ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỀ TÀI
SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG – 2009
TỘI ÁC CỦA TẬP ĐỒN PƠN PỐT – IÊNG XARY
TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
Ở AN GIANG ( 1977 – 1979 )
NGUYỄN HOÀNG BÁCH LINH
MSSV: 0664059 (Chủ nhiệm đề tài )
Các thành viên :
TRẦN THỊ NGỌC LINH
MSSV: 0664060
LÊ THỊ VỊ
MSSV: 0664124
NGUYỄN VĂN HỒNG
MSSV: 0664045
Người hướng dẫn khoa học :
TS. HÀ MINH HỒNG
TP. Hồ Chí Minh - 2009
Mục lục
DẪN LUẬN..................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài............................................................. 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................. 7
5. Giới hạn của đề tài ................................................................................... 7
6. Đóng góp mới của đề tài .......................................................................... 8
7. Bố cục của đề tài ...................................................................................... 8
Chương 1. Âm mưu của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary trong chiến tranh
xâm lược biên giới Việt Nam ....................................................................... 11
1.1 Bối cảnh lịch sử trên thế giới, Việt Nam và Campuchia sau cuộc
kháng chiến chống Mỹ 1975 ..................................................................... 11
1.1.1
Tình hình thế giới ..................................................................... 11
1.1.2
Campuchia sau ngày 17/04/1975 .............................................. 14
1.1.3
Việt Nam sau ngày 30/04/1975 ................................................. 16
1.2 Âm mưu của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary ...................................... 21
1.2.1
Vài nét về Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Campuchia............... 21
1.2.2 Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary xây dựng, củng cố thế lực và
thực hiện chính sách diệt chủng ở đất nước Campuchia .................... 23
1.2.3 Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary và những chuyển biến trong
mối quan hệ giữa Việt Nam – Campuchia ........................................... 31
1.2.4 Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary với âm mưu phát động chiến
tranh xâm lược biên giới Việt Nam...................................................... 35
Chương 2. Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary thực hiện chiến tranh xâm lược
và những tội ác dã man đã gây ra ở tỉnh An Giang .................................... 39
2.1 Vùng biên giới tỉnh An Giang trong mục tiêu xâm lược của quân
xâm lược.................................................................................................... 39
2.1.1
Vị trí chiến lược của tỉnh An Giang ......................................... 39
2.1.2 Khmer đỏ phát động chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam
Việt Nam ............................................................................................... 42
2.2 Quân xâm lược Pôn Pốt – Iêng Xary và tội ác man rợ gây ra ở An
Giang trong chiến tranh biên giới............................................................ 50
2.2.1
Ở Ba Chúc ................................................................................. 50
2.2.2
Các địa phương khác ................................................................ 53
2.3
Hậu quả chiến tranh biên giới ở An Giang .................................... 56
Chương 3. Quân và dân An Giang đấu tranh chống xâm lược và khắc
phục hậu quả chiến tranh ............................................................................ 59
3.1 Quân và dân An Giang đấu tranh chống xâm lấn biên giới (1975 –
1977) .......................................................................................................... 60
3.2 Phối hợp chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược Khmer đỏ (1977 –
1979) .......................................................................................................... 62
3.3 An Giang khắc phục hậu quả chiến tranh ........................................ 71
3.4. Chứng tích tội ác của Pơn Pốt – Iêng Xary .................................... 74
Kết luận......................................................................................................... 84
PHỤ LỤC...................................................................................................... 87
1
DẪN LUẬN
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại thắng mùa xuân 1975 đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt
Nam: đất nước được hoàn toàn độc lập, sự nghiệp thống nhất nước nhà sau hai
mươi mốt năm chia cắt bởi bọn đế quốc đã thành công, Bắc Nam sum họp một
nhà, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, tiếp tục xây dựng và
phát triển đất nước, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận quan trọng của
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Sau chiến tranh, tuy đất nước bị tàn phá hết sức nặng nề, tổn thất về
người và của vô cùng to lớn nhưng nhân dân Việt Nam ln đồn kết, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh quật cường của dân tộc đã hăng hái bắt
tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Cả
nước hy vọng từ đây có thể được sống yên vui và xây dựng Việt Nam vững
bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, một lần nữa nền
độc lập và hịa bình của chúng ta lại bị đe dọa nhưng lần này là do tập đồn Pơn
Pốt – Iêng Xary – lực lượng phản động ở Campuchia đã tiến hành chiến tranh
xâm lược Việt Nam từ vùng biên giới phía Tây Nam.
Sau nhiều biến động chính trị, tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary lên nắm
quyền lãnh đạo đất nước Campuchia đã thi hành những chính sách hết sức phản
động và cực đoan. Trong nước, chúng thực hiện chính sách diệt chủng, thẳng
tay giết hại chính đồng bào Khmer và những người khơng cùng chí hướng với
chúng. Về đối ngoại, Pơn Pốt với chính sách ngoại giao thù địch của mình,
tuyên bố xem Việt Nam như “kẻ thù số một, kẻ thù truyền kiếp”, là kẻ xâm
lược dân tộc Campuchia. Chúng liên tục tiến hành những hành động gây hấn,
xâm lấn vùng biên giới Việt Nam – Campuchia, khiêu khích quân sự, cướp phá
tài sản và giết hại đồng bào Việt kiều đang sinh sống trên đất Campuchia, nhân
dân Việt Nam ở những vùng mà chúng tiến quân; tuyên truyền, kích động nhân
dân Khmer sinh sống ở vùng Tây Nam Bộ nổi dậy bạo loạn, gây chia rẽ tinh
thần đoàn kết, gắn bó lâu đời giữa hai dân tộc. Đồng thời Pơn Pốt cịn bắt liên
2
lạc với những thế lực phản động, thù địch trong nước, nhất là ở khu vực Nam
bộ nhằm kết hợp tấn cơng từ bên ngồi và phá hoại cách mạng Việt Nam từ bên
trong...
Trong số những tỉnh biên giới gánh chịu trực tiếp những tổn thất, hậu
quả do tập đoàn Pôn Pốt Iêng Xary và tay sai gây ra, tỉnh An Giang có thể xem
là một trong những nơi thiệt hai về người và vật chất nặng nề và chiến sự diễn
ra khốc liệt nhất. An Giang cũng là nơi mở màn cho cuộc xâm lược trên quy
mô lớn của Pôn Pốt; đồng thời An Giang cũng là một trong những địa phương
đi đầu trong phong trào kháng chiến chống xâm lược.
Ngày nay, tuy cuộc chiến đã đi qua tròn 30 năm nhưng những gì mà bọn
diệt chủng Pơn Pốt đã làm, những nỗi đau, những tội ác mà chúng đã gây ra
cho nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân tỉnh An Giang nói riêng – nơi
gánh chịu hậu quả nặng nề nhất vẫn còn âm ỉ và hiện hữu bên cạnh cuộc sống
đời thường của người dân nơi đây. Những mất mát, đau thương ấy đã trở thành
vết thương khó có thể xóa nhịa trong tâm tưởng của những con người đã trải
qua những tháng ngày tàn khốc, dã man dưới gót giày, họng súng xâm lược của
bọn Pôn Pốt…
Bản thân người thực hiện đề tài là một sinh viên của khoa Lịch sử và
cũng là người con của quê hương An Giang kiên trung nên người nghiên cứu
quyết định chọn thực hiện đề tài “Tội ác của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary
trong chiến tranh biên giới ở An Giang (1977 – 1979)” với mong muốn đóng
góp một phần cơng sức nhỏ bé – trong khả năng nhận thức, lý luận và trình bày
- để làm rõ, phân tích bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế sau khi nhân dân
ba nước Đông Dương giành thắng lợi trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước; sơ lược đôi nét về Ban lãnh đạo Khmer đỏ và tội ác diệt chủng mà
chúng đã thi hành trên đất nước Campuchia; phân tích âm mưu, diễn biến và
kết quả của cuộc xâm lược do bọn phản động tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary gây
ra; thống kê và làm rõ những thiệt hại, mất mát, đau thương mà nhân dân quê
hương An Giang phải gánh chịu về vật chất và tinh thần; nêu lên những nhận
3
định, đánh giá của các tổ chức, cơ quan, cá nhân trong và ngoài nước về giai
đoạn lịch sử phức tạp này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chiến tranh biên giới Tây Nam Việt Nam những năm cuối thập niên 70
của thế kỉ XX gắn liền với những tội ác dã man, vơ nhân tính của chính quyền
Campuchia phản động, đặc biệt là đối với nhân dân An Giang do Pôn Pốt –
Iêng Xary cầm đầu đã được nhiều cơ quan, tổ chức cũng như cá nhân tổng hợp,
bình luận, đánh giá và lên án mạnh mẽ. Nhưng vì nhiều nguyên nhân khách
quan cũng như những cách nhìn nhận, khuynh hướng chính trị và thái độ khác
nhau nên hầu hết các tác phẩm hay bình luận này có những hạn chế nhất định,
có tác phẩm chỉ thiên về phân tích hoàn cảnh, diễn biến cuộc chiến, tác phẩm
khác lại đánh giá khái quát, chung chung hay chỉ tổng hợp những ý kiến khác
nhau về cuộc chiến…Hầu như chưa có tác phẩm phân tích cụ thể tội ác của bọn
Pơn Pốt đã gây ra trong chiến tranh cũng như mức độ tàn phá thảm khốc của
cuộc chiến này. Trong tỉnh An Giang chỉ có một số tác phẩm phân tích diễn
biến chiến sự xảy ra trên địa bàn tỉnh, tội ác của bọn Pơn Pốt ở một địa phương,
vẫn chưa có tác phẩm có sự tổng hợp những vấn đề cần được biết đến của cuộc
chiến tranh biên giới này.
Các công trình, tác phẩm có đề cập đến nạn diệt chủng Pôn Pốt và chiến
tranh biên giới Tây Nam Việt Nam có thể kể đến:
Trong nước :
Tác giả Trần Văn Đơng trong “Chứng tích tội ác Pơn Pốt – nhà mồ Ba
Chúc” của mình đã tổng hợp những chứng tích tội ác dã man của Pôn Pốt trong
giai đoạn đỉnh cao của cuộc chiến khi chúng tấn công và chiếm giữ vùng căn
cứ Bảy Núi, Ba Chúc, những số liệu thống kê về thiệt hại về người và vật chất
mà nhân dân xã Ba Chúc phải gánh chịu.
Trong “Địa chí An Giang tập I” – tài liệu lưu hành nội bộ của Ủy ban
nhân dân tỉnh An Giang đã phân tích q trình xây dựng, củng cố chính quyền
4
sau đại thắng mùa xuân năm 1975, trình bày diễn biến xâm lấn và tình hình
chiến sự vùng biên giới địa phương cũng như cuộc chiến tranh bảo vệ vùng
biên giới của quân và dân An Giang, phối hợp tác chiến với các đơn vị quân
đội khác để đánh đuổi quân xâm lược và làm nhiệm vụ quốc tế trong sáng.
Tác giả Nguyễn Quang Lê trong tác phẩm “Từ lịch sử Việt Nam nhìn ra
thế giới (lịch sử đối chiếu)” đã trình bày hồn cảnh cụ thể của nước ta hai miền
Nam Bắc sau khi giải phóng; tổng hợp các đợt tiến cơng chính của Pơn Pốt
trong chiến tranh biên giới Tây Nam và công cuộc kháng chiến chống xâm
lược của nhân dân Việt Nam.
Trong “Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000” do Bộ ngoại giao xuất bản
đã phân tích bối cảnh thế giới và trong nước sau năm 1975, những khó khăn,
thách thức cũng như thuận lợi của lịch sử đặt ra; trình bày một cách có hệ thống
diễn biến quá trình đấu tranh của Việt Nam với tập đoàn Khmer đỏ, chủ yếu là
trên mặt trận ngoại giao, đàm phán hịa bình và làm rõ thái độ ngoan cố, hiếu
chiến của tập đồn phản động Pơn Pốt cương quyết từ chối đàm phán và tiến
tới các hành động phiêu lưu quân sự chống Việt Nam.
Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng An Giang trong “Lịch sử bộ đội biên
phòng An Giang, tập II (1975 – 2005) (sơ thảo)” đã trình bày những nét tổng
quan về địa thế, vị trí chiến lược và những thách thức lịch sử đặt ra cho chính
quyền non trẻ An Giang phải đương đầu; phân tích các giai đoạn của cuộc
chiến biên giới của An Giang, những trận đánh, những thiệt hại về người và vật
chất và những tội ác chúng đã gây ra trong suốt cuộc chiến; Quá trình cầm cự,
chống trả và phản công đánh đuổi quân xâm lược khỏi biên giới lãnh thổ.
Các tác giả Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung với tác
phẩm “Lịch sử Campuchia (từ nguồn gốc đến nay)” đã cho độc giả một cái
nhìn tổng quan về bản chất chính trị phản động và tham vọng ngơng cuồng của
tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary, phân tích q trình ảnh hưởng và biến chất của
các lãnh tụ Khmer đỏ với các trào lưu tư tưởng trên thế giới. Tác phẩm còn
phác họa nên một bức tranh miêu tả khá đầy đủ những chính sách phản động,
5
diệt chủng, dã man mà tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary đã thực hành ở đất nước
Campuchia và cho đồng bào của chúng với các khía cạnh rõ ràng về sự lãnh
đạo Đảng, đời sống xã hội và văn hóa của nhân dân, cơ cấu kinh tế của đất
nước và chính sách đối ngoại phản động mà Khmer đỏ đã triệt để thi hành.
Ngoài nước :
Tác giả Charles Fourniau trong “Việt Nam như tôi đã thấy (1960 –
2000)” đã dành một đoạn trong tác phẩm để nêu lên cảm nhận không đầy đủ
của ông về thảm họa Khmer đỏ mà ông đã may mắn được chứng kiến.
Uyn-phrết Bớc-séc với tác phẩm “Tam giác Trung Quốc – Campuchia –
Việt Nam” đã cho chúng ta thấy được quá trình phát triển quyền lực của bè lũ
Pơn Pốt từ lúc cịn du học ở Paris đến khi nắm toàn quyền lãnh đạo Đảng và đất
nước; Trình bày những dẫn chứng tiêu biểu của những nạn nhân may mắn sống
sót về bản chất và những chính sách hết sức phản động, tàn bạo của tập đoàn
Khmer đỏ đã gây ra, những nhận định, đánh giá chung về chế độ lãnh đạo này.
Quá trình quan hệ, đàm phán và thái độ của các bên liên quan đến vấn đề biên
giới, những chủ trương và sự vu cáo của Khmer đỏ đối với Việt Nam. Ông còn
cho thấy một sự so sánh tương đối sát đáng giữa bọn phản động Pơn Pốt với
bọn phát xít Hítle trong thế chiến thứ II.
Norodom Sihanouk trong hồi kí “Người tù của Khmer đỏ” đã tường
thuật lại những sự thay đổi trên chính trường của Campuchia, cuộc sống của
một vị Quốc trưởng dưới chế độ phản động Pôn Pốt, thái độ ghê tởm và bất
hợp tác đối với Khmer đỏ cũng như phần nào những diễn biến mà Sihanouk
nắm được về chính sách và những “chiến tích” của chúng đã làm được. Ơng
cịn phân tích mối quan hệ cũng như mức độ ảnh hưởng giữa chính quyền
Phnơm Pênh và Bắc Kinh trong giai đoạn xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam
Việt Nam.
Hai tác giả Grant Evans - Kelvin Rowley “Chân lý thuộc về ai” đã có
những phân tích chi tiết về những phần nhỏ trong bức tranh chung tình hình lúc
6
bấy giờ. Hai ông đã đưa ra những dẫn chứng về cách giải thích nguồn gốc
chiến tranh của các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ, những mối quan hệ phức tạp,
chồng chéo giữa Campuchia với các nước, những mâu thuẫn, nguyên nhân của
cuộc chiến tranh và những chính sách diệt chủng mà chế độ Khmer đỏ đã thực
hiện gây những hậu quả hết sức nặng nề. Mối tương quan giữa Liên Xô –
Trung Quốc và Việt Nam, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc sau
những thay đổi mạnh mẽ và bất lợi,…
Ngày nay, nhiều vấn đề về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam vẫn còn
đang được tranh luận, những tội ác của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary đã gây ra
dần dần được đưa ra ánh sáng công lý, một mặt để phán xét về những gì chúng
đã gây ra cho nhân dân Campuchia và đồng bào Việt Nam trong những năm
cầm quyền, mặt khác đưa ra một thơng điệp hịa bình cho nhân dân u chuộng
hịa bình, tiến bộ trên thế giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Tổng hợp bối cảnh lịch sử thế giới, tình hình của Việt Nam và
Campuchia sau khi giành được độc lập năm 1975.
Giới thiệu sơ nét về những cá nhân lãnh đạo tập đoàn Khmer đỏ, diễn
tiến xây dựng, củng cố thế lực và nắm quyền chi phối đất nước, tiến hành
những chính sách phản động diệt chủng đối với đất nước và nhân dân
Campuchia. Sơ lược q trình âm mưu, diễn biến của tập đồn phản động
Khmer đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam Việt Nam. Tổng hợp quá trình
quân và dân An Giang kiên quyết chống trả hành động xâm lược của Pôn Pốt –
Iêng Xary, bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ.
Góp phần tổng hợp, đánh giá một cách khách quan về những tội ác diệt
chủng dã man cũng như những thiệt hại to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần mà
tập đoàn Pôn Pốt – Iêng Xary và tay sai đã gây ra cho nhân dân tỉnh An Giang
trong chiến tranh biên giới Tây Nam Việt Nam cuối thập niên 70 của thế kỉ
XX.
7
Thông qua việc tiếp cận và phỏng vấn nhân chứng lịch sử sống sót qua
nạn diệt chủng tàn bạo nhằm cung cấp thêm những hiểu biết, những sự thật và
cách nhìn một cách trực quan, sống động về giai đoạn lịch sử này ở tỉnh An
Giang. Góp phần nhắc nhở, tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, anh
hùng bất khuất chống ngoại xâm và tinh thần quốc tế cao đẹp của Việt Nam
cho thế hệ sau của Việt Nam nói chung và của tỉnh An Giang nói riêng. Đồng
thời trình bày những thực trạng hiện nay để có biện pháp lưu giữ, phát triển khu
lưu niệm Nhà mồ Ba Chúc như là một chứng tích tàn khốc về những gì đã trải
qua của nhân dân Việt Nam trong thời kì chống bọn diệt chủng Pơn Pốt.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Vận dụng cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, áp dụng
các phương pháp truyền thống trong nghiên cứu khoa học như phương pháp
lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, miêu tả, diễn
giải,… Ngồi ra cịn thực hiện phỏng vấn trực tiếp nhân chứng lịch sử.
Kết hợp với tham khảo tài liệu trong và ngoài nước; tiến hành khảo sát
thực địa và tham quan khu chứng tích chiến tranh Nhà mồ Ba Chúc – huyện Tri
Tôn – tỉnh An Giang.
5. Giới hạn của đề tài
Như tên đề tài đã xác định, đề tài sẽ phân tích hồn cảnh lịch sử trong
nước và quốc tế có tác động đến cuộc chiến cũng như những âm mưu và diễn
biến trước và trong chiến tranh của tập đồn Pơn Pốt, quá trình đấu tranh của
quân và dân An Giang chống xâm lược và tập trung nghiên cứu về những tội ác
dã man, vô nhân đạo mà bọn xâm lược đã gây ra cho nhân dân An Giang trong
giai đoạn chiến tranh biên giới Tây Nam, đặc biệt chú ý đối với địa bàn xã Ba
Chúc – huyện Tri Tôn là nơi bị tổn hại và mất mát nặng nề nhất; Trình bày suy
nghĩ của nhân chứng lịch sử về những tội ác mà Pôn Pốt đã gây ra.
Thời gian: Bên cạnh sơ lược những diễn biến từ khi Pôn Pốt bắt đầu âm
mưu gây hấn trên toàn vùng biên giới Tây Nam và trên mặt trận ngoại giao
8
giữa Việt Nam và Campuchia những năm đầu sau giải phóng, đề tài tập trung
nghiên cứu tình hình và những vấn đề xảy ra trong giai đoạn cao trào của cuộc
chiến, từ tháng 04/1977 cho đến khi đánh đuổi hoàn toàn giặc xâm lược ra khỏi
địa phận tỉnh An Giang đầu năm 1979.
Khơng gian: Đề tài tập trung phân tích tình hình, diễn biến và những tội
ác thảm khốc mà tập đồn Pơn Pốt gây ra trên địa bàn tỉnh An Giang mà tiêu
biểu nhất là tại xã Ba Chúc – huyện Tri Tơn.
6. Đóng góp mới của đề tài
Tổng hợp và phân tích một cách có hệ thống diễn biến chính trị, ngoại
giao, quân sự giữa Việt Nam và Campuchia trong chiến tranh biên giới Tây
Nam.
Phân tích những diễn biến chính của chiến tranh biên giới ở vùng An
Giang, công cuộc kháng chiến, kết quả cuộc chiến và hậu quả để lại.
Phân tích những tội ác dã man, thảm khốc mà tập đồn Pơn Pốt – Iêng
Xary đã gây ra cho nhân dân An Giang nói chung và đặc biệt là nhân dân An
Giang tại xã Ba Chúc – huyện Tri Tơn. Đồng thời trình bày những suy nghĩ,
thái độ của những người đã may mắn sống sót qua giai đoạn lịch sử đen tối này
cho mọi người và những thế hệ trẻ hiểu, cảm nhận, chia sẻ với những gì mà
nhân dân ta, đồng bào ta đã phải gánh chịu. Qua đó mong muốn góp phần cải
thiện và phát triển khu di tích tội ác Nhà mồ Ba Chúc như là một chứng tích
mạnh mẽ và sâu sắc về những tội ác bọn Pôn Pốt đã gây ra cũng như cảm
thơng, chia sẽ những khó khăn của cơ Hà Thị Nga – nhân chứng của giai đoạn
lịch sử đau thương này.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm 3 chương và phần kết luận.
9
Chương 1. Âm mưu của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary trong chiến tranh xâm
lược biên giới Việt Nam.
1.1 Bối cảnh lịch sử trên thế giới, Việt Nam và Campuchia sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ 1975
1.1.1 Tình hình thế giới
1.1.2 Campuchia sau ngày 17.04.1975
1.1.3 Việt Nam sau 30.04.1975
1.2 Âm mưu của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary
1.2.1 Vài nét về giới lãnh đạo Khmer đỏ
1.2.2 Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary xây dựng, củng cố thế lực và thực hiện
chính sách diệt chủng ở đất nước Campuchia
1.2.3 Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary và những chuyển biến trong mối quan hệ
giữa Việt Nam – Campuchia
1.2.4 Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary với âm mưu phát động chiến tranh xâm
lược biên giới Việt Nam
Chương 2. Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary thực hiện chiến tranh xâm lược và
những tội ác dã man đã gây ra ở tỉnh An Giang
2.1 Vùng biên giới tỉnh An Giang trong mục tiêu xâm lược của quân xâm lược
2.1.1 Vị trí chiến lược của tỉnh An Giang
2.1.2 Khmer đỏ phát động chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam
2.2 Quân xâm lược Pôn Pốt – Iêng Xary và tội ác man rợ gây ra ở An Giang
trong chiến tranh biên giới
10
2.2.1 Ở Ba Chúc
2.2.2 Các địa phương khác
2.3 Hậu quả chiến tranh biên giới ở An Giang
Chương 3. Quân và dân An Giang đấu tranh chống xâm lược và khắc phục hậu
quả chiến tranh
3.1 Quân và dân An Giang đấu tranh chống xâm lấn biên giới (1975 – 1977)
3.2 Phối hợp chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược Khmer đỏ (1977 – 1979)
3.3 An Giang khắc phục hậu quả chiến tranh
3.4 Chứng tích tội ác của Pơn Pốt – Iêng Xary
Kết luận
11
Chương 1. Âm mưu của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary trong chiến tranh
xâm lược biên giới Việt Nam
1.1 Bối cảnh lịch sử trên thế giới, Việt Nam và Campuchia sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ 1975
Ba nước trong bán đảo Đông Dương gồm Việt Nam, Lào, Campuchia
với một vi trí “núi liền núi, sơng liền sơng” vốn có một mối quan hệ khăng khít,
gắn bó trong xây dựng và kháng chiến, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả ba nước luôn tương trợ, chung vai sát
cánh cùng nhau đấu tranh, cùng nhau đoàn kết tạo nên những điều kiện và
thuận lợi to lớn góp phần quan trọng trong cơng cuộc kháng chiến. Lịch sử đã
chứng minh, cho dù bất cứ hoàn cảnh nào, âm mưu của bọn thực dân, đế quốc
có thâm độc, nham hiểm đến đâu hay sức mạnh vũ trang của bọn xâm lược có
mạnh mẽ, hiện đại đến đâu thì lãnh đạo và nhân dân ba nước Đơng Dương vẫn
ln thân ái, đồn kết và ln thể hiện tinh thần đồng chí, tất cả vì mục tiêu cao
nhất và duy nhất là đấu tranh cho độc lập dân tộc, giải phóng đất nước, tạo nên
những sức mạnh to lớn chiến thắng mọi kẻ thù.
Thế nhưng, cũng chính vì mối quan hệ khăng khít, gần gũi và do điều
kiện tự nhiên “nhạy cảm” như thế nên rất dễ bị các thế lực thù địch, phản cách
mạng và bọn đế quốc lợi dụng để gây ra những cuộc xung đột, những bất ổn về
chính trị và an ninh, những mâu thuẫn nhằm chia rẽ ba nước Đông Dương anh
em đễ dễ bề thơn tính và cai trị.
Chiến tranh biên giới Tây Nam giữa Campuchia và Việt Nam là một ví
dụ điển hình và đồng thời cũng là một bài học kinh nghiệm quý báu cho cách
mạng trong vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ dân tộc và giải quyết
những vấn đề nhạy cảm của vùng biên giới đất nước.
1.1.1 Tình hình thế giới
-
Thuận lợi :
12
Từ giữa những năm 1970, tình hình thế giới diễn ra những biến động lớn
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quan hệ quốc tế,… mở màn cho những
hướng phát triển và khuynh hướng khác nhau có tính chất bước ngoặc trong
mấy thập niên cuối thế kỉ XX.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy
quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nhiều nước trên thế giới: Nhiều công nghệ mới
ra đời: tin học, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ tự động,…; Sự phát
triển mạnh mẽ của những thành tựu khoa học công nghệ đã tác động sâu sắc
đến mọi mặt đời sống xã hội cũng như các mối quan hệ quốc tế và chính sách
đối ngoại của các quốc gia trên thế giới.
Sau thắng lợi của công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập và thống nhất
đất nước của ba nước Đông Dương đồng thời cũng là sự thất bại của đế quốc
Mỹ, cục diện quan hệ giữa các cường quốc trên thế giới có những biến chuyển
phức tạp. Nước Mỹ suy giảm thế và lực, khủng hoảng toàn diện về mọi mặt:
kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự,…Tây Âu và Nhật Bản nhân cơ hội vươn lên,
trở thành các trung tâm kinh tế mới của thế giới, cạnh tranh với Mỹ, các khối
quân sự, những mối quan hệ chính trị lệ thuộc với các cường quốc trở nên lỏng
lẻo, rời rạc hoặc tan rã. Các nước phương Tây có xu hướng độc lập, thốt ly
ảnh hưởng với Mỹ. Để đối phó với những thay đổi to lớn đó, Mỹ điều chỉnh
chiến lược: giảm cam kết ở bên ngồi, thúc đẩy hịa hỗn với các đối thủ chính,
tập trung giải quyết các vấn đề trong nước để củng cố lại địa vị của mình trong
hệ thống Tư bản chủ nghĩa 1.
Hệ thống Xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, đã và đang chiếm ưu thế
và chứng minh vai trị khơng thể thay thế của mình về kinh tế, chính trị, qn
sự, khoa học,… Liên Xơ phát triển mạnh mẽ và ở thế cân bằng chiến lược về
vũ khí với Mỹ. Liên Xơ tăng cường quan hệ đối thoại, hợp tác với châu Âu, mở
rộng ảnh hưởng với khu vực Mỹ Latinh, châu Á, châu Phi, quan tâm nhiều tới
Đông Nam Á, khu vực châu Á – Thái Bình Dương…Cịn ở Châu Á, Trung
1
Bộ ngoại giao (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.292.
13
Quốc bắt đầu thực hiện các chương trình cải cách, hiện đại hóa và mở cửa kinh
tế, đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, Nhật Bản và các nước phương Tây. Đồng thời
cũng chú trọng quan hệ với các nước thế giới thứ ba, các nước khu vực Đông
Nam Á,…
Sau cuộc kháng chiến chống xâm lược giành được thắng lợi vẻ vang của
dân ba nước Đơng Dương đã góp phần cỗ vũ phong trào đấu tranh, giải phòng
dân tộc trên thế giới phát triển, sôi nổi và rộng khắp. Nhiều nước được Liên Xô
và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa giúp đỡ đã xây dựng và phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vị thế của khối xã hội chủ nghĩa
được khơng ngừng nâng cao.
-
Khó khăn :
Tuy nhiên, tình hình kinh tế, xã hội và quan hệ giữa các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa cũng có những dấu hiệu khơng thuận lợi và bắt đầu xuất
hiện những mâu thuẫn phức tạp. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng
hết sức rộng rãi và tồn diện: kinh tế có chiều hướng trì trệ, sản xuất chậm và
xã hội không ổn định; quan hệ giữa Liên Xô và các nước khác trong hệ thống
xã hội chủ nghĩa bắt đầu có nhiều trục trặc, các nước có xu hướng ly khai, tách
dần ảnh hưởng của Liên Xơ, độc lập cho đất nước của mình…
Phong trào cộng sản quốc tế phát sinh nhiều ý kiến khác nhau về
phương hướng hoạt động và mục tiêu đấu tranh của các lực lượng cánh tả, xuất
hiện mơ hình “chủ nghĩa cộng sản châu Âu”.
Các nước mới giành được độc lập, các nước đang phát triển đều gặp khó
khăn, kinh tế kiệt quệ, nợ nần chồng chất và đa số đều phụ thuộc vào các nước
tư bản phát triển về kinh tế.
Các nước Đơng Nam Á điều chỉnh chính sách, nhấn mạnh hịa bình,
trung lập, duy trì tăng cường quan hệ với Mỹ, Nhật Bản và các nước phương
Tây; tiến hành cải thiện quan hệ với các nước trên bán đảo Đông Dương, Liên
14
Xô, Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác…nhưng vẫn tồn tại nhiều
vấn đề chưa thể giải quyết được.
Những thay đổi, những cuộc đấu tranh công khai hoặc ngấm ngầm đã
được triển khai mạnh mẽ giữa khối nước Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ
nghĩa. Đáng quan tâm hơn là chính trong nội bộ các nước cộng đồng Xã hội
chủ nghĩa mà trung tâm là cuộc tranh giành ảnh hưởng và quyền lãnh đạo các
nước Xã hội chủ nghĩa giữa Liên Xô và Trung Quốc – hai cường quốc lớn
mạnh trên thế giới đã gây tình trạng căng thẳng và khơng có lợi cho phong trào
cách mạng, giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới.
Tình hình trên bán đảo Đơng Dương chuyển biến xấu, những mâu thuẫn
đã nảy sinh bởi những nhận thức hạn hẹp của một số “cá nhân” sau Hiệp định
Giơnevơ. Đặc biệt là những thay đổi trên chính trường của Campuchia và
những âm mưu của các thế lực phản động nhằm vào Việt Nam.
1.1.2 Campuchia sau ngày 17/04/1975
Công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân
Campuchia đã dành được thắng lợi, nhân dân Campuchia tưởng chừng như có
thể bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới nhưng đất nước lại bị rơi vào tay
của tập đoàn phản động Pôn Pốt. Bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt, Pôn Pốt và bè
lũ của chúng đã nắm trọn quyền lãnh đạo Đảng và đất nước. Chúng thi hành
những chính sách hết sức dã man và phản động.
Trong nước, tập đoàn Pơn Pốt – Iêng Xary thực hiện những cải cách
tồn diện, biến đất nước thành những trại tập trung khổng lồ - các cơng xã nhân
dân, tồn dân đều bị lùa vào đó, phải lao động cực khổ như những người nơ lệ,
đời sống vơ cùng khó khăn và bị quản thúc hết sức chặt chẽ. Người dân khơng
cịn chút quyền tự do nào, đời sống xã hội rơi vào tình trạng đen tối, một màu
chết chóc bao trùm. Pơn Pốt tiến hành thanh lọc, loại trừ tất cả các đối tượng
mà chúng nghi ngờ là chống đối hay bị chúng quy kết là “phản động, tiêm
nhiễm những thói xấu”. Chúng thực hiện chính sách phân biệt đối xử thậm tệ
15
với nhân dân và cả chính sách phân biệt, tàn sát các dân tộc thiểu số trong
nước, phá hủy tất cả nhà thờ, chùa chiền, thánh đường tôn giáo, cấm triệt để
mọi hình thức tơn giáo, tín ngưỡng. Chúng tiêu hủy gần như hồn tồn những
phương tiện thơng tin liên lạc, mọi cơ sở vật chất khoa học, văn hóa,…Về kinh
tế, Pôn Pốt tập trung sản xuất phát triển nông nghiệp, phá hủy nhà máy xí
nghiệp và bắt giết tất cả các công nhân, kĩ sư… Mọi mặt đời sống xã hội đều bị
ảnh hưởng và tàn phá nghiêm trọng. Tất cả những chính sách đối nội này do
Pơn Pốt làm kiến trúc sư và đã được tóm tắt trong cuộc họp báo đầu tiên của
Pôn Pốt trả lời phỏng vấn các nhà báo Nam Tư năm 1978: “Chúng tôi xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà khơng có một kiểu mẫu nào cả. Chúng tôi không muốn sao
chép ai cả, chúng tôi sẽ dùng kinh nghiệm dành được trong quá trình cuộc đấu
tranh giải phóng. Khơng có trường học, các khoa với các trường đại học với
nghĩa cổ truyền tuy đã có trong đất nước chúng tơi trước giải phóng bởi vì
chúng tơi muốn xóa bỏ tất cả di tích của q khứ. Khơng có tiền, khơng có
bn bán vì nhà nước lo việc cung cấp cho tất cả công dân của mình. Chúng tơi
cũng khơng có tiền hoặc bn bán trong vùng đã được giải phóng. Các đơ thị
đã được bố trí lại bởi vì đó là cách mà mọi thứ phải được làm. Khoảng ba triệu
dân thành thị và nơng dân đang cố tìm nơi ẩn náu trong các thành thị để tránh
những tàn phá của chiến tranh. Chúng tôi không thể cung cấp lương thực cho
họ và cịn có những kế hoạch của đế quốc tổ chức các phong trào du kích và
một cuộc phản cách mạng ở các đô thị nông dân… Chúng tôi di tản các đơ thị;
chúng tơi bố trí nhân dân về vùng nơng thơn mà ở đó có thể đưa lại những điều
kiện sinh sống cơ bản cho bộ phận nhân dân dó của Campuchia mới. Vùng
nơng thơn sẽ là tiêu điểm chú ý của cách mạng chúng tôi và nhân dân sẽ quyết
định số phận của các đô thị…” 1.
Về đối ngoại, tập đồn Pơn Pốt thi hành chính sách đối ngoại hết sức
phản động. Chúng cắt toàn bộ liên lạc với thế giới bên ngồi, đóng cửa tất cả
các sứ quán, xua đuổi hay giết hại các cơ quan, tổ chức ngoại giao nước ngoài.
Từ chối tiếp nhận những viện trợ nhân đạo từ bên ngoài cho nhân dân, thực
hiện đường lối cực đoan, chống các nước Xã hội chủ nghĩa, ủng hộ chiến tranh
1
Grant Evans - Kelvin Rowley (1986), Chân lý thuộc về ai, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.143.
16
xâm lược nhưng lại hết lòng ủng hộ quan thầy Bắc Kinh – nước duy nhất được
chúng cho phép ngoại giao và nhận giúp đỡ.
Đối với Việt Nam – nước láng giềng anh em từng chung vai sát cánh
trong xây dựng và chiến đấu, Pơn Pốt thi hành chính sách thù hằn dân tộc, kích
động lịng căm thù của nhân dân Campuchia đối với nhân dân Việt Nam, tuyên
bố Việt Nam là “kẻ thù số một, kẻ thù truyền kiếp”, là kẻ xâm lược đất nước
Campuchia. Chúng liên tục có những hành động xâm lấn, gây hấn ở vùng biên
giới, giết hại, bắt bớ nhân dân Việt Nam vùng biên giới.
1.1.3 Việt Nam sau ngày 30/04/1975
-
Khó khăn :
Hậu quả của cuộc chiến tranh trường kì, khốc liệt đã tàn phá nặng nề
nền kinh tế quốc dân cả hai miền Nam – Bắc.
Miền Bắc: hầu hết các thành phố, thị xã đều bị đánh phá, trong đó 12 thị
xã, 51 thị trấn bị phá hủy hoàn toàn; 4.000 xã (trong tổng số 5788 xã) bị đánh
phá, trong đó có 30 xã bị phá hủy hồn tồn. Tất cả các khu cơng nghiệp bị
đánh phá nghiêm trọng, nhiều khu bị san bằng. Tất cả các nhà máy điện đều bị
đánh hư hỏng nặng; 5 triệu m2 nhà ở (chưa kể ở nông thôn) bị phá hủy. Tất cả
các tuyến đường sắt, 100% cầu, hệ thống bến cảng, đường biển, đường sông và
kho tàng đều bị bắn phá. Địch gây tổn thất 1.600 cơng trình thủy lợi, hầu hết
các nơng trường và hàng trăm nghìn ha ruộng vườn; giết hại 40.000 trâu bị;
đánh phá 3.000 trường học, 350 bệnh viện, trong đó có 10 bệnh viện bị san
bằng…
Miền Nam: hoàn toàn được giải phóng, cơ đồ của chủ nghĩa thực dân
kiểu mới của Mỹ và chính quyền tay sai ở Trung ương đã sụp đổ nhưng những
cơ sở của Ngụy quyền ở địa phương vẫn còn tồn tại. Chỉ các tướng lĩnh, nhân
viên cao cấp chạy thốt ra nước ngồi, cịn lại đa số đều bám trụ ở các địa
phương, chúng vẫn còn ngoan cố tìm cách chống phá cách mạng. Bên cạnh đó,
xã hội cũ mà bọn Ngụy quyền để lại với bao di hại nguy hiểm như: ma túy, lưu
17
manh, bụi đời, mại dâm, trộm cướp,… Tỉ lệ người mù chữ ở Sài Gòn chiếm tỉ
lệ lớn, đội ngũ thất nghiệp gần 1,5 triệu người. Nền kinh tế miền Nam lại phát
triển theo hướng Tư bản chủ nghĩa, thiếu cân đối và lệ thuộc trực tiếp vào viện
trợ của Mỹ 1.
Hàng loạt vấn đề trên các lĩnh vực cần phải được giải quyết, đặc biệt là
vấn đề thống nhất toàn vẹn đất nước, tổ chức bộ máy Nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở,…
Quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia rất căng thẳng, đặc biệt là với
Mỹ, Trung Quốc... Các thế lực thù địch vẫn ln tìm cách hoạt động, bắt liên
lạc với các nước đế quốc để ngấm ngầm chống phá cách mạng Việt Nam.
Trước đây, Việt Nam đã khá thành công trong việc cân bằng mối quan hệ giữa
hai đàn anh là Liên Xô và Trung Quốc, tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của cả
hai trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nhưng do
mâu thuẫn về việc tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Liên Xô nên Bắc
Kinh tăng cường sức ép sau Hiệp định Paris 1973 thì việc cân bằng đó trở nên
hết sức khó khăn. Kết quả, Hà Nội đáp lại những sức ép đó bằng việc tiến lại
gần hơn với Matxcơva – một bên ủng hộ vừa giàu hơn vừa ít địi hỏi hơn và
bằng cách khai thông với phương Tây 2. Điều này đã làm cho mối quan hệ giữa
Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu xấu đi một cách nghiêm trọng.
Sau thất bại cay đắng trong chiến tranh Việt Nam năm 1975, chính
quyền Mỹ thực hiện chính sách thù địch đối với Việt Nam. Sau ngày
30/04/1975, chính quyền Mỹ tiến hành phong tỏa tài sản của Việt Nam. Ngày
15/05/1975, Mỹ tuyên bố cấm vận thương mại, phủ quyết việc Việt Nam gia
nhập Liên Hiệp Quốc; gây áp lực, khó khăn về nhiều mặt cho Việt Nam.
Quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia chuyển biến theo chiều hướng
xấu khi lực lượng phản động Pôn Pốt – Iêng Xary lên nắm quyền lãnh đạo đất
1
Nguyễn Quang Lê, 2001, Từ lịch sử Việt Nam nhìn ra thế giới (lịch sử đối chiếu), NXB Văn hóa
thơng tin, Hà Nội, tr.540-542.
2
Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng An Giang, (sơ thảo) (2004), Lịch sử bộ đội biên phòng An Giang, tập
II (1975 – 2000), An Giang, tr.207.
18
nước Campuchia, dưới sự giật dây của các thế lực thù địch nước ngồi đã thực
hiện chính sách thù hần dân tộc, gây hấn và xâm lấn vùng biên giới Tây Nam
Việt Nam.
-
Thuận lợi :
Đất nước trải qua muôn vàn những khó khăn, chia cắt và chiến tranh kéo
dài cuối cũng đã giành được độc lập và hoàn toàn thống nhất, Bắc Nam sum
họp một nhà. Nhân dân rất phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng sẽ
nhanh chóng khắc phục hậu quả, xây dựng và phát triển tiến lên con đường Xã
hội chủ nghĩa, mang lại cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam
tháng 12/1976 đã đề ra đường lối chung cho cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn mới ở Việt Nam là: “Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kĩ thuật, cách mạng tư tưởng
và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học – kĩ thuật là then chốt; đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa, xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn
và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xun củng cố quốc phịng,
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt
Nam hịa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội” 1.
Về đối ngoại, Đại hội lần IV của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Ra sức tranh
thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết
thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa
học, kĩ thuật, củng cố quốc phịng, xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam; đồng thời tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội
1
Bộ Ngoại giao (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.294.
19
chủ nghĩa anh em và tất cả các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…” 1.
Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã nâng cao vị trí và uy thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Đảng và Nhà Việt Nam đã tăng cường mở
rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với các nước nhằm thu hút vốn, kĩ
thuật, thiết bị phục vụ cho công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng
lại đất nước. Việt Nam mở rộng quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa và
Không liên kết, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước Thế giới thứ ba:
Nepan, Mianma, Thổ Nhĩ Kì, Libi, Panama, Columbia,… tăng cường phát triển
quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn, vay dầu và lương thực, học hỏi kinh nghiệm
của Ấn Độ và các nước Arập. Số vốn tranh thủ từ năm 1976 đến 1980 là 1.036
tỉ đơla Mỹ.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng không ngừng tăng cường mở rộng quan hệ
với các nước Tư bản phát triển và các tổ chức quốc tế. Từ năm 1976, đại diện
Việt Nam đã đi thăm nhiều quốc gia ở Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản, Pháp, Phần
Lan, Đan Mạch,… tranh thủ viện trợ nhân đạo, viện trợ khơng hồn lại, thiết bị
kĩ thuật... Trong thời gian 1976 – 1980, Việt Nam đã tranh thủ được 2.263 tỉ
đôla Mỹ.
Đối với Liên Xô, Đảng cộng sản Việt Nam nêu cao chủ trương đoàn kết
và hợp tác tồn diện với Liên Xơ như “hịn đá tảng của chính sách đối ngoại”,
“là nguyên tắc, là chiến lược” trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam. Việt Nam đã tích cực, chủ động tăng cường quan hệ với Liên Xô và
đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể, tổng số viện trợ và cho vay của
Liên Xô cho Việt Nam từ năm 1975 đến 1980 trị giá hơn 2,4 tỉ rúp chuyển
đổi… 2.
1
Bộ Ngoại giao (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.295.
Bộ Ngoại giao (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.296297.
2
20
Từ năm 1975 đến 1977, Việt Nam đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao
với 23 nước, tham gia 33 tổ chức quốc tế và 19 điều ước quốc tế. Năm 1977,
Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hiệp Quốc. Ngày 29/06/1978, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế khối các nước
xã hội chủ nghĩa SEV, quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa có những bước phát triển mới mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Việt
Nam đã kí hàng loạt các Hiệp ước hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kĩ thuật và đã đạt
được nhiều kết quả to lớn.
Quan hệ giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN đã từng bước
được cải thiện, chuyển dần sang đối thoại và xúc tiến bình thường hóa. Hai bên
đã có những động thái tích cực nhằm tăng cường tìm hiểu và hợp tác thông qua
các chuyến thăm, Hội nghị cấp cao,…Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với tất cả các thành viên của ASEAN: với Indonexia (1964), Malaixia và
Xingapo (1973), Philippin (12/07/1976), Thái Lan (07/08/1976).
Tuy nhiên công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì Việt
Nam lại phải đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng trong quan hệ
quốc tế. Quan hệ Việt Nam và các nước láng giềng có chung biên giới xuất
hiện nhiều trắc trở và phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Các thế
lực thù địch trong và ngoài khu vực phối hợp chống phá Việt Nam.
Từ năm 1976, ở Đông Nam Á xuất hiện những tình hình chính trị diễn
biến hết sức phức tạp khi cuộc xung đột biên giới giữa Campuchia – Việt Nam
nổ ra. Tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary được sự hậu thuẫn của các thế lực phản
động bên ngoài đã gây hấn và phát triển thành chiến tranh quy mơ lớn. Chính
quyền Pơn Pốt – Iêng Xary đã huy động một lực lượng lớn quân đội chính quy
tiến công biên giới Tây Nam Việt Nam, sát hại dã man hàng nghìn người dân
Việt Nam vơ tội, lấn chiếm đất đai, có ý đồ tiến cơng đánh chiếm cả Thành phố
Hồ Chí Minh. Trong nước thì tập đồn Pôn Pốt – Iêng Xary tiếp tục thực hiện
21
chính sách diệt chủng, giết hại hàng triệu người dân Campuchia. Đất nước lại
phải đương đầu với những khó khăn và thử thách mới.
1.2 Âm mưu của tập đồn Pơn Pốt – Iêng Xary
1.2.1 Vài nét về Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Campuchia
-
Khiêu Xămpon:
Khiêu Xămpon sinh ngày 27/07/1931 tại Svey Rieng – là đại diện cho
giới trí thức Khmer đỏ, đứng đầu Nhà nước và là một trong những quan chức
quyền lực nhất.
Du học ở Paris, tham gia hoạt động và thành lập các tổ chức sinh viên
Khmer.
Năm 1959, bảo vệ luận án Tiến sĩ “nền kinh tế Campuchia và sự phát
triển công nghiệp”.
Khiêu Xămpon – Pôn Pốt – Iêng Xary tạo lập mối quan hệ thân thiết
trong thời gian ở Paris và sau đó thành quan hệ gia đình (Pơn Pốt và Iêng Xary
là con rể của gia đình Khiêu Xămpon) .
Năm 1970, Khiêu Xămpon tham gia thành lập Liên minh chính phủ
Hồng gia dân tộc Campuchia, giữ chức Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ
quốc phịng và trở thành Quốc trưởng trong đợt tuyển cử năm 1976. Nhưng
thực ra, Khiêu Xămpon là một nhân vật hữu danh vơ thực, chính Pơn Pốt mới
là người phụ trách các vấn đề quân sự ngay từ đầu và có quyền lực tối cao. Tuy
vậy, trong tập đoàn Khmer đỏ, Khiêu Xămpon là nhà tư tưởng tối cao, Iêng
Xary là người thực hiện và là liên lạc chủ yếu với Bắc Kinh và Hà Nội.
-
Iêng Xary:
Iêng Xary sinh ở Trà Vinh, Việt Nam, vợ là Khiêu Thirít – chị gái của
vợ Pôn Pốt.
22
Học tập và hoạt động cùng Pôn Pốt ở Paris. Từ giữa năm 1950 về nước
làm giáo viên, tham gia cách mạng.
Tháng 01/1963 được bầu làm Ủy viên Thường vụ trung ương Đảng.
Iêng Xary giữ các chức vụ phụ trách Ngoại giao và là đại diện của Campuchia
dân chủ tại Liên Hiệp Quốc.
Iêng Xary là tác giả của “Sách đen” – đây là sự tổng hợp đầy đủ nhất về
tư tưởng của ban lãnh đạo Khmer đỏ, nói lên sự man rợ mà chúng đã dùng để
thủ tiêu các đảng viên kì cựu của Đảng cộng sản Đơng Dương trước đây và
nhũng người ngay trong nội bộ ban lãnh đạo Khmer đỏ có sự nghi ngờ về sự
khơn ngoan, lợi ích và đạo đức của chúng. “Sách đen” là một mưu đồ rõ rệt
nhất của Khmer đỏ nhằm xuyên tạc, vu khống và chứng minh “sự thống trị của
Việt Nam”.
-
Pôn Pốt (Pol Pot):
Pôn Pốt – lãnh tụ của Đảng cộng sản Campuchia sinh năm 1925 trong
một gia đình phú nơng theo đạo Phật ở vùng Kamphong Thom. Cái tên Pol Pot
là chữ viết tắt của những từ Pháp khá đẹp đẽ: Politique Potentielle. Nhờ có họ
hàng với vua nên năm 1935, Pôn Pốt được đưa về Phnôm Pênh để học chữ ở
trường cơng giáo Ecole Miche. Sau đó vào năm 1947 được học bổng của chính
quyền thực dân đưa sang Pháp đào tạo.
Trong thời gian theo học ở Paris, Pôn Pốt tham gia Đảng cộng sản Pháp,
tham gia phong trào sinh viên và là thành viên chi bộ cộng sản bí mật của sinh
viên Khmer tại Paris (cịn được gọi là nhóm Paris). Lúc đầu Pơn Pốt chưa hề có
vai trị trong tổ chức chi bộ này.
Năm 1953, Pơn Pốt về nước tham gia nhóm của Sơn Ngọc Thành để
hoạt động. Trong năm này, Pôn Pốt cưới Khiêu Pônari – một giáo viên tư của
Phnôm Pênh và là khâu liên lạc trung gian giữa các đảng phái cánh tả hợp pháp
với phong trào cộng sản bí mật.