Cay đắng chàng ôi vị quế chi
Quy thân liên nhục tẩm đem đi
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ
Sinh ký chàng ôi tử tắc quy
…mới…
…ơi…
…nhân…mang…
…nhẽ
…ơi…
17
Mời trầu
Mời trầu
Giống nhau
Giống nhau
18
Tiễn ngƣời
làm thơ
Mắng học trò
dốt (II)
1
Dắt díu đưa nhau tới cửa chiền
… đến…
19
Lỡm học
trò
Mắng học trò
dốt (I)
2
3
4
Lại đây chị dạy lối làm thơ
Bƣớm non ngứa lợi châm hoa rữa
Dê bé buồn sừng húc dậu thưa
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong…nọc
…cỏn…
20
Vịnh trống
thủng
Trống thủng
1
2
3
4
5
6
7
Của tôi bưng bít vẫn ngùi ngùi
Nó thủng vì chưng cũng nặng dùi
Ngày vắng trên lầu dăm bảy chiếc
Đêm thanh dƣới gác một đôi hồi
Khi khoan chƣa chán thời khi nhặt
Đánh đứng không thôi lại đánh ngồi
Nhắn nhủ ai về thương đến mấy
…em…bùi…
…kẻ…
…đập tung…
…tỏm cắc…
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến… chiến
…lấy với
20
21
Bánh trôi
Bánh trôi
1
2
4
Thân em thời trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Nhƣng em vẫn giữ tấm lòng son
…vừa…lại vừa…
…mấy…
Mà…
22
Cái quạt
Cái quạt (I)
2
5
6
7
8
Duyên này tác hợp tự ngàn xưa
(Bài này của Kiều Thu Hoạch chỉ có
bốn câu)
…em dính dáng…
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong truớng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
23
Vịnh cái
quạt
Cái quạt (II)
4
5
6
Rộng hẹp ngần nao cắm một cay
Càng nực bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm chẳng chán lại yêu ngày
…nhƣờng nào…cây
…nóng…
…chƣa phỉ…
24
Ốc nhồi
Ốc nhồi
Giống nhau
Giống nhau
25
Quả mít
Quả mít
2
3
4
Da nó xù xì múi nó dày
Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay
Vỏ…sù sì…
…thƣơng thì…cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay
21
26
Cái giếng
Cái giếng
1
2
3
6
7
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông
Giếng tót thanh thơi rất lạ lùng
Cầu trắng phau phau hai ván ghép
Cá giếc le te lội giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai đã biết
…sâu…
…tốt…giếng
…đôi…
…diếc…lách
…chẳng…
27
Dệt cửi
đêm
Dệt cửi
6
Ngắn dài khuôn khổ vẫn như nhau
…cũng…
28
Chế sƣ
Sƣ hổ mang
7
Tu lâu có nhẽ lên sư cụ
…lẽ….
29
Sƣ hoang
dâm
Kiếp tu hành
2
Làm chi một chút tẻo tèo teo
Vị gì…
30
Nhạo sƣ
Sƣ bị ong
châm
Giống nhau
Giống nhau
31
Vịnh nằm
ngủ
Thiếu nữ ngủ
ngày
2
3
4
8
Tiên nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nƣơng long
Đi thì cũng dở ở sao xong
Thiếu…
…biếng…
…lƣng…
…không…
22
32
Hỏi trăng
Hỏi trăng
1
3
4
5
6
8
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con
Đêm tối cớ sao soi gác tía
Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn
Hay có tình riêng mấy nước non
Mấy vạn năm…
…Ngọc Thỏ…
Chớ…
…vắng…chi phô tuyết trắng
…sao nỡ tạnh lòng son
…với…
33
Đề tranh
Hai ngƣời
đẹp
Tranh tố nữ
1
3
4
5
7
8
Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Trăm vẻ như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh
Phiếu mai chăng dám đƣờng kia nọ
Có một thú vui sao chẳng vẽ
Trách người thợ ấy khéo vô tình
Hỏi…
Đôi lứa…
Nghìn…
Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Còn thú vui kia…
…vẽ…
34
Gái không
âm hộ
Vịnh nữ vô
âm
1
2
5
6
7
8
Mười hai mà mụ ghét gì nhau
Đem cái xuân tình cắm ở đâu
Nào ai biết được vông hay chóc
Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu
…chi…
…vứt bỏ…
Đố…trốc
Còn kẻ nào hay…
…thì…đƣợc
Nghìn …nƣơng…
23
35
Xƣớng hoạ
với quan
Tế tửu họ
Phạm –
Bài một
Đối thoại (I)
Xuân Hƣơng
1
2
3
4
Nói năm sao mà lại có ba
Trách người quân tử ở sao ra
Bao giờ ngồi mát chơi cung Nguyệt
Mƣợn hái cho xin ít lá đa
Sao nói rằng năm…
…hẹn sai…
…thong thả lên chơi…
Nhớ…nắm
36
Họ Phạm
hoạ lại
Đối thoại (I)
Chiêu Hổ
1
2
3
Gián năm nhƣng mà quý có ba
Trách nàng vụng tính tính không ra
Khi nào thong thả chơi thềm Quế
Rằng gián thì năm…
Bởi ngƣời thục nữ…
Ừ, rồi…lên chơi nguyệt
37
Xƣớng hoạ
với quan
Tế tửu họ
Phạm –
bài hai
Đối thoại
(III) Xuân
Hƣơng
1
2
3
4
Kìa ai tỉnh, kìa ai say
Kìa ai ghẹo Nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay
Anh đồ…anh đồ…
Sao anh…nguyệt…
Này này chị dạy cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay
38
Họ Phạm
hoạ lại
Đối thoại
(III) Chiêu
Hổ
1
2
3
4
Nào ai tỉnh nào ai say
Nào ai ghẹo Nguyệt giữa ban ngày
Ví dầu hang chẳng cho ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay
ông…ông…
Này ông…nguyệt…
Hang hùm ví bẵng không…
…chốc…
24
39
Đọc cho
Chiêu Hổ
hoạ
Đối thoại (II)
Xuân Hƣơng
2
3
Nhắn nhe toan những sự gầm ghè
Gầm ghè nhưng vẫn còn chưa dám
…gùn…
Gùn…
40
Chiêu hoạ
lại
Đối thoại (II)
Chiêu Hổ
3
Ông ghè chẳng võ ông ghè mãi
…không đƣợc…
41
Quán hàng
ở xứ
Thanh
Quán Khánh
1
6
Đứng tréo trông ra cảnh hắt heo
Một dòng nước biếc cỏ lèo tèo
…theo…
…cảnh leo teo.
42
Câu đối
Qua cửa đó
1
2
Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra
hòn ngược để đơm người đế bá;
Trách con tạo lừa cơ tem hẻm, chuốt
núi xuôi cho lọt khách cổ kim.
…hom …
Gớm… rút rút…
43
Chùa Núi
Thầy
Hang Thánh
Hoá
2
3
4
7
8
Một đố giương ra biết mấy ngàm
Triền đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lạch khe nước rỉ mó lam nham
Đến nơi mới biết rằng Thánh Hoá
Chồn chân mỏi gối hãy còn ham
…ngoàm.
Lƣờn…
Lách…
…hang…
…vẫn…
44
Quan Hậu
sợ vợ
Một cảnh
chùa
4
8
Thứu Lĩnh đen chùm một thứ mây
Đến cảnh sao mà đứng lượm tay
… thức…
Thấy…
25
Qua bảng trên chúng ta thấy, trong toàn bộ 43 bài thơ mà hai tác giả Kiều
Thu Hoạch và Đỗ Lai Thuý lựa chọn có 3 bài thơ (Mời trầu, Ốc nhồi, Sƣ bị ong
châm) - chiếm gần 6,98% là giống hệt nhau về câu chữ, trong khi có tới 93,02%
bài thơ là khác nhau vài chữ trở lên. Về nhan đề, có 11 bài thơ giống nhau
(Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ, Chợ trời núi thầy, Hang Cắc Cớ
Khóc Tổng Cóc, Mời trầu, Quả mít, Cái giếng, Bánh trôi, Ốc nhồi, Quả mít,
Hỏi trăng) - chiếm gần 25,58%; 74,42% bài thơ khác nhau. Những từ ngữ khác
nhau giữa hai văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương do Kiều Thu
Hoạch và Đỗ Lai Thuý lựa chọn thường là những quan hệ từ, đại từ, danh từ…
không ảnh hưởng đáng kể đến nội dung cũng như nghệ thuật bài thơ. Từ đó có
thể nhận xét, sự sai lệch về bài thơ, câu thơ, từ ngữ giữa văn bản khảo sát của
nhà văn bản học chuyên nghiệp Kiều Thu Hoạch và văn bản Đỗ Lai Thúy sử
dụng để nghiên cứu là không quá lớn, không dẫn đến chỗ có thể lật nhào mọi
hình dung xưa nay về mảng thơ vịnh cảnh, vịnh vật và có nghệ thuật nói lái,
chơi chữ.
Chúng tôi dựa vào hai quyển Hồ Xuân Hƣơng hoài niệm phồn thực
(Nxb Văn hoá - Thông tin, năm 1995) của Đỗ Lai Thuý và Thơ Nôm Hồ Xuân
Hƣơng (Nxb Văn học, 2008) của Kiều Thu Hoạch để tuyển chọn những bài thơ
hai nghĩa, trong đó một nghĩa ngầm ẩn nói về bộ phận sinh dục nam nữ, hành vi
tính giao. Theo đó, có tổng cộng 45 bài thơ hai nghĩa của Hồ Xuân Hương, gồm:
Trống thủng, Bánh trôi, Mời trầu, Cái giếng, Cái quạt (I), Cái quạt (II), Quả
mít, Ốc nhồi, Đồng tiền hoẻn, Đối thoại I - Xuân Hƣơng, Đối thoại I - Chiêu
Hổ, Đối thoại II - Chiêu Hổ, Đối thoại III - Xuân Hƣơng, Đối thoại III -
Chiêu Hổ, Đèo Ba Dội, Kẽm Trống, Hang Cắc Cớ, Hang Thánh Hoá, Động
Hƣơng Tích, Quán Khánh, Chùa Quán Sứ, Một Cảnh chùa, Chơi chùa cổ,
Qua mái thiền quan, Đá ông chồng bà chồng, Thơ vịnh đá Chẹt, Qua cửa đó,
Hồ Trúc Bạch, Hỏi trăng, Trăng thu, Vịnh Hằng Nga, Nắng cực gặp mƣa,
Dệt vải, Tát nƣớc, Đánh đu, Chơi hoa, Vịnh đánh cờ, Bùn bắn lên đồ, Ông cử
26
võ, Mắng học trò dốt (I), Bỡn bà lang khóc chồng, Sƣ bị ong châm, Kiếp tu
hành, Vịnh ni sƣ, Chơi khán đài,
Chúng tôi chọn như trên vì các bài thơ này đều liên quan đến vấn đề tính
dục theo một cách thức nào đó. Và chính những thi phẩm này đã gây nên sự
khác biệt trong quan điểm lí giải ở giới nghiên cứu nhiều hơn cả. Trong khi cố
gắng thoát ra khỏi việc tranh luận chúng có tục dâm hay không, chúng tôi sẽ tiếp
cận chúng từ góc độ cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ.
2. VĂN BẢN THƠ CHỮ HÁN
Trước những năm 1960, trong tâm thức độc giả, Hồ Xuân Hương là tác
giả của những vần thơ Nôm ỡm ờ, lấp lửng. Tuy nhiên, từ năm 1963 trở đi, trên
diễn đàn văn học lại “nóng” lên với vấn đề bà chúa thơ Nôm còn là một nhà thơ
sáng tác bằng chữ Hán (Lƣu hƣơng ký có một nửa Nôm nửa Hán, gồm thơ và từ
khúc). Tháng 10 năm 1964, trên Tạp chí Văn học, Trần Thanh Mại giới thiệu
việc phát hiện tập thơ Lƣu Hƣơng ký và từ đây hiện tượng Hồ Xuân Hương lại
càng trở nên phức tạp vì tập thơ chữ Nôm và tập thơ chữ Hán khác nhau về
nhiều phương diện khiến độc giả khó chấp nhận đó là hai tác phẩm của cùng
một tác giả.
Lƣu hƣơng ký là tác phẩm duy nhất ghi rõ ràng tên tuổi tác giả sáng
tác:“Lưu hương ký - Hoan trung Cổ Nguyệt đường Xuân Hương nữ sĩ tập”
(Hoan trung nghĩa là tỉnh Nghệ An, Cổ Nguyệt đường là tên nhà ở của Hồ Xuân
Hương, chữ Cổ ghép với chữ Nguỵêt thành chữ Hồ, chỉ họ tác giả). Tuy nhiên,
người đọc cũng như người nghiên cứu vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng tập Lƣu
hƣơng ký là của nữ sĩ họ Hồ và đều dè dặt, thận trọng khi sử dụng nó.
IV. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU MẢNG THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG
Trong nhiều công trình nghiên cứu, xuất hiện tranh luận sôi nổi về mảng
sáng tác thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, đặc biệt là tranh luận về chuyện
có dâm, tục hay không trong mảng thơ vịnh cảnh, vịnh vật và có nghệ thuật chơi
chữ, nói lái. Thái độ và cách lí giải đối với mảng này của các nhà nghiên cứu rất
khác nhau, thậm chí có những quan điểm trái ngược nhau nhưng nhìn chung, xu