ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HOÀNG BẢO TRÂN
DẤU ẤN VĂN HĨA TRONG ĐỨC PHẬT,
NÀNG SAVITRI VÀ TƠI CỦA HỒ ANH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
Đà Nẵng – 2019
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HOÀNG BẢO TRÂN
DẤU ẤN VĂN HĨA TRONG ĐỨC PHẬT,
NÀNG SAVITRI VÀ TƠI CỦA HỒ ANH THÁI
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số:
8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN TRUNG
Đà Nẵng – 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 6
5. Bố cục của luận văn ..................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ
KỈ XXI VÀ TƯ DUY VĂN HÓA CỦA HỒ ANH THÁI ............................... 7
1.1- Những góc nhìn về văn hố ................................................................................... 7
1.1.1- Văn hoá là một khái niệm mở ........................................................................... 7
1.1.2- Văn hoá và những khái niệm liên quan ............................................................ 9
1.2- Văn hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI ........................................ 13
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học ............................................................ 13
1.2.2. Giao tiếp văn hoá trong văn học đầu thế kỉ XXI ............................................. 18
1.3. Tiểu thuyết Hồ Anh Thái và tư duy văn hóa ..................................................... 21
1.3.1. Cách nhìn văn hóa trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái ................................. 21
1.3.2. Văn hoá Ấn Độ qua tư duy văn hóa của Hồ Anh Thái.................................... 25
CHƯƠNG 2: TƯ DUY VĂN HỐ TRONG ĐỨC PHẬT, NÀNG SAVITRI
VÀ TƠI CỦA HỒ ANH THÁI.......................................................................... 30
2.1. Văn hoá Ấn Độ trong Đức Phật, nàng Savitri và tơi .................................30
2.1.1. Văn hố Ấn Độ giáo trong đời sống người Ấn .....................................30
2.1.2. Phật giáo trong mạch nguồn văn hóa Ấn Độ ........................................32
2.2. Đời sống xã hội Ấn Độ dưới nhãn quan Hồ Anh Thái ...................................... 34
2.2.1. Ấn Độ giáo- tư tưởng văn hóa trong tiềm thức của người Ấn ........................ 34
2.2.2. Nữ quyền trong văn hóa- xã hội của Ấn Độ ................................................... 36
2.2.3. Đời sống tinh thần của con người trong văn hóa Ấn Độ ............................... 40
2.3. Cảm hứng Phật giáo trong Đức Phật, nàng Savitri và tơi ................................. 43
2.3.1. Triết lí của Phật giáo trong văn hóa Ấn Độ .................................................. 43
2.3.2. Một góc nhìn khác về cuộc đời Đức Phật ................................................. 45
CHƯƠNG 3: BIỂU HIỆN TƯ DUY VĂN HỐ TRONG ĐỨC PHẬT,
NÀNG SAVITRI VÀ TƠI CỦA HỒ ANH THÁI ............................................ 51
3.1. Nghệ thuật xây dựng điểm nhìn trần thuật ....................................................... 51
3.1.1. Luân phiên điểm nhìn trần thuật ..................................................................... 51
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật tồn tri khách quan....................................................... 53
3.2. Kĩ thuật xây dựng không- thời gian nghệ thuật ................................................ 55
3.2.1. Sự chồng xếp thời gian thực- ảo ..................................................................... 55
3.2.2. Sự dịch chuyển không- thời gian ..................................................................... 57
3.3. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................................ 59
3.3.1. Ngôn ngữ đậm chất dân gian .......................................................................... 59
3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất triết lí .............................................................................. 62
3.3.3. Ngơn ngữ mang tính giễu cợt .......................................................................... 64
3.4. Giọng điệu trần thuật .......................................................................................... 66
3.4.1. Giọng điệu trữ tình .......................................................................................... 66
3.4.2. Giọng điệu triết luận ....................................................................................... 68
3.4.3. Giọng điệu giễu nhại ....................................................................................... 70
3.4.4. Giọng điệu đa sắc thái .................................................................................... 72
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 81
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hồ Anh Thái “là một gương mặt nổi trội. Ngoài sự sung sức, đều đặn, bền bỉ
trong sáng tạo, ơng cịn tạo ấn tượng đối với bạn đọc bởi ln ln tìm tịi để không
ngừng đổi mới lối viết.” [48]. Vậy nên từ lúc xuất hiện trên văn đàn tới nay, qua những
tác phẩm của mình, tài năng và bút lực của ơng khơng ngừng được khẳng định. Mỗi
tác phẩm của nhà văn đều có sức thu hút đối với độc giả khơng chỉ ở kĩ thuật viết mà
còn ở những cách tân tư duy nghệ thuật, bám sâu vào hiện thực và mổ xẻ nhiều khía
cạnh của các vấn đề xã hội đáng suy ngẫm, đáng bàn về văn hóa, con người đương đại.
Từ đó, chúng ta có thể thấy được những góc khuất trong đời sống của mỗi con người.
Bên cạnh đó, đọc Hồ Anh Thái, độc giả như được giải mã thêm nhiều về vốn văn hố
trầm tích của khơng chỉ dân tộc Việt Nam mà nhà văn đã chuyển hóa thành thế giới
biểu tượng nghệ thuật với cái nhìn đa chiều, sâu sắc. Và không phải ngẫu nhiên, Hồ
Anh Thái được mệnh danh là nhà văn xuất khẩu văn học.
Từng có thời gian sống và làm việc ở nước ngồi, Hồ Anh Thái có cơ hội giao
lưu, tiếp thu và học hỏi nền văn hố của các nước ơng đã từng đặt chân tới. Vì vậy mỗi
một lần lật mở từng trang sách của ông, chúng ta đều không khỏi ngạc nhiên và bị thu
hút mạnh mẽ bởi vốn tri thức văn hố mà ơng đem lại từ những hành trình xê dịch.
Bằng ý thức cách tân trong lối viết của mình, ơng đã mang lại cho độc giả khơng gian
chiều sâu văn hóa đầy sức hấp dẫn khiến ta không thể nào rời khỏi trang sách và gợi
những cách đọc liên văn bản. Từ rừng kim tước đầy tiếng thở dài, chúng ta đến với
không gian khai sinh ra Phật giáo để khơng chỉ tìm hiểu về cuộc đời của Đức Phật mà
còn vẫy tay xin chào Ấn Độ- một đất nước có hơn 5000 năm văn minh rồi chào Ba Tư
với những câu chuyện về Nghìn lẻ một đêm và Nghìn lẻ một ngày nổi tiếng...
Có thể nói rằng, đến với mỗi sáng tác của Hồ Anh Thái, chúng ta như đối mặt với
một thế giới mà ở đó tràn ngập những màu sắc của các nền văn hố khác nhau, thu hút,
gây hứng thú và sự tị mò; gợi cảm hứng đọc cho những ai còn muốn khám phá nghệ
thuật văn chương, tiểu thuyết. Và Đức Phật nàng Savitri và tôi của ông là một trong
những tác phẩm để lại dấu ấn văn hoá rõ nét nhất. Từng có nhiều năm sống và làm
việc tại Ấn Độ, Hồ Anh Thái đã trau dồi và có sự hiểu biết nhất định về con người, đời
sống, văn hoá của nhân dân Ấn Độ. Nhà văn đã mang đến cho chúng ta một bữa đại
tiệc thịnh soạn tràn ngập phong vị Ấn. Vì thế, khi lần mở từng trang sách của Đức
Phật, nàng Savitri và tôi của ông, chúng ta vẫn không thôi ngạc nhiên khi ông thể hiện
sự am hiểu đó trên từng trang viết ở mọi khía cạnh của các vấn đề từ đời sống sinh
hoạt cho tới tín ngưỡng tâm linh hay tư tưởng - suy nghĩ... của cái nơi những điều
huyền bí mà “nếu ta nhìn nó dưới cặp mắt của người Âu thì ta sẽ chỉ thấy nó là một
trị múa rối, khơng hơn khơng kém nhưng nếu ta gạt bỏ các thành kiến, biết đâu ta
chẳng học hỏi thêm được nhiều điều.” [22, 47]. Có thể nói rằng thơng qua Đức Phật,
2
nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái, chúng ta càng hiểu hơn về nền văn hoá của của
một đất nước có bề dày văn minh hơn 5000 năm với nhãn quan văn hóa của một nhà
văn nặng lịng với văn hóa Ấn Độ.
“Văn học biểu hiện văn hố, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trong
tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của
nhà văn.” [45]. Nói cách khác văn hố có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn không chỉ đối
với đời sống cộng đồng nói chung mà cịn đối với đời sống văn học nói riêng. Văn hố
như là một bộ phận khơng thể tách rời, thậm chí có quan hệ mật thiết với văn học. Văn
hố văn học gắn bó với nhau, song hành, hỗ trợ và cùng giúp nhau tồn tại bất chấp sự
nghiệt ngã của lịch sử. Khơng khó để chúng ta nhận ra một câu ca dao, hay một làn
điệu dân ca quen thuộc, bình dị chốn thơn q lại mang trong mình những gì tinh túy
nhất của văn hoá dân tộc được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử và sự biến thiên của
thời gian. Rồi từ trong tư duy folklore, văn hoá dân tộc dần dần được thể hiện một
cách sắc nét qua những tác phẩm của cha ông. Và thông qua những tác phẩm ấy,
chúng ta nhìn thấy được dịng chảy văn hố trong mạch nguồn dân tộc đã được hun
đúc, gìn giữ và lưu lại qua những tác phẩm văn học cổ điển. Để rồi cho tới ngày nay,
khi đất nước rộng mở và hội nhập với thế giới, chúng ta không chỉ lưu giữ tinh hoa
văn hố của dân tộc mà cịn giao lưu, tương tác với những nền văn hoá khác trên thế
giới. Và văn học chính là cầu nối giúp con người có cơ hội học hỏi một cách nhanh
chóng nền văn hóa xử sở khác nằm bên ngồi lãnh thổ của đất nước chúng ta.
Chọn đề tài "Dấu ấn văn hố Đức Phật, nàng Savitri và tơi của Hồ Anh Thái”
đồng nghĩa với việc đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng, triết lí của đất nước Ấn Độ văn
minh, cổ kính và nhận biết cái nhìn của nhà văn về những đặc trưng văn hóa của đất
nước này qua hệ thống hình tượng nghệ thuật nhiều sức ám ảnh. Với lối viết giễu nhại
quen thuộc cùng với sự am hiểu sâu sắc về Ấn Độ, Hồ Anh Thái đã mang lại cho
người đọc một cái nhìn thú vị nhưng cũng kém phần sâu sắc khi ông giúp độc giả đi
ngược dịng lịch sử tìm hiểu cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, về nền văn hố Ấn Độ
cổ xưa với những bộ kinh Vệ- đà nổi tiếng, với những phong tục tập quán đã có từ
ngàn đời...
Là một người từng sống và làm việc ở nước ngoài nhiều năm, với sự hiểu biết về
con người và đất nước Ấn Độ của Hồ Anh Thái, khơng q khi nói rằng ơng là một
nhà Ấn Độ học. Từ Người đứng một chân (1995), Tiếng thở dài qua rừng kim tước
(1998)... cho tới Đức Phật, nàng Savitri và tôi (2007), Namaskar! Xin chào Ấn Độ
(2008)... Ông đã cho ta thấy được một bức tranh toàn cảnh sinh động về đời sống, con
người cũng như nền văn hoá Ấn Độ lâu đời. Riêng với Đức Phật, nàng Savitri và tôi,
ông đã dẫn dắt và đưa người đọc bước vào khơng gian hồn tồn thuộc về Ấn Độ cổ
xưa với những giáo lí của kinh Veda cũng như những câu chuyện của các vị thần được
truyền lại từ đời này sang đời khác. Đời sống chính trị xã hội của đất nước Ấn Độ có
bề dày lịch sử như được tái hiện một cách sinh động và rõ nét khiến người đọc như bị
3
cuốn vào từng con chữ, khiến ta nghĩ rằng ta đang đọc một tác phẩm được viết bởi một
nhà văn Ấn Độ. Chọn đề tài “Dấu ấn văn hoá Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ
Anh Thái” giúp chúng ta có cái nhìn mới về tác phẩm của Hồ Anh Thái. Một góc nhìn
được đi từ văn hố để cảm nhận, lĩnh hội và thẩm thấu những giá trị tư tưởng, đạo đức
hay nhân sinh quan... của đất nước Ấn Độ- cái nôi của Đạo Hindu và Phật giáo.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hồ Anh Thái là một trong những cây bút trẻ dồi dào bút lực của văn học Việt
Nam từ những thập kỉ 80 của thế kỉ XX cho tới này. Với những tác phẩm đầu tiên
mang chất giọng trẻ trung, tươi mới cho tới những tác phẩm hiện tại mang chất giọng
qqgiễu nhại biến hóa, biên độ tưởng tượng và kĩ thuật cài cắm khó lường, mỗi một tác
phẩm của ông đều thu hút sự chú ý của người đọc. Mỗi một tác phẩm, ông đều mang
lại sự mới mẻ cả về nội dung cũng như hình thức. Với những gì ơng đã gặt hái trong
hành trình sáng tác hơn 30 năm của ơng, chúng ta không thể không công nhận, Hồ
Anh Thái là một trong những tác giả có sức viết bền bỉ và sức sáng tạo không ngừng
nghỉ. Bút lực dồi dào, kĩ năng viết điêu luyện, Hồ Anh Thái đã không ngừng cho ra
những tác phẩm có nội dung độc đáo mới lạ, cho ta thấy được thái độ nghiêm túc của
ông trong hành trình sáng tạo nên những con chữ nhằm mang lại cho người đọc những
tác phẩm có giá trị. Cũng chính vì vậy có khơng ít bài viết của các nhà phê bình, nhà lí
luận hay nghiên cứu văn học đã chú ý và tìm hiểu, nghiên cứu các tác phẩm của ơng ở
những khía cạnh khác nhau trên các phương diện từ nội dung cho tới biểu hiện nghệ
thuật, hay các kiểu nhân vật,... trong các tác phẩm của ơng. Có thể kể đến một số bài
viết phân tích, tìm hiểu sau:
Hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái đã đi vào tìm hiểu một số các tác phẩm
của Hồ Anh Thái ở những khía cạnh nhất định về nội dung, nhân vật, tư tưởng, ý thức
của nhà văn trong hành trình sáng tạo để thấy được cái mới lạ, độc đáo trong các tác
phẩm văn chương của Hồ Anh Thái. Bài phân tích cịn đi sâu vào tìm hiểu các tác
phẩm của nhà văn tại xứ Ấn với sự am hiểu về văn hoá, con người của đất nước này
khiến ta khơng khỏi ngạc nhiên. “Có thể nói, anh là người chuẩn bị tương đối đầy đủ
về mặt văn hóa, trong đó có cả những giá trị văn chương (không chỉ văn chương nước
ta mà cả văn chương của nhiều nước trên thế giới) đã trở thành văn hóa. Và càng dấn
thân trên con đường văn chương, nhà văn càng phải hiểu biết sâu hơn về văn hóa.”
[36]
Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc đã cho ta thấy một tác giả khơng ngừng
tìm tịi, sáng tạo nên những cái mới, cái lạ trong tác phẩm của mình, đi sâu vào trong
góc khất trong đời sống con người. Có thể nói rằng, “Hồ Anh Thái đã lao động cật lực
trên từng con chữ như một nhà văn chuyên nghiệp, và, với một vốn văn hóa dày dặn,
anh khơng rơi vào tình trạng tự thỏa mãn mà ln tìm cách bứt phá trên cơ sở kiến tạo
những kiến trúc mới mẻ, táo bạo.” [38]
4
Trong Nhà văn Hồ Anh Thái: Hành trình sáng tạo khơng mệt mỏi, tác giả đã
ghi nhận hành trình sáng tạo không mệt mỏi của ông với những tác phẩm gây được
tiếng vang lớn khơng chỉ trong nước mà cịn với cả nước ngồi, được các tạp chí nước
ngồi ngợi khen. Đặc biệt, với những tác phẩm viết về Ấn Độ, người Ấn Độ đã chào
đón và tiếp nhận. “Tác phẩm của Hồ Anh Thái khi in ra được chính người đọc Ấn Độ
tiếp nhận một cách thích thú. Khơng phải ngẫu nhiên mà học giả K.Pandey, tiến sĩ văn
học người ấn, đã coi đó là “những mũi kim châm cứu á Đơng đã điểm trúng huyệt tính
cách Ấn Độ”, khiến họ đã “nhìn thấy đúng cái bóng đang quẩn dưới chân mình”.”
[44]
Bước chuyển Carnaval hóa trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái lại đi sâu vào tìm
hiểu nghệ thuật Carnaval của Hồ Anh Thái chủ yếu trong tác phẩm Cõi người rung
chng tận thế qua đó cho ta thấy được sự vận động của tiếng cười và thế giới quan
trào tiếu trong tác phẩm của Hồ Anh Thái. Từ bài phân tích, tác giả đã cho ta thấy
được tư duy carnaval hố trong tiểu thuyết của ơng. “Tư duy ấy chi phối quyết định
đến cấu trúc của tất cả các sáng tác ở giai đoạn thứ hai, cho dẫu cường độ tiếng cười
có dao động mạnh yếu ở từng tác phẩm riêng biệt.” [42]
Bên cạnh đó cịn có những luận văn thạc sĩ tìm hiểu các tác phẩm của ơng ở
nhiều khía cạnh khác nhau:
Phan Thị Mỹ Anh (2012) Đặc điểm nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
đi sâu và nghiên cứu đặc điển nghệ thuật trong các tiểu thuyết của Hồ Anh Thái qua
nghệ thuật xây dựng nhân vật trần thuật, kết cấu, cốt truyện; qua các thủ pháp nghệ
thuật như: thủ pháp lạ hố, thủ pháp dịng ý thức, thủ pháp hiện thực huyền ảo; qua
ngôn ngữ tiểu thuyết và giọng điệu tiểu thuyết. Từ đó cho ta thấy được sự sáng tạo và
không ngừng đổi mới trong hành trình sáng tác của ơng.
Mai Thanh Hiền (2013) Phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Anh Thái đi sâu
vào nghiên cứu về thế giới nhân vật, biểu tượng nghệ thuật đậm chất văn hoá và nghệ
thuật trần thuật độc đáo ở điểm nhìn trần thuật, cốt truyện, ngơn ngữ và giọng điệu.
Nguyễn Thị Mơ (2013) Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái nghiên cứu
yếu tố kì ảo trong thế giới hình tượng và yếu tố kì ảo trong kết cấu và ngơn ngữ trong
tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Tác giả đã phân tích mổ xẻ các khía cạnh của yếu tố kì
ảo trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái cho ta thấy được sự táo bạo và mới mẻ khi
nhà văn đưa yếu tố kì ảo vào trong tác phẩm của mình.
Nguyễn Văn Thành (2013) Tiểu thuyết Hồ Anh Thái từ góc nhìn liên văn bản
đã đi sâu vào nghiên cứu về liên văn bản trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái qua hai
phương diện nội dung và hình thức.
Vũ Đình Vụ (2014) Nhân vật tha hoá trong sáng tác của Hồ Anh Thái nghiên
cứu vào các kiểu nhân vật tha hoá và nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hoá của Hồ
Anh Thái cho ta thấy được sự đa dạng trong thế giới nhân vật của Hồ Anh Thái cũng
như các kiểu nhân vật tha hố khơng chỉ trong tiểu thuyết mà cịn cả ở ngồi đời.
5
Khơng khó để nhận ra rằng, các bài phân tích, nghiên cứu hay luận văn đa
phần đều chú ý vào đặc điểm nghệ thuật, hình tượng nhân vật... trong các tác phẩm của
Hồ Anh Thái. Các tác giả đi sâu vào khai thác các khía cạnh khác nhau từ nội dung
cho tới nghệ thuật trong các tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Bên
cạnh đó, các tác giả cũng đi sâu và phân tích các kiểu nhân vật, nghệ thuật trần thuật,
yếu tố kì ảo... trong các tác phẩm của ông.
Khai thác tác phẩm của Hồ Anh Thái thơng qua góc nhìn của văn hố là một
cách nhìn mới mẻ gần như chưa có ai làm ngoại trừ bài viết: Tính liên văn hóa trong
văn xi Việt Nam đương đại (Trường hợp Hồ Anh Thái) cho ta thấy được sự am hiểu
các nền văn hoá của Hồ Anh Thái trong các tác phẩm của ông. Với lượng tri thức mà
ơng có được về con người, văn hố, xã hội ở mỗi một vùng đất ông đặt chân tới, mỗi
một tác phẩm của ông là một câu chuyện về văn hố khiến ta như bị lơi cuốn vào trong
từng con chữ. Trong các tác phẩm của ông, các nền văn hố có cơ hội được giao lưu,
đối thoại với nhau. Những nền văn hoá ấy đặt đứng cạnh nhau, soi chiếu vào nhau để
cho ta thấy được sự tương đồng cũng như khác biệt. “Có thể nói, nhờ cái nhìn liên văn
hóa, Hồ Anh Thái đã mang vào trang văn của mình “tính cộng hợp của những khn
mẫu văn hóa đa dạng” (Choe Hyundok).” [35] Ngồi ra cịn có luận văn Thạc sĩ Trần
Duy Hưng (2016) Đề tài Ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái qua “Tiếng thở dài
qua rừng kim tước” và “Đức Phật, nàng Savitri và tôi”, luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị
Kim Thanh (2012) Văn hoá Ấn Độ trong sáng tác của Hồ Anh Thái là những đề tài
nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu khai thác vấn đề về văn hố trong các tác phẩm của Hồ
Anh Thái. Ngày nay, tuy nghiên cứu văn hố trong văn học khơng phải là điều mới mẻ
đối với các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và cũng khơng cịn q xa lạ đối với
những người quan tâm tới văn học nữa. Song đối với các tác phẩm của Hồ Anh Thái,
đi sâu vào tìm hiểu thơng qua văn hố vẫn chưa thực sự được chú trọng nghiên cứu,
tìm hiểu.
Luận văn này sẽ đi sâu vào tìm hiểu những dấu ấn văn hố trong Đức Phật, nàng
Savitri và tôi của Hồ Anh Thái là một hướng mới trong việc tiếp cận, tìm hiểu, phân
tích một tác phẩm. Đây là một hướng đi mới và không dễ dàng trong việc nghiên cứu,
tìm hiểu một tác phẩm. Bởi văn hố của bất kì quốc gia nào cũng là một kho tàng kiến
thức vô cùng đồ sộ và phong phú. Trong cơng trình này, chúng tơi sẽ đi sâu vào bức
tranh đời sống xã hội, văn hoá của Ấn Độ cổ đại cũng như sức ảnh hưởng của Ấn Độ
giáo và buổi sơ khai của Phật giáo nhằm thấy được văn hoá Ấn Độ được cảm nhận và
soi chiếu qua lăng kính của tác phẩm tiểu thuyết thấm đẫm văn hoá Ấn Độ được viết
bởi nhà văn Việt Nam mang tên Hồ Anh Thái.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh
Thái, nhà xuất bản Thanh Niên, năm 2010
6
- Phạm vi nghiên cứu: Biểu hiện của văn hoá trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi
qua tư duy nghệ thuật và phương thức trần thuật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hồn thành luận văn này, chúng tơi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: đi sâu vào phân tích các đặc điểm văn hố
bên trong tác phẩm. Từ đó đúc rút ra kết luận về những đặc trưng văn hoá đã được tác
giả cảm nhận và vận dụng vào trong tác phẩm.
- Phương pháp tiếp cận văn học từ hệ thống văn hoá: tiếp cận tác phẩm thơng qua
giải mã, phân tích các đặc điểm, kí hiệu văn hố trong tác phẩm nhằm có cái nhìn
khách quan tồn diện về nền văn hố được thể hiện trong tác phẩm.
- Phương pháp hệ thống- cấu trúc: đặt đối tượng nghiên cứu trong chỉnh thể của
tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi để thấy được sự thống nhất, đối thoại giữa tư
tưởng của văn hoá Ấn Độ và tư duy của nhà văn qua đó giúp ta nhìn thấy, cảm nhận
được nhãn quan văn hóa của nhà văn.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: So sánh văn hố Ấn Độ dưới góc nhìn của Hồ
Anh Thái trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi với nền văn hố có bề dày hơn 5000 lịch
sử của Ấn Độ để thấy được tác giả đã tiếp nhận và sáng tạo nó như thế nào vào trong
tác phẩm của mình; đồng thời so sánh những tác phẩm viết về văn hóa tơn giáo của
những tác giả cùng thời để thấy đặc trưng phong cách Hồ Anh Thái.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nhìn nhận các yếu tố biểu hiện của văn
học nằm trong mối quan hệ với văn hố.
- Phương pháp kí hiệu học văn hố: thơng qua các kí hiệu văn hố thẩm mĩ để
giải mã tác phẩm.
- Phương pháp lịch sử- xã hội: dựa trên các đặc điểm lịch sử xã hội để lí giải tác
phẩm.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh m c tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Văn hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI và tư duy văn hóa
của Hồ Anh Thái.
Chương 2: Tư duy văn hố trong Đức Phật, nàng Savitri và tơi của Hồ Anh Thái.
Chương 3: Biểu hiện tư duy văn hoá trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ
Anh Thái.
7
CHƢƠNG 1
VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
ĐẦU THẾ KỈ XXI
VÀ TƢ DUY VĂN HÓA CỦA HỒ ANH THÁI
1.1- Những góc nhìn về văn hố
1.1.1- Văn hố là một khái niệm mở
Văn hoá là một khái niệm mang nội hàm với nhiều cách hiểu khác nhau, có liên
quan mật thiết đến mọi mặt trong đời sống của con người từ vật chất cho tới tinh thần.
Cũng chính vì vậy định nghĩa về văn hoá rất đa dạng và phong phú. Thậm chí mỗi
nước hoặc mỗi châu lục cũng có những định nghĩa riêng về văn hoá tuỳ theo tư tưởng
và quan niệm của người bản địa. Trong ngôn ngữ phương Tây văn hố được viết từ
những động từ có nguồn gốc từ Latinh “Colere” là colo, colui, cultus với hai ý nghĩa
là: giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; cầu cúng. Trong khi đó, ở phương
Đơng, nhất là phía Đơng của châu Á, bởi sự ảnh hưởng sâu rộng của Trung Quốc nên
cách hiểu chữ này có phần khác so với phương Tây. Hai chữ “văn hoá” này lần đầu
tiên xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc vào thời triều Tây Hán do học giả Lưu Hướng
nêu ra. Theo đó, “văn hố nghĩa là “dùng văn để hố”, nói một cách khác, văn hố
tức là giáo hố” [21, 5].
Đến giữa thế kỉ XIX, với sự phát triển của các lĩnh vực như nhân loại học, xã hội
học, dân tộc học... định nghĩa về văn hố cũng đã có sự thay đổi. Nhà Nhân loại học
đầu tiên của Anh, E.B. Tylor là người đầu tiên đưa ra định nghĩa mới về văn hoá.
Trong tác phẩm Văn hoá nguyên thuỷ, ông đã nói rằng: “Văn hóa là một phức thể bao
gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng mọi khả năng
và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được.” [28, 30].
Và từ đó cho tới nay các học giả không ngừng đưa ra những định nghĩa về văn hoá.
Năm 1952, trong quyển Văn hoá- Tổng luận phê phán các khái niệm và định nghĩa,
hai nhà Nhân loại học người Mĩ A. Kroebre và C. Kluckhohn đã thống kê, trích dẫn và
phân tích 164 định nghĩa về văn hoá. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này
(1960), con số các định nghĩa đã tăng lên hơn 200. Và cho tới tận ngày nay, con số này
vẫn không ngừng tăng lên theo cấp số nhân. Song cho dù định nghĩa về văn hố có
nhiều và phức tạp đến đâu, những định nghĩa về nó vẫn nổi lên bốn đặc trưng cơ bản:
tính nhân sinh, tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử. Dưới đây là một số định nghĩa
về văn hố mà chúng tơi tìm hiểu được:
Coi văn hố hố là những sản phẩm nhất định: “Đó có thể là những giá trị,
những truyền thống, những nếp sống, những chuẩn mực, những tư tưởng, những thiết
chế xã hội, những biểu trưng, những ký hiệu, những thông tin... mà một cộng đồng
sáng tạo, kế thừa, và tích luỹ” [28, 31- 32]
Coi văn hố như những q trình: “Đó có thể là những hoạt động sáng tạo,
8
những cơng nghệ, những quy trình, những phương thức tồn tại, sinh sống và phát
triển, cách thức thích ứng với môi trường, phương thức ứng xử của con người...” [28,
32]
Coi văn hoá như một hệ thống giá trị sáng tạo: “Văn hố là một hệ thống giá
trị mang tính biểu tượng do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác với mơi trường tự nhiên và xã hội của mình.” [28, 56]
Nhấn mạnh những quan niệm về giá trị: “văn hóa là các giá trị vật chất và xã
hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập t c, phản ứng cư xử,...)” [32,11]
Nhấn mạnh vào q trình thích nghi, học hỏi, thói quen...: “Tổng thể những
thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn
minh...Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ
thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa.” [32, 11- 12]
Nhấn mạnh vào khía cạnh tổ chức: “ a. Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng
lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã hội; b. Văn hóa là sự kết hợp giữa lối
ứng xử mà các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền
lại nhờ kế thừa.” [32, 12]
Nhấn mạnh vào giá trị sáng tạo: “Văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trinh lịch sử” [21, 5- 6]
Nhấn mạnh vào nguồn gốc: “Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những
gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vơ thức của hai hay
nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau.” [28, 12]
Định nghĩa của UNESCO về văn hố: “Văn hóa nên được đề cập đến như là
một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã
hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngồi văn học và nghệ thuật,
cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.” [49]
Chúng ta có thể thấy, văn hố là một khái niệm có nội hàm sâu rộng và có nhiều
cách hiểu khác nhau liên quan tới mọi mặt của đời sống gồm vật chất và tinh thần. Cho
dù được định nghĩa ở phương diện hoặc lĩnh vực nào, chúng đều có chung một điểm
đó là: văn hố là tất cả sản phẩm vật chất lẫn tinh thần do con người làm ra trong quá
trình hình thành vào phát triển xã hội. Như vậy, bất kỳ sản phẩm nào cũng đều có thể
trở thành một sản phẩm của văn hoá. Mỗi một quốc gia, cộng đồng tộc người với trí
tuệ và khả năng của bản thân sẽ tạo ra một nền văn hố riêng mang những bản sắc
khơng thể bị trộn lẫn với những nền văn hoá khác. Cùng chính bởi vậy, trên thế giới
mới có nhiều nền văn hoá tồn tại, phát triển.
Từ những định nghĩa đã được nêu, chúng ta có thể thấy được sự quan trọng của
văn hoá trong đời sống cũng như sự phát triển của một quốc gia, một tộc người. Nói
rằng văn hố chính là nền tảng phát triển của một đất nước, một xã hội cũng khơng
phải là nói q. Vì vậy, các đế quốc khi xâm lược bất kỳ nước nào đều bằng mọi cách
triệt tiêu, xoá bỏ nền văn hố của nước đó. Và trong lịch sử, Việt Nam đã từng chứng
9
kiến điều này khi trong Chỉ d mười điều của vua Minh Thành Tổ gửi cho tướng Chu
Năng lúc này đang viễn chinh ở An Nam vào năm 1406 đã nói rằng: “Một khi binh
lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì khơng thiêu
hủy [...] Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì
đều giữ gìn cẩn thận, cịn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh
một chữ chớ để cịn” [37]. Tiêu diệt được một nền văn hố là đồng hoá được một tộc
người. Giữ được nền văn hoá là giữ được linh hồn của dân tộc. Chính bởi vậy, dù xã
hội có phát triển tới đâu, dù Cơng nghệ đang có những bước tiến vượt bậc đưa con
người trên khắp thế giới xích lại gần nhau thì các tộc người đang cùng tồn tại trên Trái
đất đều không ngừng cố gắng giữ gìn và phát triển văn hố của mình.
Như vậy, văn hố đóng một vai trị vơ cùng quan trọng và to lớn trong tiến trình
phát triển của xã hội lồi người. Đó là bản sắc, là hồn cốt của một dân tộc, một quốc
gia, không thể bị trộn lẫn với một dân tộc, một quốc gia khác. Cịn văn hố tức là dân
tộc, quốc gia đó cịn tồn tại. Mất đi văn hố dân tộc, quốc gia ấy sẽ tan rã, sẽ bị đồng
hoá. Trên thế giới hiện nay, vẫn còn nhiều dân tộc, quốc gia khơng bị đồng hố.
Những dân tộc ấy, quốc gia ấy dù cho trong quá khứ họ đã phải trải qua bao thăng
trầm, dù cho họ từng đứng trước bờ vực diệt vong vẫn giữ vững giá trị, bản sắc văn
hoá của mình. Dân tộc Do Thái, một trong những dân tộc thơng minh nhất thế giới
từng bị phát xít Đức tìm mọi cách giết hại, tiêu diệt tron thời kì Chiến tranh thế giới II
nhưng họ vẫn kiên cường đấu tranh để giành lấy sự sống và bảo tồn văn hố của mình,
cuối cùn họ trở thành một dân tộc có số phận đặc biệt. Hay như Việt Nam, dù cho bị
phương Bắc đô hộ 1000 năm vẫn giữ vững bản sắc văn hố của dân tộc, giữ gìn những
tinh hoa truyền thống của cha ông, quyết tâm không để dân tộc bị Hán hoá...
Ngày nay với sự tiến bộ vượt bâc của Công nghệ, tri thức cũng như nhận thức
của môi chúng ta càng được nâng cao hơn và chúng ta càng ý thức rõ hơn về bản sắc
văn hoá của dân tộc. Càng nhận thức đầy đủ, chúng ta càng ra sức giữ gìn văn hố dân
tộc được cha ông truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bằng nhiều cách thức khác
nhau, ngày nay các cộng đồng, các quốc gia trên thế giới đang ra sức phát huy cũng
như bảo tồn những giá trị văn hoá từ vật chất cho tới tinh thần để lưu truyền lại cho
hậu thế, để giống nói chúng ta khơng qn đi nguồn cội, gốc gác và những giá trị mà
mà cha ông ta đã cất công xây dựng từ thế hệ này sáng thế hệ khác.
Trong luận văn này, chúng tơi tạm chọn cách hiểu về văn hố của E. B. Tylor:
“Văn hóa là một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tập quán cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành
viên của xã hội đã đạt được.” [28, 30]
1.1.2- Văn hoá và những khái niệm liên quan
Thuật ngữ “văn hoá” là một khái niệm mang nhiều nghĩa khác nhau. Tính đến
hiện tại, trên thế giới đã có khoảng hơn 200 cách hiểu, định nghĩa về thuật ngữ này. Và
dù các định nghĩa có khác nhau tới đâu cũng đều giống nhau ở một nhận định, đó là
10
văn hoá là bao gồm cả sản phẩm từ vật chất cho tới tinh thần của con người. Văn hố
có quan hệ mật thiết đối với đời sống của con người trên tất cả các phương diện, ảnh
hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội của một đất nước, một quốc gia. Có thể nói,
văn hố chính là căn nền, nền móng của một đất nước. Mọi sự phát triển đều phải dựa
vào chuẩn văn hoá do cộng động, dân tộc, đất nước đó quy định. Có như vậy xã hội
mới có thể phát triển bền vững. Bởi mang ý nghĩa rộng lớn như vậy, nên bên cạnh khái
niệm “văn hố” cịn có các khái niệm mang tính chất tương đồng, liên quan tới văn
hố. Trong khn khổ của luận văn, chúng tơi xin trình bày ba khái niệm có liên quan,
gần gũi với văn hố: văn minh, văn vật và văn hiến.
Văn minh trong tiếng Pháp là civilisation, còn tiếng Anh là civilization. Là từ
dùng để chỉ các hoạt động khai hoá, chỉ trạng thái phát triển cả về hai mặt của xã hội
loài người là vật chất và tinh thần nhằm thốt khỏi thời kì ngun thuỷ mơng muội.
Trong khi đó, “văn minh” trong chữ Hán được cắt nghĩa như sau: “Văn” tức là đẹp đẽ,
vẻ đẹp; “minh” là ánh sáng, vậy “văn minh” là khái niệm dùng để chỉ trạng thái tiến bộ
khai hoá trong xã hội lồi người. Từ đó, ta có thể thấy được sự tương đồng trong cách
lí giải về “văn minh” của cả phương Đông lẫn phương Tây. Trong Từ điển tiếng Việt
của Viện Khoa học xã hội Việt Nam- Viện Ngôn ngữ học (1992) đã đưa ra ba cách
hiểu về “văn minh” như sau:
“Văn minh I d. Trình độ phát triển đạt đến một mức nhất định của xã hội loài
người, có nền văn hố vật chất và tinh thần với những đặc trưng riêng. Văn minh Ai
Cập. Ánh sáng của văn minh. Nền văn minh của loài người. II t. 1 Có những đặc trưng
của văn minh, nền văn hố phát triển cao. Một xã hội văn minh. Nếp sống văn minh. 2
(chm.). Thuộc về giai đoạn phát triển thứ ba, sau thời đại dã man, trong lịch sử xã hội
lồi người kể từ khi có thuật luyện kim và chữ viết (theo phân kì lịch sử xã hội của L.
H. Morgan). Lịch sử thời đại văn minh.” [31, 1079]
Như vậy, chúng ta khơng khó để nhận ra mối quan hệ mật thiết giữa văn hoá và
văn minh. Hai khái niệm này có quan hệ khá gần gũi với nhau nhưng lại khơng đồng
nhất với nhau. Trong khi văn hố hướng tới những giá trị mang tính nhân bản, văn
minh lại đề cao sự sắp đặt cuộc sống sao cho tiện lợi. Theo đó, xét về tính giá trị, văn
hố bao trùm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần, cịn văn mình lại hàm chứa ý nghĩa về
các giá trị vật chất nhiều hơn. Như vậy tuy có nhiều cách hiểu khác nhau về văn minh
trong các từ điển, song khi nói về “văn minh”, đều tựu chung một điểm, nó là từ dùng
để nói đến “trình độ phát triển” của một xã hội. Chúng ta hẳn khơng cịn quá xa lạ với
các thuật ngữ như “nền văn minh lúa nước”, “văn minh thời đại đồ đồng”... khi dùng
để chỉ trình độ phát triển của một dân tộc, một quốc gia hay thậm chí là một khu vực
rộng lớn. Khi trình độ phát triển được cải tiến, nâng cấp hơn, nền văn minh đó cũng sẽ
có những bước dịch chuyển thay đổi cho phù hợp. Ngược lại, văn hoá lại mang những
giá trị cội nguồn, bất biến, dù cho lịch sử có đổi thay bao nhiêu, văn hố vẫn được lưu
giữ và bảo tồn.
11
Xét về phạm vi, trong khi văn hố mang tính dân tộc, văn minh lại mang tính
quốc tế, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn. Bởi văn minh mang ý nghĩa thiên về
những giá trị vật chất nhiều hơn, mà vật chất thì dễ trao đổi, phổ biến và nhân rộng.
Người Phoenicia được mệnh danh là “dân tộc trên biển”, trên những chiếc thuyền họ
đi khắp vùng Địa Trung Hải để giao thương, buôn bán với cách thành bang, đô thị của
các nước Hy Lạp, Hittite (vùng Anatolia thuộc Thổ Nhĩ Kì ngày nay), Ai Cập... nền
văn minh của họ dựa vào thương mại hàng hải. Bằng cách giao thương với các nước,
họ đã truyền bá, gây sức ảnh hưởng nền văn minh của mình trên rất nhiều nước. Bằng
chứng là bảng chữ cái Phoenicia được cho là nguồn gốc của bảng chữ cái hiện đại,
thông qua giao thương họ đã phổ biến bảng chữ cái của mình tới Bắc Phi và Châu Âu.
Trong khi đó, văn hố tuy bao hàm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần song lại mang giá
trị tinh thần và tính lịch sử nhiều hơn. Chính bởi vậy, văn hố mang tính dân tộc, gắn
bó nhiều với nền nơng nghiệp của phương Đơng. Có thể nói, các nền văn hố lớn trên
thế giới đều bắt nguồn từ lưu vực của các con sông, nơi phù hợp để sản xuất nông
nghiệp như nền văn hố sơng Nile (Ai Cập), nền văn hố Hồng Hà (Trung Quốc), nền
văn hoá Lưỡng Hà (Tây Á)... là những vùng đất có bề dày lịch sử. Khi nói tới văn hố
chúng ta ln nhắc tới bền dày lịch sử cịn khi nói tới văn minh chúng ta lại nói đến
trình độ phát triển. Một dân tộc có trình độ phát triển cao chưa chắc đã có bề dày lịch
sử, ngược lại một dân tộc có bề dày lịch sử chưa chắc đã có trình độ phát triển cao.
Vậy nên, “Văn hố gắn bó nhiều hơn với phương Đơng nơng nghiệp, cịn văn minh
gắn bó nhiều hơn với phương Tây đơ thị.” [28, 51].
Khi xét trên phương diện tính giá trị, “văn minh” mang ý nghĩa vật chất và gắn
liền với phương Tây, ở phương Đơng cũng có một khái niệm tương ứng, đó chính là
văn vật. Trong từ điển tiếng Việt, văn vật được hiểu như sau: “1 Truyền thống văn hoá
tốt đẹp, biểu hiệu nhiều ở nhân tài trong lịch sử và nhiều di tích lịch sử. Hà Nội là đất
nghìn năm văn vật. 2 (id.). Cơng trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử. Nhà
bảo tàng văn vật.” [31, 1080]. Như vậy, “văn minh” và “văn vật” có nét nghĩa khá là
tương đồng nhau. Nhưng kì thực, giữa chúng lại có sự khác nhau rõ rệt. Văn minh
dùng để chỉ trình độ phát triển của xã hội, mang ý nghĩa thiên về các giá trị vật chất.
Văn vật cũng mang ý nghĩa chỉ các giá trị vật chất nhưng lại là các giá trị vật chất lâu
đời, có bề dày lịch sử. Ở văn vật, chúng ta nhìn thấy tính lịch sử, cũng như bề dày của
thời gian. Văn vật chính là các nhân tài, di tích, cơng trình, hiện vật, những vật chất
mang đậm dấu ấn của q khứ. Trong văn hố, nó thể hiện bề dày của quá khứ. Trong
khi đó, văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, cho biết trình độ phát triển của văn hố.
Nếu như, khi nhắc đến nền văn minh thời đại đồ đồng cho chúng ta biết được ở thời kì
đồ đồng, con người đã biết sử dụng đồ đồng để làm ra trống, dụng cụ săn bắn hay vũ
khí, nói đến những văn vật như trống đồng các dụng cụ săn bắn, vũ khí bằng đồng
chúng ta sẽ được nhìn thấy khơng chỉ hiện vật mà cịn cả nền văn hố của thời kì đồ
đồng cũng như những lớp trầm tích lịch sử trên các hiện vật đó. Chính bởi vậy, so với
12
văn minh, văn vật mang ý nghĩa sâu hơn. Bởi nó thể hiện cả truyền thống văn hố
cũng như bề dày lịch sử. Nó thể hiện được sự phong phú của văn hoá ở mặt vật chất
của một dân tộc, một quốc gia trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân
tộc, quốc gia đó. Cịn văn minh, chỉ dừng lại ở mức độ trình độ phát triển của một thời
đại, đồng nghĩa với việc phạm vi vật chất mà nó thể hiện cũng chỉ gói gọn trong một
thời đoạn nhất định của dòng chảy lịch sử.
Đối với các nước phương Đông, văn vật là một phần của văn hoá, mang ý nghĩa
chỉ các giá trị vật chất lâu đời, có bề dày lịch sử, văn hiến mang ý nghĩa của phần cịn
lại của văn hố. Đó là những giá trị tinh thần, những truyền thống lâu đời vẫn cịn lưu
giữ được cho tới tận ngày nay, khơng bị tàn phá, huỷ hoại. “Văn hiến d. Truyền thống
văn hố lâu đời, tốt đẹp.” [31, 1079]. Trong khi đó, Khổng Tử trong Luận Ngữ lại nói
về văn hiến như sau: “Lễ của đời Hạ, ta có thể nói được, nhưng nước Kỉ (nước còn
bảo tồn lễ của đời Hạ) khơng đủ chứng minh; lễ của đời Ân, ta có thể nói được, nhưng
nước Tống (nước cịn bảo tồn lễ của đời Ân) khơng đủ chứng minh. Đó là vì văn hiến
khơng đủ, nếu đủ thì ta có thể chứng minh.” [21, tr 6].
Xét theo những gì Khổng Tử nói, văn hiến dùng để chỉ chung sử sách cũng như
các chế độ chính sách. Mà có sách, có chữ viết chứng tỏ dân tộc đó đã bước vào thời
kì văn minh. Vậy nên, khi chưa có cách hiểu về văn hiến như ngày nay thì văn hiến
chính là văn minh. Trong một cách hiểu khác, văn hiến dùng để chỉ sách vở văn
chương hay hiền tài của một đời còn lại. Trong Bình Ngơ Đại Cáo của Nguyễn Trãi có
đoạn như sau:“Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Sơn hà
cương vực đã chia, phong t c Bắc Nam cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền
độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có
lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” [41, 92]
“Văn hiến” trong trường hợp này được hiểu như sau: “Văn” là văn chương, sách
vở; “hiến” là hiền tài, người tài. Như vậy “văn hiến” nghĩa là sách vở văn chương của
một đời nào hay của một người hiền nào đó cịn sót lại. Bởi vì là sách vở của một đời,
hay của người hiền cịn sót lại nên văn hiến mang giá trị tinh thần do người tài đức
hoặc của sản phẩm có giá trị tinh thần một đời nào đó được ghi chép và truyền lại.
Cách hiểu này, phù hợp với cách hiểu về văn hiến ngày nay, là những giá trị tinh thần,
truyền thống lâu đời được truyền lại cho tới ngày nay, không bị các tác nhân khác huỷ
hoại, triệt tiêu.
Là một phần của văn hoá, văn hiến mang trong mình những giá trị tinh thần,
truyền thống lâu đời của dân tộc được giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nó là sản phẩm tinh
thần gắn chặt với đời sống của con người. Chiếu theo cách hiểu này, những sản phẩm
của văn hiến là các lễ hội, những phong tục tập quán truyền thống của dân tộc trên
khắp mọi miền đất nước cịn được lưu giữ và duy trì cho tới tận ngày nay. Thông qua
các lễ hội ấy, những phong tục, tập quán đó chúng ta có thể biết được cách thức sinh
hoạt của cha ông ta trong quá khứ, hiểu được những giá trị tư tưởng, những bài học, tri
13
thức mà cha ông ta đã truyền tải vào trong từng sản phẩm tinh thần ấy nhằm răn dạy
con cháu, thế hệ sau những bài học về đạo lí, nhân nghĩa.
Nhìn chung, các khái niệm văn văn minh, văn vật, văn hiến có sự tương đồng và
khá gần gũi với nhau cũng như với văn hoá. Song nếu xét kĩ ngữ nghĩa, chúng ta sẽ
nhìn thấy những điểm riêng biệt khơng thể lẫn lộn được. Trong khi khái niệm “văn
hố” mang ý nghĩa bao trùm lên cả những giá trị vật chất cùng như tinh thần, khái
niệm “văn minh” lại thiên về vật chất, dùng để chỉ trình độ phát triển trong một thời kì.
Văn hố mang tính dân tộc và tính lịch sử của một dân tộc, văn minh lại mang tính phổ
qt, dễ dàng nhân rộng chính vì thế nó mang tính quốc tế hơn. Nếu văn minh gắn liền
với phương Tây thị thành, văn vật lại gắn liền với phương Đông với nền nông nghiệp
lúa nước. Tuy đều dùng để chỉ về những giá trị vật chất, song ở văn vật lại ẩn chứa
tính lịch sử và bề dày thời gian. Hay nói cách khác, văn vật là khái niệm dùng để chỉ
những giá trị vật chất của văn hố. Cịn văn hiến chính là phần cịn lại của văn hoá, giá
trị tinh thần, truyền thống lâu đời của một dân tộc. Đó là những lễ hội, những phong
tục tập quán dọc miền đất nước được cha ông ta lưu giữ, truyền lại cho con cháu, cho
hậu thế tới tận ngày nay. Thơng qua đó nó mang những giá trị tinh thần sâu sắc, những
bài học to lớn về đạo lí, truyền thống của dân tộc. Từ những đặc điểm trên, chúng ta có
thể nhìn ra những điểm tương đồng cũng như khác biệt trong từng khái niệm. Từ đó,
chúng ta có được cách sử dụng các khái niệm chính xác hơn khi đề cập đến những vẫn
đề liên quan đến văn hố.
1.2- Văn hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học
Văn học và văn hoá từ lâu đã có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động lẫn
nhau. Có thể nói văn hố có sức ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả các lĩnh vực của đời
sống từ văn học- nghệ thuật, triết học, chính trị- tư tưởng, giáo dục... đồng thời thơng
qua các lĩnh vực này văn hố được duy trì, gìn giữ và phát triển. Riêng đối với văn
học, văn hoá có mối quan hệ mật thiết hơn cả. Trong suốt chiều dài phát triển của lịch
sử đất nước, văn học và văn hố ln đi đơi, song hành cùng với nhau. Trong khi văn
hoá là chất liệu cho văn học, văn học lại là nơi lưu giữ và truyền bá tinh hoa văn hoá.
Văn hoá và văn học cùn son hành, hỗ trợ nhau tồn tại và phát triển bất chấp sự khắc
nghiệt của thời gian hay sự biến thiên của lịch sử. Nhờ có mối quan hệ mật thiết và
chặt chẽ này, văn hố và văn học mới có thể tồn tại cho tới ngày nay và tạo nên những
giá trị to lớn lưu truyền cho hậu thế.
Lấy văn hố là một trong những ngun liệu của mình, văn học đã phản ánh, tái
hiện lại phần nào văn hoá. “Tác phẩm văn học nào cũng mang trong nó tính văn hoá,
dấu ấn văn hoá ở các mức độ khác nhau.” [3, 136] Với sự hiểu biết của mình, các nhà
văn đã chắt lọc để chọn ra phần tinh tuý nhất của văn hoá đưa vào trong tác phẩm văn
học của mình, làm nên một nét đẹp văn hố trong văn chương. Lần mở những áng văn
từ thời xa xưa, chúng ta khơng khó để bắt gặp, nhìn thấy những dấu ấn mà văn hoá đã
14
lưu lại trong văn học. Những tác phẩm như Truyền kỳ mạn l c của Nguyễn Dữ, Lĩnh
Nam chích quái tương truyền của Trần Thế Pháp hay thơ văn của Hồ Xuân Hương (tục
ngữ, câu đố, trò chơi...)... trong thời kỳ Trung đại cho tới truyện ngắn của Nguyễn
Tuân, Nguyễn Minh Châu, kịch của Nguyễn Huy Tưởng... của thời kỳ Hiện đại, chúng
ta đều nhìn thấy bóng dáng của văn hố. Từ đó, có thể nói rằng, văn hố và văn học có
mối quan hệ, sự liên kết mạnh mẽ với nhau. Khơng có bất kỳ tác phẩm văn học nào
khơng mang dấu ấn của văn hố. Văn hố gắn kết một cách chặt chẽ, vững chắc với
văn học để tạo nên tính văn hố trong các tác phẩm văn chương. Nhờ vậy, chúng ta có
được những áng văn cịn sống mãi với thời gian mà đọng lại trong đó là những gì tinh
t nhất của văn hố dân tộc. Và thông qua những trang viết ấy, các thế hệ hậu bối
càng thêm hiểu hơn, trân trọng hơn những tinh hoa văn hoá dân tộc được các thế hệ tổ
tiên giữ gìn, truyền lại từ đời này sang đời khác.
Văn hoá là tổng hợp tất cả những sản phẩm từ vật chất cho tới tinh thần trong quá
trình xã hội lồi người hình thành và phát triển. Chính bởi vậy, khi đi vào văn học, văn
hoá được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Bản thân các tác phẩm văn chương
cũng là một sản phẩm tinh thần của một thời đại lịch sử của con người khi nó phản ánh
đời sống xã hội, đời sống tinh thần, tư tưởng- triết lí,... bộ mặt của thời đại lịch sử nhất
định. Có thể nói rằng, văn học cũng chính là một sản phẩm văn hố. Với những gì văn
học đã thể hiện, văn hoá đã đi vào trong văn học với mn hình vạn trạng giúp tăng
thêm giá trị cho một tác phẩm văn học. Từ nhiều góc độ khác nhau, văn hoá đã đi vào
trong văn học, giúp văn học lưu giữ lại những gì tinh tuý nhất của văn hố. Qua cái
nhìn của các tác giả văn học, văn hố được nhìn nhận dưới nhiều góc nhìn khác nhau
thể hiện sự tiếp nhận, hấp thụ và tiếp biến của tác giả về văn hố trong các tác phẩm
của mình. Và dù cho được nhìn nhận dưới góc độ nào, tất cả đều tựu chung một điểm
chính là họ đã chắt lọc phần tinh tuý nhất của văn hoá để đưa vào trong tác phẩm của
mình để giúp người đọc cảm nhận, thẩm thấu những giá trị mà nó mang lại.
Thơng qua một tác phẩm văn học chúng ta có thể nhìn thấy phương thức sản xuất
của người xưa, thời đại chưa có khoa học- kĩ thuật và con người phải lao động bằng
tay chân. Ở góc độ này văn học đã phản ánh cách lí giải của người xưa về thiên nhiên
cũng như ứng xử của họ đối với mẹ thiên nhiên. Chúng ta có thể kể đến một số truyện
như Sơn Tinh- Thuỷ Tinh, Cóc kiện trời, Thần tr trời... Thơng q đó, chúng ta có thể
nhìn thấy cách ứng xử của người xưa đối với môi trường sống xung quanh mình,
những thứ gắn chặt với đời sống tinh thần của con người. Những thứ ấy đi vào trong
văn học đã trở thành những biểu tượng mang giá trị tinh thần to lớn, thể hiện tâm tư,
tình cảm của những người dân lao động chất phác có tâm hồn phong phú, tình cảm dạt
dào. Cây đa- bến nước- sân đình trở thành biểu tượng của làng quê Việt, là nơi đơi ta
hị hẹn:
15
“Cây đa bến nước sân đình
Thành nơi hị hẹn chúng mình u nhau
Về nhà chẳng nói mẹ đâu
Xốn xang với việc lần đầu gặp anh”
(Ca dao)
Núi- sông (biển/ bể) trở thành biểu tượng cho công lao dưỡng dục của đấng sinh
thành để răn dạy những người con về đạo nghĩa của chữ “Hiếu”:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngồi biển đơng
Núi cao biển rộng mênh mơng
Cù lao chín chữ ghi lịng con ơi!”
(Ca dao)
Con cị là biểu tượng cho người nông dân lam lũ ngày ngày phải vất vả làm việc
để kiếm một bữa cơm cho gia đình hay chiếc khăn là hình ảnh của nỗi nhớ, cây tre thể
hiện sự bất khuất kiên cường.
“Con cò mà đi ăn đêm,
Ðậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ơng ơi ơng vớt tơi nao!
Tơi có lịng nào, ơng hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Ðừng xáo nước đ c đau lòng cò con.”
(Ca dao)
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi khơng n một bề…”
(Ca dao)
Tất cả được cha ông đúc kết lại, đi vào trong văn học trở thành biểu tượng của
văn hoá được lưu truyền ngàn đời. Những biểu tượng ấy không chỉ là những biểu
tượng trong văn học mà còn là biểu tượng của văn hoá được các thế hệ tiếp bước nhau
lưu giữ từ đời này sang đời khác.
16
Văn học còn phản ánh lại cách giao tiếp- ứng xử giữa người với người, những
phép tắc lễ nghĩa, tục lệ đã và đang được giữ gìn. Đó là lối ứng xử giữa người với
người mà chúng ta có thể bắt gặp trong bất kỳ tác phẩm văn học nào. Nó đi sâu vào
trong tiềm thức của mỗi người và được cha ông ta đúc rút, lưu giữ lại từ đời này sang
đời khác. Các tác phẩm văn chương trình bày lại câu chuyện theo một trình tự nhất
định, các nhân vật trong tác phẩm được đặt vào trong một mối quan hệ nhất định có
những hành động, ứng xử phù hợp với đạo đức, văn hoá của một quốc gia. Có thể nói,
tuy cùng một motif, một thể loại, song với nền văn hố khác nhau sẽ có những hành
động, ứng xử sao cho phù hợp với nền văn hố đó. Chính bởi vậy, tuy rằng chúng ta có
thể tìm thấy những điểm chung giữa các tác phẩm khi nó có chung một motif nhưng
nó lại mang dấu ấn văn hố hồn tồn khác nhau. Văn hố của dân tộc, quốc gia đó đã
tác động tới hành động và ứng xử của tác giả được thể hiện qua các nhân vật trong tác
phẩm văn học. Bởi các hành vi ứng xử đó đều mang đậm dấu ấn văn hố của dân tộc,
quốc gia đó. Vậy nên, khi đọc những tác phẩm có cùng motif, cùng thể loại chúng ta
vẫn phân biệt và nhận ra xuất xứ của mỗi tác phẩm.
Các motif mẹ ghẻ con chồng, nhân quả, thần đồng- hiền tài... là những motif
thường gặp trong các câu chuyện cổ tích của các nước. Chúng ta có thể bắt gặp hình
ảnh người mẹ kế độc ác, những con người có tính đố kị, ganh ghét, những kẻ chun
làm chuyện ác... trong bất kỳ câu chuyện nào. Nhưng hành động và ứng xử của các
nhân vật trong cuộc lại hoàn tồn khơng giống nhau. Ấy là bởi nền văn hố cùng với
những quan niệm của con người trong cộng đồng đó đã quy định cách ứng xử, giải
quyết vấn đề, mâu thuẫn trong truyện. Mỗi một quốc gia với nền văn hố khác nhau sẽ
có những hành xử, lễ nghi... khác nhau. Những thứ ấy sẽ trở thành chuẩn mực, thước
đo trong văn hố của nơi đó. Khi đưa vào văn học, nó đã trở thành nét đặc trưng văn
hố của quốc gia đó, giúp ta hiểu rõ hơn cách ứng xử và phần nào hiểu rõ hơn tâm
hồn, tinh thần của cộng đồng người ấy. Từ đó, chúng ta sẽ tìm ra sự khác biệt, bản sắc
về văn hố của các quốc gia khi có những câu chuyện thuộc cùng một thể loại, motif.
Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học cịn có thể được nhìn thấy thơng qua hệ
thống các nhân vật. Mỗi một thời đại lịch sử nhất định sẽ tạo ra những hình mẫu con
người, lí tưởng hố ước mơ, hồi bão, khát vọng của một cộng đồng trong giai đoạn
đó. Mỗi một cộng đồng, trong một giai đoạn nhất định của lịch sử sẽ có những hình
mẫu nhân vật lí tưởng riêng của mình. Cùng trong một thời kì phong kiến, cũng trong
giai đoạn thối nát của các tập đồn phong kiến, hình tượng con người lí tưởng ở
phương Tây là những chàng hiệp sĩ tài ba có xuất thân cao q cịn ở phương Đông là
những người anh hùng “vai năm tấc rộng thân mười thước cao”. Có thể nói rằng, hình
mẫu nhân vật lí tưởng trong văn học là kết tinh cao nhất trong văn hố của một cộng
đồng. Thơng qua hình mẫu nhân vật đó, chúng ta khơng chỉ nhìn thấy được ước mơ
hồi bão mà cịn thấy được những phẩm chất cao đẹp của họ, được họ gửi gắm vào
trong nhân vật của mình. Họ chỉ tồn tại trong một thời đoạn nhất định, gắn liền với sự
17
phát triển của cộng đồng đó trong một giai đoạn. Trong thời kì trung đại, chúng ta
khơng khó để bắt gặp hình ảnh người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất ra sức giúp
dân giúp nước như Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão; hay hình ảnh những con người hoài
cổ, nhớ về một triều đại vàng son của đất nước như Qua đèo Ngang của Huyện Thanh
Quan. Đến khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, hình ảnh nhân vật lí tưởng là
những người nơng dân cầm cuốc, gậy gộc đứng lên chống lại quân xâm lược qua bức
tranh đẹp rực rỡ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Sau này
là những người nơng dân mặc áo lính, sẵn sàng cầm súng bảo vệ đất nước, họ là những
người lính cụ Hồ với dáng đứng hiên ngang, với sự quả cảm kiên cường, một lòng
đánh đuổi quân thù, bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Đi vào trong văn học, những
con người ấy đã trở thành những tượng đài bất tử, không sao thay thế được. Những
hình tượng ấy khơng chỉ là những tượng đài trong văn học mà còn là kết tinh văn hoá
của cả một cộng đồng. Bởi họ đã mang trong mình hồi bão, khát vọng, lí tưởng của
một thời đại trong lịch sử của dân tộc.
Hình tượng nhân vật lí tưởng trong văn học cịn thể hiện trình độ phát triển của
một nền văn hố. Bởi nó mang trong mình những phẩm chất của một cộng đồng, vậy
nên trình độ văn hố phát triển tới đâu, văn học thơng qua hình tượng nhân vật lí tưởng
sẽ phát triển tới đó. Cũng chính nhờ vậy mối quan hệ giữ văn hoá và văn học càng trở
nên mật thiết và gắn bó chặt chẽ với nhau. Văn học đã phản ánh lại gần như trọn vẹn
tiến trình cũng như sự phát triển văn hoá của một tộc người, của nhân loại. Như vậy, ta
có thể nhìn thấy được rằng, văn hố khơng phải là một thực thể khơ cứng, nó có sự
phát triển và vận động của mình. Nó tn thủ theo các chuẩn mực văn hố cũng như
quy mơ của sự phát triển đó. Văn hố thâm nhập vào trong mọi lĩnh vực của đời sống
và cùng phát triển với các lĩnh vực đó. Chính bởi vậy khơng khó để ta cảm nhận được
bóng dáng của văn hố trong các tác phẩm văn học từ thuở bước đầu hình thành cho
tới lúc đạt tới trình độ phát triển cao, rực rỡ.
Buổi bình minh thành lập nhà nước, cha ơng ta đã nhờ vào sức mạnh của thần
linh để bảo vệ đất nước, An Dương Vương nhờ có chiếc nỏ thần của thần Kim Quy đã
chống lại giặc phương Bắc, hay cậu bé Gióng đã lớn nhanh như thổi để đánh tan giặc
Ân rồi cưỡi ngựa bay về trời cho tới khi con người bước ra khỏi thời kì mơng muội,
phát triển về trình độ lẫn tri thức họ đã biết dựa vào sức lực của chính mình để bảo vệ
bờ cõi dân tộc cho tới thời đại Hồ Chí Minh, cha ông ta đã “xẻ dọc Trường Sơn cứu
nước” với những vũ khí do chính chúng ta sáng tạo ra để chiến đấu lại với kẻ thù được
trang bị vũ khí tối tân của thời bấy giờ. Đến thời hiện đại, hình ảnh con người khơng
ngừng vươn cao vươn xa để chiếm lĩnh lấy trí thức khoa học của nhân loại đi vào trong
văn học thể hiện cho truyền thống hiếu học, cho ý chí khơng ngừng vươn lên của con
người đất nước Việt Nam bất chấp mọi khó khăn gian khó.
Giữa văn học và văn hố có mối quan hệ mất thiết với nhau. Văn hoá là nguyên
liệu cho văn học và xuất hiện trong văn học dưới nhiều mã khác nhau. Trong khi đó,
18
thông qua văn học, chúng ta càng hiển hơn về văn hố của một quốc gia, một dân tộc.
Thơng qua văn học, văn hoá cũng được lưu giữ một cách cẩn thận và gần như trọn vẹn
những gì tinh tuý nhất của nó. Văn học gắn liền với văn hố ở mọi khía cạnh phản ánh
như phương thức sản xuất, cách ứng xử với thiên nhiên, ứng xử giữa người với người
hoặc motif truyện, hình tượng nhân vật lí tưởng... Văn học đã giúp văn hoá lưu giữ gần
như trọn vẹn những gì tinh t nhất của cha ơng từ tri thức, lí tưởng cho tới lễ nghĩa,
ứng xử. Chính bởi vậy, văn học và văn hố có mối quan hệ mật thiết với nhau, tương
tác, nâng đỡ nhau cùng tồn tại, phát triển. Mối quan hệ này gắn bó chặt chẽ và không
thể tách rời nhau. Nếu một trong hai yếu tố của mối quan hệ này khơng cịn nữa, yếu
tố cịn lại cũng sẽ khơng thể tồn tại được. Nói như vậy là để thấy được sự gắn kết chặt
chẽ giữa văn học và văn hoá. Văn học nếu khơng có văn hố sẽ khó lịng tồn tại được.
Văn hố nếu thiếu văn học vẫn có thể thơng quan các phương tiện khác để tồn tại
nhưng lại mất đi phương tiện tốt nhất, hiệu quả nhất để lưu giữ hồn cốt, bản sắc của
mình. Các điệu múa hay bản nhạc cổ xưa có thể bị thất truyền bởi khơng có truyền
nhân; các cơng trình kiến trúc có thể bị hư hại theo tháng năm; các tác phẩm hội hoạ,
điêu khắc có thể khơng cịn ngun vẹn bởi những lí do khách quan duy chỉ có văn
học là vẫn mãi tồn tại một cách bền bỉ và mạnh mẽ. Vì vậy, văn học càng phát triển
mạnh mẽ càng chứng tỏ được rằng văn hố đã lựa chọn cho mình phương tiện lưu giữ
tối ưu, hiệu quả.
1.2.2. Giao tiếp văn hoá trong văn học đầu thế kỉ XXI
Thế giới đang ngày một phát triển, nhân loại đang không ngừng nỗ lực tiến về
phía trước, hướng tới tương lai. Cùng với sự phát triển và tiến bộ của khoa học công
nghệ, con người từ khắp mọi nơi trên thế giới đang được kết nối, xích lại gần nhau ở
mọi phương diện, trong đó có cả văn hố. Đời sống càng đủ đầy, con người càng có
nhận thức bồi dưỡng tâm hồn cũng như tri thức. Cách tốt nhất để hiểu được tri thức
của một quốc gia đó chính là tìm hiểu, khám phá văn hố của quốc gia đó. Bằng nhiều
phương thức khác nhau, con người đang khơng ngừng tìm hiểu thế giới xung quanh
mình, các nền văn hố lân cận quốc gia mình hoặc những nền văn hố nổi tiếng thế
giới. Đọc, tìm hiểu văn hố thơng qua các tác phẩm văn học là cách đơn giản và nhanh
nhất để chúng ta có thể tương tác với những nền văn hố khác, tìm ra những điểm
giống, khác nhau trong nền văn hoá của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Văn hoá và văn học trong thế kỉ XXI này đã vượt qua biên giới lãnh thổ quốc
gia, sự phân biệt sắc tộc hay sự chênh lệnh trình độ phát triển để tới với tất cả mọi
người. Cũng chính bởi vậy sự giao tiếp văn hoá trong văn học càng ngày càng được
mở rộng. Thoát ra khỏi cương vực lãnh thổ của một quốc gia, với sự sáng tạo cũng
như trình độ kiến thức của mình, các tác giả đã cho các nền văn hoá khác nhau giao
tiếp, đối thoại với nhau. Đọc một tác phẩm văn học bất kỳ, ta sẽ tìm ra được kênh giao
tiếp giữa các nền văn hố trong tác phẩm ấy. Thông qua những con chữ được mài giũa
đẽo gọt cẩn thận của tác giả, ta sẽ nhìn thấy những quan niệm, biểu tượng, hình ảnh