Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Lich su cac loai nhac cu Phan I va II Thang 122010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.17 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phần I – Piano</b>



<b>I.Sơ lược về đàn piano</b>


Piano là tên một nhạc cụ thuộc loại có bàn phím (keyboard), nhạc cụ gõ (percussion) hay nhạc cụ dây
(string), tùy thuộc vào cách thức phân loại. Đàn piano tạo ra âm thanh bằng cách gõ vào các sợi dây
thép bằng những chiếc búa bọc nỉ bật lên ngay tức thì để cho dây đàn tếp tục ngân vang ở tần số cộng
hưởng của nó. Những rung động này được truyền qua các cầu đến bảng cộng hưởng (soundboard), bộ
phận khuếch đại chúng. Âm vực của cây đàn piano ban đầu cũng chỉ có bốn, hay nhiều nhất là năm
quãng tám giống nhưở đàn harpsichord. Nhưng dần dần nó đã mở rộng tới trên bảy quãng tám vì
những thay đổi cấu trúc đàn đã cho phép lực căng tăng lên tới vài tấn.


Đàn piano được sử dụng rộng rãi trong âm nhạc phương Tây cho biểu diễn độc tấu, âm nhạc thính
phịng và nhạc đệm. Nó cũng rất phổ biến với vai trị một phương tện trợ giúp cho sáng tác và diễn
tập. Mặc dù không thể mang vác và giá thành đắt đỏ, sự đa dụng và hiện diện khắp nơi của nó đã
khiến nó nằm trong số những nhạc cụ quen thuộc nhất.


Từ piano là dạng rút gọn của từ pianoforte, hiếm khi được dùng ngoại trừ trong ngôn ngữ trang trọng
và có nguồn gốc từ cái tên gốc tếng Ý của nhạc cụ là gravicèmbalo col piano e forte, (có nghĩa


harpchichord với âm nhẹ và mạnh). Điều này có liên quan đến khả năng của đàn piano trong viêc tạo ra
các nốt ở các mức độ sắc thái khác nhau phụ thuộc vào tốc độ và lực nhấn phím.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

(toy piano), piano đặt sẵn chương trình (prepared piano), piano kỹ thuật số (digital piano)...


<b>II.Lịch sử phát triển đàn piano</b>
<b>1.Grand piano</b>


Những chiếc grand piano ngày nay được xây dựng trực tếp từ những chiếc đàn clavico _clavecin
(harpsichord) từ khoảng thế kỷ 16 và 17. Khoảng năm 1700, Bartolomeo Cristofori đã thử tạo ra một
chiếc đàn harpsichord mà có thể biểu hiện âm nhạc một cách truyền cảm hơn, và đã tạo ra một bộ


máy mà các búa gõ vào các dây, khác với đàn harpsichord là dùng quill (dụng cụ gảy đàn bằng ống lông)
để gảy. Một đặc trưng lớn khác ở đàn piano thời đầu của ơng là cơ cấu búa thốt, nó khiến cho búa
tách rời khỏi phím một khi các nốt được đánh lên, và rồi chơi lại ở một vận tốc khác hẳn, làm thay đổi
hẳn sự biểu cảm của chính các note đó. Những chiếc piano đầu tên của Critofori vẫn còn chứa đựng
rất nhiều nét giống với thiết kế của một cây đàn clavecin, cịn âm thanh thì phần nhiều vẫn như thế,
ngoại trừ việc là người chơi bấy giờ có thể chơi nhạc bằng việc nhấn vào bàn phím.


Các thiết kế của Critofori không được biết đến mãi cho đến những năm cuối của 1700, khi các bản thiết
kế piano của ông được xuất bản. Các nhà sản xuất như Gottfried Silbermann người Đức và học trị của
ơng là Christan Friederici và Johannes Zumpe bắt đầu phát triển piano với vai trò là một nhạc cụ độc
lập với clavecin. Mặc dù lúc đầu ko được ấn tượng cho lắm nhưng được J.S.Bach ủng hộ năm 1747.
Âm nhạc bắt đầu được viết riêng cho piano từ năm 1732 và kỷ ngun của nó với vai trị một nhạc cụ
dành cho biểu diễn bắt đầu.


Sự phát triển của grand piano sau năm 1750 diễn ra theo hai hướng cơ bản. Ở Anh, đàn piano được
thiết kế nặng hơn và phức tạp hơn, giống với những cây đàn ngày nay hơn. Ở Đức, một loại khác nhẹ
hơn và cấu trúc đơn giản hơn được biết đến như một cây đàn xứ Vienna, được nhà sản xuất Johann
Andreas Stein xây dựng, đó chính là những cây đàn mà Haydn, Mozartvà Beethoven đã chơi và soạn
nhạc trên đó.


Khi grand piano ngày càng phát triển, nó dần trở thành một nh ạ c c ụ độc lập và cần làm cho âm thanh
to hơn. Để tăng âm, các dây phải dầy hơn và bộ khung phải khoẻ hơn nữa, như thế có thể đạt được
một áp lực lớn hơn. Bộ khung của đàn piano thông thường được làm bằng gỗ, trở nên dày hơn và
nặng hơn và thanh chằng chéo giúp nó kiên cố hơn. Đến năm 1820, Thomas Allen thậm chí vẫn còn
dùng các ống kim loại để giữ căng các dây, và một nhà sản xuất thành công người Anh là John
Broadwood bắt đầu dùng các tấm bằng sắt để giữ cho chúng được căng lên, mà giờ đây các đĩa đó
phần lớn được làm bằng kim loại hơn là bằng gỗ. Năm 1825 Alpheus Babcock sáng chế ra khung bằng
gang và sau đó năm 1843, một người Mỹ là Jonas Chickering bắt đầu làm piano với một đĩa tròn vành,
một nét đặc trưng của các piano cánh ngày nay. Một sự phát triển đáng chú ý khác là việc chằng các
dây, được phát triển bởi Henri Pape năm 1828 và Steinway cấp bằng sáng chế năm 1859, ông đã đặt


các dây bass dài hơn lên cao hơn các dây kim, giúp cho các dây dài hơn ở trong hộp ngắn hơn và đặt
các dây bass ở giữa qua một bảng cộng hưởng (soundboard) để có một sự hồi âm tốt hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bechstein, Henry Steinway và Sebasten Erard, những công ty này hoàn toàn phát triển từ nền tảng của
mẫu đàn cánh đó tới năm 1821.


<b>2.Vertical piano</b>


Sự thử nghiệm đầu tên để tạo ra một vertcal piano đứng xảy ra khoảng vào giữa năm 1735 và 1745.
Một người Italia là Domenico Del Mela đã thiết kế một chiếc vertcal piano năm 1739 sử dụng một cấu
trúc đơn giản. Năm 1745 một người Đức là Christan Ernst Friederici lại tạo ra một loại nh ạ c c ụ được
biết đến là "Pyramid piano" (piano kim tự tháp), sở dĩ có tên như vậy là vì hình dáng đặc biệt của
chúng. Friederici xuất phát từ cây đàn grand piano vốn có và kết hợp thiết kế hình dáng của vertcal
piano, nâng các dây và soundboard lên vng góc với bàn phím và vì thế khiến chúng đứng thẳng, cịn
các trục lên dây ở dưới đáy của bộ dây, ngay trên các phím. Các cấu trúc piano mà Friederici sử dụng là
một phiên bản giản đơn hoá từ một thiết kế của Bartolomeo Christofori năm 1720, tuy nhiên bộ cơ của
Friederici thiếu mất các đặc trưng mô phỏng trong ngun bản của Christofori. Tồn khối nhạc cụ đó
được đặt đứng trên một cái bệ hoặc bàn và đằng trước có các cánh cửa có thể đóng mở tự động, để
lộ ra bộ dây và soundboard. Các thiết kế này mới chỉ kết hợp giữa grand và vertcal piano, sử dụng các
dây và soundboard của vertcal piano và bộ cơ của grand piano. Các mẫu này được đưa ra vào những
năm 1800 nhưng rất mờ nhạt và thua kém so với những mẫu sau này, và đến năm 1840, pyramid piano
và vertcal piano đã cùng đồng thời bị ngừng sản xuất.


Vertcal piano cịn tến hố đến tận cuối những năm 1780 với sự phát triển của một cấu trúc được
thiết kế hoàn toàn thẳng đứng, theo sự thẳng hàng của bộ dây và soundboard. Những chiếc đàn đầu
tên được gọi là một "stcker" (gai), vì có những cái stcker dài làm bằng gỗ nối mặt sau của phím tới
đầu cần. Đầu cần được dựng vng góc với bộ dây và bắt đầu một quá trình bằng việc đầu cần đập
trở lại các dây và cứ thế tếp tục quay lại. Nó được John Landreth thiết kế vào năm 1787 và được
William Southwell người Anh xây dựng và bổ sung năm 1798. Một sự phát triển quan trọng khác nữa là
dây chằng chéo, giúp cho các dây ở đàn vertcal piano dài hơn và cải thiện âm thanh. Năm 1831



Hermann Lichtenthal đã thiết kế ra một hệ thống mà ở đó búa được kiểm sốt bằng độ dài của dải
băng, như vậy sẽ không cần phải dồn các dây lên một cú đánh đơn lẻ nữa. Robert Wornum - người
Anh đã tnh lọc cơ cấu tape-check, đó là cơ sở cho các bộ cơ của vertcal piano ngày nay. Có 2 phương
thức chống rung bộ dây khác nhau đã được cải tến. Một cách là sử dụng hệ thống overdamper (giảm
âm quá mức), ở đó một dây kim loại dài được gắn với đằng trước của mỗi đòn bẩy trung gian để đi lên
và vượt qua đỉnh của các búa. Khi nhấn các phím, sợi dây sẽ chuyển động theo một liên kết để đặt một
miếng nỉ hình vng xuống các dây trước khi búa đập xuống và bật miếng nỉ trở lại khi không nhấn các
phím nữa. Hệ thống này tếp tục được sử dụng cho đến những năm cuối 1800 và rất phổ biến ở Anh
và Đức. Hệ thống chống rung thứ hai là một địn bẩy có bản lề, được nối tới đằng sau của mỗi máy búa
gần bộ dây, nó xoay miếng nỉ vng rời khỏi dây bằng một vịng xích tới địn bẩy trung gian. Thiết kế
này có hiệu quả hơn trong việc chống rung và được sử dụng ở các vertcal piano ngày nay. Mẫu vertcal
piano đã tương đối hoàn chỉnh và các cây đàn ngày nay cơ bản là khơng thay đổi gì so với những thiết
kế từ những năm đầu 1800 đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

dưới đất chứ ko phải trên một cái bàn nhưở pyramid piano). Hệ thống lên dây giờ đây được đặt ở
đỉnh của hộp đàn, với các dây chạy chéo xuống hộp đàn và được gắn chặt ở đáy. Bộ cơ và bàn phím
nằm ở trung tâm của bộ dây với một phím đẩy stcker lên cao và làm các búa chuyển động lại về hướng
các dây.


Những năm sau này, các nhà sản xuất đua nhau làm ra những chiếc đàn piano với những cải tến hoặc
biến đổi khác nhau. Có rất nhiều tên tuổi lớn trong làng sản xuất piano với những nhãn hiệu nổi tếng
và được tín nhiệm như : Broadwood, Baldwin, Marshall& Rose, Kemble,Yamaha, Kawai, Whelpdale &
Maxwell, Steinway, Wendl & Lung.... mà ở mỗi hãng, cây đàn lại có một phong cách hay đặc trưng riêng
biệt. Thế kỷ 20 đựơc nhìn nhận là có nhiều cuộc chạy đua về kỹ thuật và mẫu mã của cây đàn, hết
phóng to lại thu nhỏ, thêm một bộ phận này, bớt một bộ phận khác, tuy vậy, về tổng thể, những thay
đổi đó vẫn dựa trên những nguyên mẫu từ thế kỉ 19.


<b>Phân II – Violin</b>




<b>Lịch sử cấu tạo</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Cấu tạo cây đàn violin đã trải qua một số lần thay đổi. Khi quy mô nhà hát bắt đầu mở rộng vào giữa
thế kỉ 19, những nhạc cụ dây được yêu cầu phải phát ra âm thanh mạnh mẽ hơn, vì thế độ căng của
dây được nâng lên bằng cách ngả bàn phím xuống. Dây ruột mèo được sử dụng cho đến năm 1700 khi
dây sol thường được cuốn dây kim loại để tạo nên âm sắc sáng hơn. Đến nay dây thép đã trở nên phổ


biến.


<b>Lịch sử biểu diễn</b>


Vào thế kỉ 14 và thế kỉ 15 những người nông dân kéo đàn cho những điệu nhảy vốn đã là một phần
quen thuộc của đời sống nông thôn. Tuy nhiên sáng tác âm nhạc phát triển trong và sau thời kì Phục
hưng đã làm cho violin trở thành một bộ phận chủ chốt của dàn nhạc, còn những nhà soạn nhạc như


Monteverdi đã bắt đầu sử dụng nó một cách rộng rãi trong dàn nhạc vào thế kỉ 17. Cho đến khi đó nhạ c
c ụ chủ yếu là các đàn dây thuộc họ viol &ndash; những nhạc cụ có bề ngồi giống nhưng có cấu tạo
khác violin &ndash; nhưng âm sắc cao của violin và khả năng chơi những giai điệu nhanh và chính xác
lại thích hợp hơn cho thứ âm nhạc mới được sáng tác vào thời Baroque. Năm 1700 Archangelo Corelli
đã viết sáu bản sonata nhà thờ và sáu bản sonata thính phịng cho violin và dàn nhạc quy mơ nhỏ. Bộ


tác phẩm opus 5 này là một bản tổng kết cho các thể loại trong thế kỉ trước đó và đã được biểu diễn
trên toàn châu Âu. Trong những năm tếp theo sự khác biệt giữa nhạc nhà thờ và nhạc thính phịng đã
biến mất.


Nhiều nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ violin như Vivaldi, Tartni và Locatelli đã tạo nên những tác phẩm cho
violin với độ phức tạp ngày càng cao. Tổ khúc Le quattro stagioni (Bốn mùa) của Vivaldi được viết vào
năm 1725 nổi tếng vào thời đó cũng khơng kém gì ngày nay. Bản thân Vivaldi là một nghệ sĩ violin thiên
tài; có những lúc ông đã làm kinh ngạc khán giả khi chơi những điệu nhạc mà nhiều người xem là
không thể chơi. Vậy mà ơng cịn sáng tác đến 220 bản concerto khác cho violin mà nhiều bản trong số


đó đã chứng tỏ kĩ thuật và hòa âm đầy sáng tạo của Vivaldi.


Âm nhạc cho violin độc tấu đã có bước phát triển rất dài từ những điệu nhảy đồng quê, và cho đến
cuối những năm 1600 những nhà soạn nhạc như Biber đã viết nên những bản nhạc dài hơn cho violin.
Sáu bản sonata và partta cho violin được J.S. Bach sáng tác năm 1720 đến nay vẫn được xem là nền
tảng cho trình diễn độc tấu, có một khơng hai cả về khía cạnh nghệ thuật và kĩ thuật của nhạ c c ụ này.
Bộ tác phẩm âm nhạc này có quy mơ khá lớn: mỗi partta hoặc sonata bao gồm một số chương nhạc;
riêng bản partta số 2 có chương cuối là một bản chaconne &ndash; một tác phẩm dài 15 phút nhưng
có tầm cỡ đến nỗi Brahms và Busoni sau này đã phổ thành bản nhạc cho piano.


Kĩ thuật chơi violin đã phát triển rất nhanh chóng do địi hỏi ngày càng cao của âm nhạc. Mozart đã
biểu diễn violin chuyên nghiệp khi còn rất trẻ và đã viết 26 sonata cho violin và đàn phím cùng 5 bản
concerto trong đó 3 bản cuối cùng đã trở thành những tác phẩm hoà nhạc mẫu mực. Bản concerto
được ưa chuộng nhất là bản số 5 với chương III được mang tên Hành khúc Thổ Nhĩ Kì.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

mạnh sự hịa hợp giữa người chơi đàn phím và nghệ sĩ độc tấu. Concerto cho violin của Beethoven đã
đặt ra một nền tảng mới. Mặc dù vậy Concerto cho violin của Beethoven đã không được hiểu một cách
trọn vẹn cho đến khi Joseph Joachim &ndash; một nghệ sĩ violin trẻ tuổi &ndash; hồi sinh tác phẩm
trong một buổi hòa nhạc do Mendelssohn chỉ huy vào năm 1844.


Joachim đã được nhiều nhà soạn nhạc đề tặng tác phẩm như Mendelssohn, Dvorak, Bruch, Brahms và
Schumann. Bản Concerto số 1 của Bruch và bản Concerto của Mendelssohn là hai bản nhạc nổi tếng
nhất trong số đó. Tuy nhiên tác phẩm của Schumann &ndash; được viết khi tác giả đang đau ốm
&ndash; là một nỗi thất vọng lớn đến nỗi Joachim vẫn giữ bản nhạc nhưng khơng biểu diễn vì lo ngại
sẽ làm hỏng thanh danh của nhà soạn nhạc thiên tài ấy. Bản Concerto của Brahms được Brahms và
Joachim hợp tác để viết nên được nhiều người coi là bản concerto cho violin chuẩn mực.


Concerto cho violin của Tchaikovsky được viết năm 1878 là một tác phẩm khó và cũng được ưa chuộng
khác, nhưng đứng đầu về độ khó kĩ thuật phải kể đến những bản capriccio độc tấu được Nicolo
Paganini sáng tác vào đầu thế kỉ 19. Kĩ thuật của Paganini gây sửng sốt đến nỗi người ta cho rằng xác


của ông đã không được chôn tại Nice trong vùng đất thánh do tn đồn khả năng ơng có được là do ma
quỷ. Paganini có lẽ là nghệ sĩ violin chơi nhanh và kĩ thuật nhất từ trước tới nay: ông chơi bản Moto
perpetuo của chính mình trong vịng 3:03 &ndash; tương ứng với 12 nốt một giây &ndash; điều này
được ghi trong sách kỉ lục Guinness.


Thế kỉ 20 chứng kiến nhiều bản concerto cho violin mới tham gia vào kho tàng vốn đã rất khổng lồ, và
hầu như tất cả những nhà soạn nhạc lớn đều đã từng viết thể loại này: Sibelius, Glazunov, Reger, Elgar,
Bloch, Nielsen, Delius, Szymanowski, Schoenberg, Hindemith, Bartok, Walton, Britten, Berg, Stravinsky,
Prokofiev, Khachaturian, Shostakovich... Những tác phẩm này phản ánh khá rõ tâm tư của người sáng
tác. Concerto số 2 của Bartok được nhìn nhận như một trong những tuyệt tác của thế kỉ và được biểu
diễn khá rộng rãi bất kể độ khó bất thường về kĩ thuật và nhạc cảm của nó. Concerto số 1 của


Shostakovich được viết tặng David Oistrakh, được cất giấu trong ngăn kéo từ 1948 đến 1955 vì lí do
chính trị. Trong khi Concerto của Elgar mơ mộng về một thế giới khơng có thật thì các sonata cho violin
của Ravel lại phảng phất nét buồn. Concerto của Berg dù không được đón nhận từ buổi ra mắt do giai
điệu khó nghe của nó đã được xem là một kiệt tác hiện đại và được đánh giá là ấm áp và cảm động.
Schoenberg đã nói rằng bản Concerto của ơng địi hỏi người chơi phải dùng 6 ngón tay. Concerto của
Khachaturian, tuy khơng có được danh tếng tương xứng, là một tác phẩm mạnh mẽ và lôi cuốn, lấy
cảm hứng từ âm nhạc của Armenia.


</div>

<!--links-->
Các loại dụng cụ thông thường trong phẫu thuật
  • 7
  • 16
  • 239
  • ×